66
‘Chuyển mạch nhãn đa giao thức MPLS
3.1.2. Định tuyến phân cấp
Cần nhắc lại rằng một trong số các mục tiêu của Tag Switching là làm dễ dàng tính
chất phát triển của hệ thống định tuyến. Tag Switching giải quyết vấn đề này bằng việc sử
dụng phân cấp kiến thức định tuyến. Để có thể hiểu được cái gọi là
định tuyến phân câp
(Hierarchy o f routing), chúng ta sẽ xem lại vài khía cạnh của kiến trúc định tuyến.
Kiến trúc định tuyến được sử dụng ngày nay ữên Internet là một sự tập trung của các
miền định tuyến, khi định tuyến trong từng khu vực thì được cung cấp bởi các giao thức
định tuyến trong miền (như OSPF, RIP, EIGRP), khi định tuyến qua nhiều miền thì được
cung cấp bởi các giao thức đa miền (như BGP). Một lợi điểm của việc chia định tuyến thành
hai thành phần trong và đa miền là làm giảm số lượng thông tin định tuyến mà được duy trì
bởi router, và điều này cho phép dễ dàng phát ứiển định tuyến. Tuy nhiên, sự chia tại cấp độ
giao thức định tuyến không đưa ra một sự phân chia hoàn toàn thông tin định tuyến. Rõ ràng
hơn, mỗi router trong miền định tuyến trung chuyển (là một miền mà mang lưu lượng chi đi
qua nó) phải duy trì trong bảng định tuyến của nó tất cả các router được cung cấp bởi các
giao thức đa miền, bất kể đến đó là các router ứong miền hay là các router ở rìa. Duy trì tất
cả các router được cung cấp bời định tuyến đa miền trong tất cả các router trong miền là cẩn
thiết để định tuyến các lưu lượng trung chuyển qua miền.
Chú ý là các router trong miền trung chuyển căn bản chi chuyển các gói từ một một
router rìa này đến một router rìa khác, nhưng dường như có sự lãng phí cho chúng khi phải
duy trì một bảng định tuyến đầy đủ cho tất cả các router trên Internet.
Tag Switching cung
cấp một phương tiện mà nhờ đó các router trong miền trung chuyển cỏ thể chi lưu những
thông tin định tuyến mà chúng cần, nghĩa là đủ để gửi các gỏi tin đến router rìa phải, là nơi
mà các thông tin định tuyến đầy đủ vẫn phải duy trì. Rõ ràng hơn, các router ở trong của
một miền sẽ chi phải duy trì thông tin của những router đến đích trong một miền hom ỉà phải
duy trì tất cả các đích trên Internet. Do đó chúng ta có thể coi đây là một bước tiến của sự
phân chia định tuyến thành phần trong và đa miền.
Bỏ đi sự cần thiết cho các router ở trong phải duy trì thông tin định tuyến đa miền là
sự ổn định định tuyến nhanh hơn. Một lý do cho điều này là khi một router đa miền thay
đổi, bằng cách sừ dụng sự phân cấp kiến thức định tuyến, chỉ các router ở rìa, chứ không
phải các router ở trong, phải cập nhật thông tin về sự thay đổi. Và càng nhiều router cần
phải cập nhật thì ỉàm hệ thống càng ỉâu ổn định.
Một nguyên nhân khác để thấy tại sao bỏ đi sự duy trì các thông tin định tuyến đa
miên làm sự định tuyên mau ôn định là khi một router ở ừong khởi động, với sư phân cấp
kiên thức định tuyên, nó chi cân thiêt lập những router đến các router trong cùng miền của
nó mà không cân phải thiêt lập tât cả các router trong đa miền, điều này làm cho sự ftinh
tuyến lâu ổn định.
Bỏ đi sự duy trì các thông tin định tuyến đa miền còn cung cấp sự tránh lỗi tốt hem, vi
các router bên trong sẽ hoàn toàn bỏ qua bât kỳ vấn đề nào trong định tuyến đa miền. Nhanh
ổn định và tránh lỗi tốt sẽ làm dễ dàng cho vấn đề phát triển.
Sự xây dựng TFIB để hồ trợ một phân cấp định tuyến được dựa trên những thủ tục
được dùng đe hô trợ định tuyến dựa địa chi đích của Tag Switching. Tất cả TSR trong một
miên đinh tuyên cùng dùng chung các giao thức định tuyến trong miền và sừ dụng các thủ
tục mô tả ở phân trước đê xây dựng TFIB của nó cho các FEC liên kết với những đích trong
Chương 3: Chuyển mạch nhãn đa giao thức MPLS
67
miền, là các TSR ờ rìa của miền đó. Bởi vì một router ở rìa vào có thể xác định router ở rìa
ra ờ đâu để nó có thể gửi gói tin, gói tin này có thể được chuyển mạch nhãn trên tất cả các
đường đến đầu ra của miền bởi các TSR ở trong.
Để một TSR ở rìa có thể thực hiện được chuyển mạch thẻ, tất cả các TSR ở rìa trong
cùng một miền và những TSR ở rìa được nối trực tiếp trong các miền khác nhau có thể tạo
và trao đổi thông tin kết hợp thẻ cho mỗi router (và FEC liên kết với router đó) được nhận
qua protocol đa miền (BGP). Một lần nữa, sự tạo và trao đổi thông tin kết hợp thẻ này theo
các thủ tục được mô tả ờ phần trước, ngoại trừ phần trạm kế TSR được tạo ra bao gồm TSR
ở rìa tiếp theo. Khi một TSR ờ rìa, TSR A, nhận thông tin kết hợp thẻ từ TSR ở rìa khác,
TSR B, và TSR A có kết hợp trong cho FEC mang trong thông tin kết hợp thẻ nhận được từ
B, TSR A kiểm ưa xem TSR B có là TSR ờ rìa tiếp theo cho FEC này (thông tin cần thiết
cho sự kiểm tra này được cung cấp bởi BGP). Nếu đúng như thé, TSR A xác định một mục
ừong TFIB của nó mà chứa sự kết hợp cho FEC và cập nhật thẻ ra ữong mục bằng với thẻ
mang trong thông tin kết hợp thẻ.
Ket quả của các thủ tục mô tả ở trên, TFIB của một TSR ờ rìa chứa các mục cho
những FEC cho cả các router trong miền và đa miền, ứong khi đó TFIB của các TSR ở
trong chi chứa mục cho những FEC cho các router trong miền.
Để hỗ trợ định tuyến khi có sự phân cấp định tuyến, Tag Switching cho phép một gói
sẽ mang nhiều hơn một thẻ, được tổ chức thành một
chồng thẻ (tag stack). Khi một gói được
định tuyến từ một miền định tuyến tới một miền định tuyến khác, chồng thẻ chứa hai thẻ. Để
tìm mục trong TFIB để có thể được định tuyến, một TSR luôn luôn sừ dụng thẻ ở trên cùng
của chồng thẻ. Khi một gói mang một chồng thẻ, TSR, ngoài việc trao đổi thẻ. ở đầu chồng,
còn có thể lấy ra hay thêm vào thẻ vào chồng thẻ. Việc lấy ra hay thêm vào thẻ xảy ra ở biên
giới các miền. Tại đầu vào miền, một thẻ được thêm vào chồng thẻ, và tại đầu ra, thẻ được
lấy ra khỏi chồng.
Để rõ ràng hơn về việc Tag Switching hỗ trợ như thế nào về sự phân cấp kiến thức
chuyển mạch nhãn, ta xét một ví dụ trong hình 3.2. Miền định tuyến A bao gồm hai TSR ờ
rìa, TSR T và TSR w , và hai TSR ở trong, TSR X và TSR Y. Có một tập các đích (tiền tố
địa chi) trong miền định tuyến
Chia sẻ với bạn bè của bạn: