Tt tin học tự nhiên và CÔng nghệ quốc gia việN ĐỊa chấT


- Gió vùng ven biển Quảng Ngãi



tải về 1.68 Mb.
trang35/64
Chuyển đổi dữ liệu14.08.2016
Kích1.68 Mb.
#19840
1   ...   31   32   33   34   35   36   37   38   ...   64

1- Gió vùng ven biển Quảng Ngãi


a/ Cơ sở số liệu quan trắc gió

Chúng tôi chọn các số liệu quan trắc gió tại hai trạm Quảng Ngãi (trong đất liền) và Lý Sơn (ngoài khơi) là các trạm đại diện đặc trưng cho vùng đất liền và vùng biển ven bờ khu vực nghiên cứu.

Cơ sở số liệu được sử dụng chủ yếu là các số liệu quan trắc về hướng và tốc độ gió tại hai trạm khí tượng Quảng Ngãi và Lý Sơn vào 4 thời điểm quan trắc trong một ngày (Obs): 01h, 07h, 13h và 19h liên tục trong 10 năm, từ 1990 đến 1999. Chuỗi số liệu quan trắc các yếu tố đặc trưng của mỗi trạm được sử dụng trong tính toán đạt xấp xỉ 15 000 số liệu.

b/ Phương pháp xử lí thống kê

Tiến hành xử lí số liệu được để xác định các đặc trưng gồm có: các trị số trung bình, cực đại, cực tiểu, tần suất và suất bảo đảm thực nghiệm theo từng thời kỳ và cho các hướng khác nhau, trên cơ sở sử dụng các chuỗi quan trắc về hướng và tốc độ gió tại hai trạm đại diện cho vùng đất liền và vùng biển ven bờ.



* Chế độ gió

- Mùa Đông: từ tháng X năm trước đến tháng hết tháng III năm sau.

Tháng X

Là tháng chuyển tiếp của thời kỳ cuối mùa Hè sang mùa Đông.

- Trong đất liền: Hướng gió thịnh hành là hướng Bắc, với tần suất đạt tới gần 38%, tốc độ trung bình là 2.6 m/s và tốc độ cực đại trong chu kỳ 10 năm quan trắc được là 8m/s. Tiếp đến là gió có hướng Tây Bắc với tần suất xấp xỉ 22%, tốc độ trung bình là 2.1m/s và gió Đông Bắc với tần suất xấp xỉ 19%, tốc độ trung bình là 2.5m/s. Như vậy, ở trong đất liền trong tháng X gió có hướng thay đổi từ Tây Bắc, Bắc và Đông Bắc có tần suất tổng cộng chiếm tới gần 79%. Trong tháng X có tới 51% thời gian lặng gió. Hướng gió Tây Nam chỉ chiếm khoảng gần 1%.

- Ngoài khơi: hướng gió thịnh hành là Đông Bắc (46.6%), Tây Bắc (21%) và Bắc (12.4%). Trên hướng Đông Bắc, tốc độ gió trung bình 6.2m/s và lớn nhất đạt tới 27m/s. Tốc độ gió cực đại quan trắc được ở hướng Tây, đạt tới 31m/s (trường hợp có bão).



Tháng XI

- Trong đất liền: có gió thịnh hành là gió hướng Bắc với tần suất vượt trội hơn trong tháng X, đạt tới trên 48%, tốc độ trung bình là 2.5m/s. Tiếp đến là gió hướng Đông Bắc có tần suất trên 22%, tốc độ trung bình là 2.7m/s, và gió Tây Bắc, tần suất đạt gần 19%, tốc độ trung bình 2.3m/s, và trong hướng này, tốc độ cực đại trong chu kỳ 10 năm quan trắc được là 14m/s. Gió có hướng chính thay đổi từ Tây Bắc, Bắc và Đông Bắc. Trong tháng này ba hướng gió chính có tần suất tổng cộng chiếm tới trên 89%, thể hiện tính ổn định của gió mùa đông trong tháng. Trong tháng XI, thời gian lặng gió có phần giảm xuống tới khoảng trên dưới 45% và không quan trắc thấy có trường hợp gió Tây Nam.

- Ngoài khơi: tương tự như trong tháng X, các hướng gió thịnh hành là Đông Bắc (55.1%), Tây Bắc (18.6%) và Bắc (17.5%). Trên hướng Đông Bắc, tốc độ gió trung bình cao, đạt tới 6.7m/s và lớn nhất là 19m/s. Tốc độ gió cực đại ghi nhận được ở hướng Tây Bắc là 26m/s.

Tháng XII

- Trong đất liền: cũng như trong tháng XI, tháng XII có gió thịnh hành là gió Bắc, với tần suất vượt trội đạt tới gần 43%, tốc độ trung bình là 2.4 m/s. Tiếp sau là gió Tây Bắc với tần suất đạt tới gần 31%, tốc độ trung bình là 2.1m/s. Cũng trong hướng gió này đã quan thấy gió cực đại là 12.0 m/s. So với tháng XI, gió Đông Bắc trong tháng XII có tần suất xuất hiện ít hơn, chỉ đạt gần 18%, tốc độ trung bình 2.5m/s. Gió có hướng chính dao động từ Tây Bắc, Bắc và Đông Bắc. Ba hướng gió chính có tần suất tổng cộng chiếm tới gần 91%, thể hiện tính ổn định cao nhất của chế độ gió mùa đông. Trong tháng XII, thời gian lặng gió giảm xuống chỉ còn khoảng trên dưới 41% và không quan trắc thấy trường hợp gió Tây Nam.

- Ngoài khơi: hướng gió ít thay đổi so với thời gian tháng XI. Hướng gió thịnh hành là Đông Bắc (53%), Tây Bắc (21.2%) và Bắc (18%). Tốc độ gió trung bình trên hướng Đông Bắc khá cao, tới 7.1m/s và lớn nhất là 18m/s; đây cũng là tốc độ gió mạnh nhất ghi được trong tháng XII.

Tháng I

- Trong đất liền: đây là tháng chính của thời kỳ mùa đông với gió có hướng thịnh hành là hướng Bắc, tần suất gần 36%, tốc độ trung bình trên 2.0m/s. Trong hướng này đã quan trắc được gió cực đại 14m/s. Tiếp đến là gió Tây Bắc, với tần suất trên 24%, tốc độ trung bình 2.3m/s. Gió Đông Bắc trong thời gian này có tần suất trên 16%, tốc độ trung bình 2.5m/s. Tổng số tần suất gió trên cả ba hướng chính chỉ chiếm 76%, thể hiện tính ổn định bắt đầu bị suy giảm trong thời kỳ này. Trong tháng I đã quan trắc được trên 50% trường hợp lặng gió, và cũng không quan trắc thấy có trường hợp gió Tây Nam.

- Ngoài khơi: hướng gió Đông Bắc thịnh hành (36.3%) đang giảm dần, chuyển sang các hướng Tây Bắc (32.2%), Bắc (13.6%) và xuất hiện các hướng gió Đông Nam (11.8%). Tốc độ gió trung bình trên hướng Đông Bắc giảm xuống, chỉ còn 4.3m/s và tốc độ lớn nhất là 12m/s. Tốc độ gió cực đại 16m/s ghi nhận được trên hướng Tây Bắc.

Tháng II

- Trong đât liền: gió có hướng thịnh hành là hướng Bắc, với tần suất 39%, tốc độ trung bình đạt 2.3m/s. Trên hướng này đã quan trắc được gió cực đại 8m/s. Khác với các tháng XII- I, trong tháng II đặc thù của gió với hướng thịnh hành là Tây Bắc, Bắc và Đông Bắc. Trong tháng II, gió Đông Nam và gió Đông đã chiếm ưu thế sau gió Bắc, với tần suất chung cả hai hướng Đông và Đông Nam đạt trên 37% và tốc độ trung bình 2- 3 m/s. Trong tháng này, trường hợp lặng gió giữ mức xấp xỉ 50%, và cũng không quan trắc thấy có trường hợp gió Tây Nam nào.

- Ngoài khơi: gió Đông Nam chiếm ưu thế (32.7%), nhưng các hướng Tây Bắc (26.8%) và Đông Bắc (26.3%) vẫn còn mạnh và là các hướng gió chính. Tốc độ gió trung bình trên hướng Đông Bắc là 5.4m/s, lớn nhất là 12m/s. Tốc độ gió cực đại 12m/s, ghi nhận được ở ba hướng là Tây Bắc, Bắc và Đông Bắc.

Tháng III

- Trong đất liền: các hướng gió chính trong mùa Đông đã suy giảm mạnh và chuyển sang hướng chính Đông Nam, với tần suất trên 31%, tốc độ trung bình đạt 3.0m/s. Tiếp đến mới là gió Bắc và gió Đông, với tần suất xấp xỉ trong khoảng 24- 27%, tốc độ trung bình 2- 3m/s. Gió hướng Đông Nam và Đông chiếm tới gần 56% và tại đây đã quan trắc được gió cực đại 14m/s. Trong tháng này, trường hợp lặng gió giảm xuống đến 46% và đã bắt đầu quan trắc thấy gió Tây Nam với tần suất rất nhỏ (khoảng 0.3%).

- Ngoài khơi: tương tự như trong đất liền, hướng gió thịnh hành đã chuyển sang hướng Đông Nam (51.5%). Tuy vậy các hướng gió Tây Bắc (27.9%) và Đông Bắc (9.5%) vẫn giữ vai trò chi phối quan trọng. Tốc độ gió trung bình trên hướng chính Đông Nam là 4.3m/s và lớn nhất là 9m/s. Tốc độ gió cực đại ghi nhận được trên hướng Tây Bắc là 16m/s.

Mùa Hè: bắt đầu từ cuối tháng IV đến tháng hết tháng IX;

Tháng IV

- Trong đất liền: đây là tháng chuyển tiếp từ mùa Đông sang mùa Hè. Gió có hướng thịnh hành trong tháng này là gió Đông Nam, với tần suất đạt tới trên 32%, tốc độ trung bình 3m/s. Tiếp đến là gió Đông, tần suất xuất hiện cũng gần 32%, và tốc độ trung bình xấp xỉ 3 m/s. Cả hai hướng gió này, tần suất tổng cộng chiếm tới gần 62%. Gió Bắc chỉ còn chiếm trên 17% với tốc độ trung bình khoảng 2m/s. Với hướng này, đã quan trắc được gió cực đại 8m/s. Trong tháng IV có tới gần 50% thời gian lặng gió và đã quan trắc thấy gió Tây Nam, nhưng với tần suất rất nhỏ (khoảng 0.2%).

- Ngoài khơi: hướng gió chiếm ưu thế tuyệt đối là Đông Nam (64.2%), sau đó đến hướng gió Tây Bắc (20.6%). Tốc độ trung bình trên hướng gió chính Đông Nam là 4.0m/s, lớn nhất là 12m/s. Tốc độ gió cực đại 14m/s quan trắc được trên hướng Tây Bắc.

Tháng V

- Trong đất liền: hướng gió thịnh hành là gió Đông chiếm tới trên 38%, với tốc độ trung bình gần 3m/s. Tiếp đến là gió có hướng Đông Nam, với tần suất trên 29%, tốc độ trung bình gần 3m/s. Tại đây, đã đo được gió cực đại 6m/s. Hai hướng gió Đông và Đông Nam chiếm tần suất tổng cộng tới gần 70%. Trong tháng này, thời gian là lặng gió chiếm tới gần 61% và đã quan trắc thấy có gió Tây Nam với tần suất trên 1%.

- Ngoài khơi: hướng gió Đông Nam (56%) vẫn chiếm ưu thế, nhưng đã bắt đầu giảm, sau đó đến hướng gió Tây Bắc (17.1%). Tốc độ gió trung bình trên hướng chính không cao, chỉ đạt 3m/s và tốc độ gió cực đại 12m/s quan trắc được trên hướng Tây Bắc.

Tháng VI

- Trong đất liền: hướng thịnh hành của gió trong tháng là hướng Đông, với tần suất đạt trên 40%, tốc độ trung bình trên 2m/s. Tiếp sau là gió có hướng Đông Nam, tần suất trên 22%, tốc độ trung bình cũng trên 2m/s. Như vậy, với cả hai hướng này, gió chiếm tới 63%. Trong tháng VI, đã quan trắc thấy gió cực đại là 10m/s trên hướng Tây; có tới trên 60% thời gian là lặng gió và đã quan trắc thấy có gió Tây Nam, với tần suất gần 3%.

- Ngoài khơi: Hướng gió Đông Nam (52.5%) vẫn chiếm ưu thế, sau đó đến hướng Nam (11.6%) và hướng Tây Bắc (10.2%). Tốc độ gió trung bình trên các hướng chính không cao, đạt 3.4m/s và lớn nhất là 12m/s. Tốc độ gió cực đại ghi nhận được là 16m/s trên hướng Tây Bắc.

Tháng VII

- Trong đất liền: là tháng chính giữa mùa hè. Cũng như tháng VI, hướng gió thịnh hành trong tháng là hướng Đông, với tần suất đạt 39%, tốc độ trung bình nhỏ, khoảng 2m/s. Tiếp sau là gió có hướng Đông Nam, tần suất gần 23%, tốc độ trung bình cũng trên 2m/s. Tại hướng này đã quan trắc được gió cực đại 6m/s. Như vậy, với cả hai hướng gió Đông và Đông Nam có tổng số tần suất xuất hiện chiếm tới gần 62%. Trong tháng VII, thời gian lặng gió chiếm tới gần 61% và đã quan trắc thấy gió Tây Nam, có tần suất gần 3% .

- Ngoài khơi: hướng gió Đông Nam (46.2%) chiếm ưu thế nhưng cường độ đã giảm. Các hướng gió Nam (13.6%) và Tây Nam (16.3%) là các hướng có ảnh hưởng tăng dần lên. Hướng gió Tây Bắc (12.2%) vẫn giữ trạng thái ổn định. Tốc độ trung bình trên hướng Đông Nam không cao, chỉ đạt 3.0m/s, lớn nhất là 12m/s và cũng là tốc độ gió cực đại trong tháng.

Tháng VIII

- Trong đất liền: hướng gió thịnh hành là hướng Đông, với tần suất đạt trên 35%, thấp hơn so với các tháng VI- VII, tốc độ trung bình trên 2m/s. Tiếp sau là gió có hướng Đông Nam, tần suất trên 22%, tốc độ trung bình trên 2m/s. Như vậy, với cả hai hướng gió chính này, tần suất tổng cộng chiếm tới trên 57%. Trong tháng VIII, đã quan trắc thấy gió cực đại là 5m/s trên hướng Tây. Thời gian là lặng gió đạt trị số cao chiếm tới gần 63% và đã quan trắc thấy có gió Tây Nam với tần suất 2%.

- Ngoài khơi: gió Đông Nam (37.6%) vẫn thịnh hành nhưng đã giảm nhiều so với thời gian tháng VII. Các hướng gió khác có tần suất cao là Nam (11.7%), Tây Nam (13.6%) và Tây Bắc (19%). Tốc độ gió trung bình trên hướng Đông Nam là 3.2m/s, lớn nhất là 7m/s. Tốc độ gió cực đại vẫn ghi nhận được trên hướng Tây Bắc là 12m/s.

Tháng IX

- Trong đất liền: hướng thịnh hành của gió trong tháng này là đã bắt đầu chuyển sang hướng Bắc, với tần suất trên 27%, tốc độ trung bình gần 2m/s. Tiếp sau là gió Đông, với tần suất chiếm gần 17%, tốc độ trên 2m/s. Gió Đông Bắc và Tây Bắc xấp xỉ nhau chiếm khoảng 15-16% với tốc độ trung bình trên dưới 2m/s. Như vậy, tính ổn định về hướng của gió đã suy giảm. Trong tháng này, đã quan trắc thấy tốc độ gió cực đại là 5m/s trên hướng Tây. Thời gian là lặng gió chiếm tới trên 60% và đã quan trắc thấy có gió Tây Nam, với tần suất trên 2%.

- Ngoài khơi: gió thịnh hành nhất là Tây Bắc (31.7%). Hướng gió Đông Nam (16.8%) đang giảm dần, ngược lại hướng gió Đông Bắc (20.6%) đang tăng dần cường độ hoạt động. Tốc độ gió trung bình trên hướng Tây Bắc là 4.3m/s, lớn nhất đạt 19m/s. Tốc độ gió cực đại ghi nhận trong trường hợp có bão là 33m/s ở các hướng từ Bắc, Đông Bắc, Đông tới Đông Nam.

c - Gió mạnh

Để phân tích các trường hợp gió mạnh, ngoài các số liệu xử lý về chế độ gió với chuỗi số liệu dài 10 năm như đã nói trên, trong xử lý tính toán chúng tôi đã sử dụng các số liệu quan trắc theo giờ các đợt gió mạnh trong thời gian 18 năm từ năm 1976 đến 1993.

Kết quả nhận được cho thấy, trong thời gian 18 năm (1976 - 1993), gió mạnh ở Quảng Ngãi có tốc độ >16 m/s đều đã quan trắc thấy ở tất cả các tháng và gió lớn nhất trong thời gian đó là 28 m/s trên hướng Bắc Đông Bắc (NNE), xẩy ra vào tháng X/1986 do trận bão GEORGIA đổ bộ vào Quảng Nam- Đà Nẵng. Với chu kỳ quan trắc và tính toán dài hơn, đã ghi nhận được tốc độ gió mạnh tới 34m/s (trường hợp bão).

Gió mạnh cũng đã xẩy ra trong các tháng cuối năm 1999 tại ven biển Quảng Ngãi do ảnh hưởng liên tiếp của các đợt gió mùa Đông Bắc và ATNĐ. Riêng trong tháng 12/1999, ven biển Quảng Ngãi xuất hiện liên tục 4 đợt gió mạnh, tốc độ gió đo tại đảo Lý Sơn đạt tới 18m/s. Chu kỳ xuất hiện gió mạnh trong tháng 12 các năm 1999 - 2000 tương đối đồng nhất, mỗi đợt kéo dài khoảng 4- 5 ngày, trung bình cứ 7- 8 ngày lại xuất hiện một đợt gió mạnh (Hình 4.1).





Hình 4.1: Diễn biến tốc độ gió tại Lý Sơn trong tháng XII các năm 1999- 2000

Trong 5 năm gần đây, các đợt gió mạnh ở khu vực Quảng Ngãi và vùng biển ven bờ đã góp phần gây các tai biến xói lở bờ rất mạnh mẽ. Tốc độ gió trong đất liền đạt cấp 7- 8 và ngoài khơi tới cấp 9- 10 (bảng 4.13- 4.14). Ngoài khơi, các hướng gió mạnh thay đổi từ Đông Bắc (NE) đến Bắc Tây Bắc (NWN); trong đất liền các hướng gió mạnh từ Tây Bắc (NW) đến Tây Nam (SW).




tải về 1.68 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   31   32   33   34   35   36   37   38   ...   64




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương