Chương 3: Chuyển mạch nhãn đa giao thức MPLS
63
các giao thức định tuyến ừạng thái liên kết (link-state routing protocol) (như OSPF), sự
phân bố thông tin kết hợp thẻ được cung cấp qua một giao thức riêng, gọi là giao thức phân
bố thẻ (Tag Distribution Protocol: TDP). Nguyên nhân là với các giao thức định tuyến trạng
thái liên kết, thông tin định tuyến bao gồm các tập router (có cả các router không kề nhau),
trong khi đó thông tin kết hợp thẻ thường đuợc phân bố giữa các router kề nhau. Điều này
làm cho các giao thức định tuyến trạng thái liên kết không phù hợp cho việc đặt thông tin
kết hợp thẻ vào. Cũng như vậy đối với các giao thức vector khoảng cách như RIP. Thực tế,
ngay cả với các giao thức như RIP hay RIP-II, thì việc phân bố thông tin kết hợp thẻ vẫn chi
nhờ vào TDP, lý do là rất khó sửa đổi các giao thức này. Tuy nhiên khi ánh xạ được tạo
thành nhờ vào BGP thì thông tin két hợp thẻ có thể đặt vào đầu BGP như là một phân bố
riêng của BGP. Bởi vì BGP phân bố thông tin về tiền tổ địa chỉ (FEC) và được mở rộng đủ
để cho phép mang thêm thông tin về thẻ.
Để TSR phân bố thông tin kết hợp thẻ, TSR phải biết tập các TSR mà thông tin này
được gửi tới. TSR xây dựng tập này bằng các giao thức định tuyến chạy trên TSR. TSR tạo
một quan hệ định tuyến ngang cấp cho các TSR trong một tập đó.
Để hiểu rõ Tag Switching hồ trợ định tuyến dựa vào địa chỉ đích, chúng ta xem xét
một ví dụ trong hình 3.1. Giả sử là có các địa chỉ đích (biểu diễn bởi tiền tố địa chi
192.6/16) được nối trực tiếp tới TSR E, và giả sử (khi tất cả các liên kết đều hoạt động) cả
hai TSR B và TSR D dùng TSR E là trạm kế cho FEC liên kết với 192.6/16, TSR A dùng
TSR B như là trạm kế cho FEC này, và TSR
c
sử dụng TSR D là trạm kế cũng
cho FEC
này. Mỗi TSR có ba giao diện, được ghi là IfO, Ifl, If2. Trong ví dụ này, chúng ta giả sử tất
cả TSR duy trì bảng TFIB của nó, cũng như tập nhãn tự do trên mỗi TSR (không phải là trên
mỗi giao diện).
Hình 3.1: Định tuyển dựa vào địa chi đích cùa Tag Switching [1].
Chia sẻ với bạn bè của bạn: