Ủy ban nhân dân tỉnh quảng ninh sở khoa học và CÔng nghệ


III. Nhận xét chung về những yêu cầu đặt ra cho phát triển KH&CN



tải về 1.15 Mb.
trang9/16
Chuyển đổi dữ liệu06.08.2016
Kích1.15 Mb.
#14404
1   ...   5   6   7   8   9   10   11   12   ...   16

III. Nhận xét chung về những yêu cầu đặt ra cho phát triển KH&CN

1. Tình hình quốc tế, khu vực


Quảng Ninh có một vị trí địa lý đặc thù về đường biên, vùng biển với các tiềm năng thế mạnh cần được khai thác phát triển mạnh trong bối cảnh quốc tế hội nhập ngày càng cao; cũng như phải thực thi các cam kết, các điều ước quốc tế đã tham gia ký kết. Với đặc thù này, Quảng Ninh phải phát triển kinh tế theo mô hình mở, tạo điều kiện cho việc giao lưu, hội nhập và tự do hóa các hoạt động kinh tế trên phạm vi và quy mô nhất định. Để làm được việc đó, Quảng Ninh phải tạo được sự an toàn đầu tư để thu hút các nhà đầu tư trong hoạt động sản xuất công nghiệp, xuất nhập khẩu, đánh bắt, nuôi trồng thuỷ sản, vận tải biển, kinh tế biên mậu và du lịch. Quảng Ninh cũng cần hình thành và phát triển các Khu hành chính – kinh tế đặc biệt, Khu kinh tế thương mại tự do về dịch vụ hiện đại, kinh tế biên mậu, kinh tế biển kết hợp với công nghiệp giải trí, tạo sức thu hút cao đầu tư nước ngoài (Móng Cái, Vân Đồn). Với các khu đó, Quảng Ninh sẽ nhanh chóng phát huy được tiềm năng của mình và trở thành cực tăng trưởng mạnh tương xứng với Trung Quốc trong hợp tác hình thành hai hành lang, một vành đai kinh tế Việt Nam – Trung Quốc; cầu nối ASEAN – Trung Quốc; trung chuyển Đông Bắc Á và Đông Nam Á.

Các nước xung quanh (Trung Quốc, Đài Loan, Thái Lan, Malaysia, Hàn Quốc, Nhật Bản) đều có Chiến lược/Quy hoạch phát triển KH&CN, trong đó xác định các lĩnh vực, trình độ công nghệ, sản phẩm công nghệ ưu tiên phát triển với các tiềm năng thế mạnh của họ đến 2020,… Trong đó, có nhiều điểm tương đồng với phát triển KT–XH, KH&CN của Quảng Ninh. Do vậy cần học tập, tranh thủ tri thức KH&CN của nước bạn, tranh thủ các công nghệ mới của các nước xung quanh thông qua các con đường hợp tác KH&CN; mua bán, chuyển giao công nghệ; tình báo công nghệ; thu hút đầu tư… Qua đó nhằm đẩy mạnh hoạt động chuyển giao, ứng dụng, đổi mới công nghệ của doanh nghiệp; chấn hưng tinh thần kinh thương, khuyến khích các doanh nhân trong Tỉnh triển khai các dự án sản xuất các sản phẩm mới, phát triển các ngành, lĩnh vực mới, đặc biệt là các ngành sản xuất các sản phẩm trong lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ phụ trợ trên cơ sở tranh thủ được công nghệ mới, tiên tiến, hiện đại từ nước ngoài; thu hút những nhà đầu tư của các nước nêu trên và các nước khác (Mỹ và Châu Âu) triển khai những dự án sản xuất – kinh doanh lớn có ý nghĩa về kinh tế và công nghệ tại những vùng đặc khu kinh tế của tỉnh Quảng Ninh.

Sự phục hồi kinh tế của Mỹ và khu vực đồng tiền chung châu Âu vẫn chưa rõ ràng có thể gây cản trở cho các nhà đầu tư thâm nhập các nền kinh tế mới nổi, dòng vốn trở nên hiếm hoi và cuộc chạy đua FDI gay gắt hơn làm ảnh hưởng đến thu hút vốn và công nghệ của Quảng Ninh. Việc thành lập cộng đồng Kinh tế ASEAN vào 2015 để tạo lập một môi trường tự do kinh doanh hàng hoá, dịch vụ, nhân lực, FDI, vốn. Sự hợp tác này tạo ra nhiều cơ hội thương mại giữa ASEAN và EU, Mỹ nhưng cũng tạo ra nhiều thách thức đối với người dân Quảng Ninh ngay trên mảnh đất của mình.

Xu thế dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn trong thời gian tới do nguồn đầu tư có nguy cơ sụt giảm trong tương lai gần. Năm 2012 theo A.T. Keamey, Việt Nam đã giảm 2 hạng từ 12 (2010) xuống 14 (2011) về Chỉ số lòng tin đối với FDI (năm 2010 Việt Nam có chỉ số lòng tin cao hơn các nước Singapore, Indonesia, Malaysia, nhưng năm 2012 xuống thấp hơn các nước này; Trung Quốc có chỉ số 1, chiếm lòng tin cao nhất cả 2 năm). Điều này sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến thu hút đầu tư vào Quảng Ninh. Mặc dù sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài tới khu vực kinh tế biên mậu, kinh tế biển, du lịch và lâm – thuỷ sản ngày càng cao. Chỉ còn lại một con đường, Quảng Ninh cần tạo điều kiện tốt về cơ chế, chính sách đặc thù, kết cấu hạ tầng thuận lợi, đất đai và nguồn nhân lực phù hợp, có các đặc khu kinh tế với cơ chế đặc biệt để thu hút đầu tư nước ngoài thì cơ hội hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài vào Quảng Ninh mới có cơ hội tăng lên và Quảng Ninh sẽ giải quyết được vấn đề thiếu vốn đầu tư cho phát triển kinh tế bằng con đường thu hút vốn từ bên ngoài. Các đặc khu kinh tế với cơ chế, chính sách đặc thù sẽ trở thành động lực cho phát triển KT–XH của Quảng Ninh trong thời ký tới.


2. Tình hình của Quảng Ninh


Từ tình hình thực trạng phát triển KT–XH của Quảng Ninh: chỉ số ICOR cao; tỷ lệ đóng góp của TFP trong tăng trưởng GDP thấp; chỉ số Năng lực cạnh tranh PCI không ổn định, năm 2011 xếp thứ 12/63 tỉnh thành, tụt 5 bậc so với năm 2010; năm 2012 tiếp tục tụt thêm 8 bậc (20/63), năm 2013 tăng ngoạn mục đạt vị trí thứ 4/63 tỉnh thành. Trước 2013, Quảng Ninh thể hiện rõ sự giảm sút của các tiêu chí như: Tính năng động và cam kết của lãnh đạo, Dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp, Đào tạo lao động. Các chỉ tiêu tăng trưởng năm 2012 cũng sụt giảm mạnh (tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2012 chỉ đạt 7,4%, năm 2013 đạt 7,5%); trình độ công nghệ công nghiệp năm 2010 được đánh giá ở mức trung bình. Đến năm 2012 kinh tế của Quảng Ninh phát triển đã tới hạn theo bề rộng (khai thác tài nguyên khoáng sản và đất) và hiệu quả sử dụng vốn và lao động thấp. Do vậy để đạt được các chỉ tiêu phát triển KT–XH đến 2020, Quảng Ninh cần đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế theo mô hình phát triển theo chiều sâu, phát triển dựa vào KH&CN. Cụ thể là: cần đẩy mạnh ứng dụng các thành tựu khoa học, thúc đẩy ứng dụng, chuyển giao công nghệ mới trong sản xuất – kinh doanh và các lĩnh vực KT–XH khác của Tỉnh nhằm nâng cao năng suất, tăng trưởng nhanh, nhất là ở những lĩnh vực đang có thế mạnh chưa được phát huy và những lĩnh vực còn nhiều tiềm năng mà đến nay chưa khai thác. Đây là khâu đột phá cho quá trình tăng tốc phát triển KT–XH của Tỉnh, đảm bảo cho tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2011–2020 đạt mức bình quân 12–13%.

3. Phương án phát triển KH&CN Quảng Ninh đến 2020


a) Quảng Ninh là một Tỉnh có điều kiện tự nhiên thuận lợi, có vị trí địa chính trị đắc địa, năng lực tiếp thu của con người cao và có điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế đa dạng, phong phú và toàn diện. Tuy nhiên, cơ cấu các ngành, lĩnh vực phát triển chưa thực sự hợp lý, còn thiên nhiều về khai thác và sơ chế các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Việc ứng dụng KH&CN vào sản xuất còn hạn chế, nhất là các ngành công nghiệp. Các ngành, lĩnh vực sản xuất còn thiếu các công nghệ sạch, thân môi trường. Năng lực đổi mới công nghệ của doanh nghiệp còn yếu. Nhiều tiềm năng, thế mạnh của Tỉnh về du lịch, cơ khí điện tử, kinh tế biển, kinh tế biên mậu chưa được khai thác triệt để nên chưa tạo được tốc độ tăng trưởng GDP cao.

b) KH&CN (khoa học kinh tế, khoa học tự nhiên; khoa học kỹ thuật và công nghệ) chưa giúp đề ra những giải pháp khai thác tiềm năng, thế mạnh của du lịch, công nghiệp, nông nghiệp; kinh tế biển, kinh tế biên mậu. Quảng Ninh đang thiếu nhiều nhà khoa học có trình độ chuyên môn cao, đội ngũ cán bộ quản lý còn ít về số lượng, yếu về chất lượng. Chưa có chính sách đủ mạnh để thu hút cán bộ KH&CN trình độ cao. Số lượng tổ chức KH&CN đóng trên địa bàn Tỉnh còn quá ít. Đầu tư cho KH&CN còn thấp (đặc biệt là đầu tư ngoài ngân sách nhà nước), chưa có giải pháp hữu hiệu để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư cho KH&CN. Doanh nghiệp chưa chú trọng đến nghiên cứu, đổi mới công nghệ. Các dịch vụ về tiêu chuẩn – đo lường – chất lượng, sở hữu trí tuệ, quản lý công nghệ chưa được chú ý đúng mức. Cơ chế chính sách hỗ trợ NC&PT, đổi mới công nghệ, hỗ trợ đào tạo nhân lực yếu. Chưa có chính sách đảm bảo SHTT; giảm thuế thu nhập. Thủ tục hành chính còn quan liêu, phiền hà, chưa tạo sức hút mạnh đối với các nhà đầu tư.

c) Để phát triển KT–XH của Tỉnh đạt được mục tiêu “đến năm 2020, trở thành tỉnh dịch vụ–công nghiệp hiện đại, trung tâm du lịch quốc tế, là một trong những đầu tàu kinh tế của miền Bắc và cả nước với hệ thống kết cấu hạ tầng KT-XH, hạ tầng kỹ thuật đô thị đồng bộ, hiện đại, giảm nghèo bền vững, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; đảm bảo giữ gìn và bảo vệ môi trường bền vững. Giữ gìn và phát huy tốt bản sắc dân tộc, bảo tồn và phát huy bền vững Di sản-Kỳ quan thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long và những khác biệt, đặc sắc của Vịnh Bái Tử Long; phấn đấu trở thành khu vực phòng thủ vững chắc về quốc phòng, an ninh và phòng tuyến hợp tác, cạnh tranh kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội”, Quảng Ninh cần chuyển mạnh sang phát triển theo chiều sâu, dựa chủ yếu vào KH&CN.

Giải pháp về phát triển KH&CN bao gồm: Thu hút các ngành công nghiệp đẩy mạnh công đoạn sản xuất sản phẩm công nghệ sạch, năng suất cao như: Đầu tư vào các nhà máy lắp ráp và đóng gói hàng điện tử quy mô lớn, mở rộng ngành chế biến thực phẩm, sản xuất nhiệt điện và sản xuất than bằng công nghệ sạch; Tăng năng suất và hiệu quả các hoạt động KT-XH hiện tại theo hướng phát triển bền vững; đẩy mạnh ứng dụng và cải tiến KH&CN thay vì tăng lao động cơ học, vốn và tài nguyên; ứng dụng công nghệ internet nâng cao năng suất, kết nối của doanh nghiệp và chính quyền điện tử; Ứng dụng giải pháp công nghệ trong Y tế như trạm y tế di động, tổng đài y tế và trong giáo dục; Ứng dụng công nghệ thân thiện môi trường như vận chuyển than bằng băng chuyền kín, áp dụng kỹ thuật đốt than hiệu quả cao trong các nhà máy nhiệt điện để cắt giảm khí thải…

Từ những mục tiêu và giải pháp về KH&CN nêu trên, định hướng và phương án phát triển KH&CN tỉnh Quảng Ninh đến năm 2020 cụ thể như sau:

– Đổi mới tư duy về phát triển KH&CN trong các ngành, lĩnh vực kinh tế truyền thống như khai thác khoáng sản, sản xuất vật liệu xây dựng, cơ khí chế tạo, đóng tàu; những ngành, lĩnh vực mới như lắp ráp và kiểm chứng điện tử, chế biến thực phẩm và đồ uống. Đối với những ngành công nghiệp này, công nghệ của nhiều nước trên thế giới và trong khu vực đã phát triển ở trình độ cao và ổn định, vì vậy Quảng Ninh không cần nghiên cứu mà cần tập trung vào việc tìm kiếm, mua, chuyển giao công nghệ tiên tiến và đạt yêu cầu về công nghệ xanh nhằm không những nâng cao hiệu quả sản xuất – kinh doanh và năng lực cạnh tranh mà cả về môi trường và phát triển bền vững của doanh nghiệp. Do vậy, trong lĩnh vực này trước mắt không cần thiết phải thành lập các đơn vị NC&PT mà cần có các chuyên gia giỏi về quản trị công nghệ, các cơ sở hỗ trợ mua, chuyển giao, môi giới, thị trường công nghệ để giúp cho các doanh nghiệp có nhu cầu tìm được công nghệ thích hợp, đàm phán giá cả, phương thức chuyển giao và giúp nhanh chóng làm chủ công nghệ.

– Đối với các ngành, lĩnh vực tiềm năng, thế mạnh như du lịch, kinh tế biển, thương mại quốc tế, kinh tế biên mậu; nuôi trồng và chế biến nông lâm thủy sản, công nghiệp sản xuất dược phẩm,… đây là những lĩnh vực có tính đặc thù (và cũng là thế mạnh) chỉ riêng có ở Quảng Ninh với tính chất nguyên vật liệu có các đặc tính riêng biệt thì KH&CN của Tỉnh cần tập trung vào việc nghiên cứu phát hiện, làm rõ giá trị các nguồn tài nguyên để quy hoạch, xây dựng vùng nguyên liệu, xây dựng mô hình khai thác, sản xuất sản phẩm mới với công nghệ mới để hình thành các doanh nghiệp mới, lĩnh vực sản xuất mới và các ngành công nghiệp mới; làm rõ các mô hình hội nhập phát triển kinh tế, thương mại quốc tế, kinh tế biên mậu, dịch vụ vận tải quốc tế.

– Xây dựng Mô hình KH&CN tiên tiến (các tổ chức và hoạt động của KH&CN của Nhà nước và nhất là của doanh nghiệp phải phát triển mạnh nhưng phải tương thích với nhu cầu công nghệ của doanh nghiệp, đáp ứng từng bước nâng cao năng lực công nghệ của doanh nghiệp) cần được thiết kế về tổ chức và chức năng nhiệm vụ phù hợp để đáp ứng được các yêu cầu nêu trên và phù hợp với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Theo đó KH&CN không chỉ bên ngoài hàng rào doanh nghiệp (các Trung tâm KH&CN, các trường đại học và cao đẳng) mà đặc biệt là KH&CN bên trong hàng rào doanh nghiệp (các tổ chức KH&CN của doanh nghiệp) được đẩy mạnh phát triển theo nguyên lý của Hệ thống đổi mới. Hệ thống tổ chức KH&CN công lập của tỉnh sẽ tương tác, hỗ trợ các hoạt động KH&CN của doanh nghiệp và qua đó nhanh chóng nâng cao năng lực công nghệ của doanh nghiệp và phát huy vai trò nền tảng và động lực then chốt của KH&CN đối với phát triển KT-XH, đưa Quảng Ninh nhanh chóng trở thành một tỉnh “đầu tầu” về KH&CN và một cực của tam giác tăng trưởng của Vùng đồng bằng sông Hồng và bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh khu vực Đông Bắc của Tổ quốc.




tải về 1.15 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   5   6   7   8   9   10   11   12   ...   16




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương