Kết luận
Trong bối cảnh hiện tại của Phật giáo Việt Nam nói chung, với số lượng 44.498 Tăng Ni trải đều trên 14.775 ngôi tự viện khắp toàn quốc, Giáo hội đã mở nhiều khóa bồi dưỡng nghiệp vụ trú trì cho 6.073 lượt Tăng Ni và bổ nhiệm 1.190 Tăng Ni trụ trì các cơ sở tự viện trong cả nước; (số liệu từ Báo cáo tổng kết hoạt động phật sự nhiệm kỳ V (2002-2007) của GHPGVN) đây là một thực tế đáng mừng cho tương lai của Phật giáo Việt Nam. Vì lẽ, giáo hội Phật giáo Việt Nam sẽ vững mạnh nếu như cơ sở của Giáo hội là chùa, tự viện tịnh xá tịnh thất được ổn định và phát triển vững vàng. Tuy nhiên, từ thực tế các khóa bồi dưỡng và đào tạo trú trì đó, thiết nghĩ, ngoài kiến thức pháp luật, chủ trương của Nhà nước và phương hướng hoạt động của Giáo hội, thì quy củ của thiền môn được truyền thừa từ xưa đến nay như Sắc Tu bách trượng thanh quy là một nội dung cấp bách cần phải trang bị, đào tạo.
Chân thành cảm ơn thầy Thích Minh Hải đã gửi tặng Thư Viện Hoa Sen phiên bản vi tính digital quyển sách này và trân trọng kính giới thiệu đến quý độc giả. (Tâm Diệu)
---o0o---
Lời nói đầu
Nhân loại đang trên đà khủng hoảng về đạo đức,trong xã hội con người sống với nhau hình như ngày một thiếu vắng tình người. Trước sự phá sản các giá
trị tâm lijnh đang diễn ra khá phổ biến bởi sức mạnh của vật dục bên ngoài lôi cuốn, con người hình như
đánh mất tính tự chủ, nên dễ dẫn đến tha hoá và biến
chất. Trong bối cảnh xã hội ấy, những giá trị đạo đức
của các tôn giáo cần phải được vận dụng để làm chất
liệu nuôi dưỡng tinh thần hướng đến mục đích hoàn
thiện phẩm chất con người. Sự phá sản giá trị đạo
đức hiện nay không những xảy ra ngoài xã hội mà
còn tác động đến cả nếp sinh hoạt nơi chốn Tùng lâm
tôn nghiêm. Quy củ Thiền môn tuy vẫn duy trì hình
thức bề ngoài mà thực chất nội dung thì ngày một
thoái hóa, xuống dốc. Lúc này hơn lúc nào hết, chúng
ta cần gióng lên tiếng chuông báo động để cảnh tỉnh
mọi người. May thay, đứng trước thực trạng vô cùng
khó khăn và đầy cam go hiện giờ, vẫn còn những
khuôn vàng thước ngọc mà các bậc Long tượng
Thiền môn đã miệt mài tìm tòi để cống hiến cho tiền
đồ Đạo pháp. Đó chính là những bảo vật chúng ta
phải hết sức yêu quí và trân trọng giữ gìn.
Sách Bách Trượng thanh quy do tổ Bách Trượng -
Hoài Hải (720-784) biên soạn vào trung diệp đời
Đường để làm cương lĩnh sinh hoạt cho Tăng ni tại
các Tùng lâm, có giá trị như một kim chỉ nam hướng
dẫn mọi hoạt động trong đời sống của người xuất gia.
Nhưng trải qua thời gian vật đổi sao dời, sách đã bị
thất lạc. Tuy vậy, một phần nội dung của nó đã được
các bộ sách khác thu dụng. Thế rồi vào năm đầu niên
hiệu Chí Nguyên (1335) vua Thuận Đế nhà Nguyên
với tấm lòng hộ pháp nhiệt thành, muốn các Tự viện
Thiền lâm sinh hoạt có nề nếp kỷ cương, bèn truyền
lệnh cho thiền sư Đông Dương Đức Huy – cháu nối
dòng pháp đời thứ 18 tổ Bách Trượng - căn cứ vào
các bộ thanh quy đương hiện hành tu chính, biên
soạn lại một bộ Thanh Quy khác; đồng thời truyền
lệnh cho thiền sư Đại Hân huynh đệ đồng sư với Đức
Huy lo việc hiệu chính rồi đặt tên sách là Sắc tu Bách
Trượng thanh quy. Về sau, Đại chính tân tu đại tạng
kinh đã thu nhập vào tập 48, ký hiệu 2025, từ trang
1109c – 1159b. Sách gồm hai phần, tám quyển, chín
chương, khoảng hai trăm tiêu đề, một đoạn duyên
khởi ở đầu sách và phần phụ lục gồm bảy mục.
Bộ sách này cung cấp cho chúng ta hầu như gần
hết các thuật ngữ chuyên dụng trong thiền môn về
mọi phương diện như chức vụ, danh xưng, cơ sở, lễ
nghi, pháp khí, công cụ hành đạo,v.v… Có thể nói, từ hơn 600 năm qua bộ Sắc tu có ảnh hưởng khá sâu
rộng đối với Thiền tông Việt Nam nói riêng và Phật
giáo Việt Nam nói chung. Để đáp ứng nhu cầu tu học
bức thiết của Tăng ni hiện nay, chúng tôi (Thích
Phước Sơn và Lý Việt Dũng) đã chung sức chuyển
ngữ sang tiếng Việt; và để tiện việc xuất bản, chúng
tôi chia sách thành 2 tập: Tập I từ quyển 1 đến quyển
4; Tập II từ quyển 5 đến hết quyển 8, và tuần tự thực
hiện từng tiểu mục. Mỗi tiểu mục chia làm 4 phần: 1/.
Phần chữ Hán là nguyên văn trong Đại chính tạng; 2/.
Phiên âm từ chữ Hán là chữ in đứng; 3/. Chữ in
nghiêng là phần dịch nghĩa; 4/. Còn phần chú thích
được tập hợp tất cả sắp theo mẫu tự A,B,C…, đặt ở
cuối sách để độc giả tiện việc tra cứu khi cần.
Trong các bản văn còn lại hiện nay mà chúng tôi
tham khảo, đối chiếu có đôi chỗ dị biệt rườm rà, có thể
là do người sau khi biên tập thêm vào. Như đoạn duyên
khởi ở đầu sách bị người sau thêm thắc sửa đổi khá rối
răm, nên bỏ không dịch. Phần mục lục của sách chúng
tôi chỉ dịch nghĩa chứ không phiên âm chữ Hán. Và
phụ lục của sách có tất cả bảy bài minh tựa, vì thấy có
vài chỗ nội dung giống nhau, chúng tôi chỉ chọn dịch
các bài: 1/. Bài minh ở tháp tổ Bách Trượng; 2/. Bài ký
gác thiền sư Đức Huy; 3/. Bài tựa Cổ Thanh quy; 4/.
Bài tựa Sắc tu Bách Trượng thanh quy. Những phần
lược bỏ thì chúng tôi không đưa nguyên văn chữ Hán
vào trong sách. Ngoài ra, dịch giả có thêm vài Lời bàn
trong các mục nhỏ ở một số chương. Về cách chấm câu có nhiều chỗ cần phải điều
chỉnh lại cho phù hợp với nội dung; và đặc biệt, bộ
sách này có khá nhiều chữ do khắc bản bị nhầm,
chúng tôi dựa vào văn pháp chữ Hán mạn phép sửa
chữa lại, như: Cung duy (供惟)thành hồng duy (洪惟
) [tr.1114c22]; ngụ chỉ (寓 止) thành vạn chỉ (萬止)
[tr. 1118a29]; quản đãi (管待) thành quản thị (管侍)
[ tr.1122c]; giáng trọng (降重) thành phụ trọng (附
重) [tr.1123b]; đãi hành (待 行) thành trì hành (持行
) [tr.1123b]; quang bạn (光 伴) thành hỏa bạn (火伴)
[tr.1123b]; hòa thượng (和尚) thành hòa đường (和
堂) [tr.1124a]; tăng đường (僧堂) thành thỉnh đường
(請堂) [tr,1126b]; hòa thượng (和 尚) thành hô
thượng (呼尚) [tr.1126c]; thả vọng (且望) thành đán
vọng (旦望) [tr.1128b); chú hương (炷香) thành trụ
hương (住香) [tr.1130a]; phương trượng (方丈)
thành phương văn (方文) [tr.1131a]; trí từ ( 致 詞)
thành trí ha (致訶) [tr.1134b]; tri khách ( 知 客)
thành tri dung (知 容) [tr.1134b]; chấp đao (執刀)
thành thế đao (勢刀) [tr.1137b]; thượng gian (上間)
thành thượng vấn (上問) [tr.1142a], v.v…
Đây chỉ là vài dẫn chứng tiêu biểu, còn những chỗ
khác quí độc giả có thể đối chiếu nguyên văn, phiên
âm và bản dịch sẽ rõ. Tuy nhiên, chắc chắn còn
những chữ nhầm khác mà chúng tôi chưa phát hiện
được, đành trông cậy vào thế hệ sau hiệu chính
Trong lúc tiến hành công việc, cả hai chúng tôi
đều trong tình trạng sức khỏe không được ổn định,
phải tranh thủ với thời gian, may mắn nhờ ơn Phật,
Tổ gia bị, mà bản thảo đã hoàn tất. Khi phiên dịch, dù
đã cố gắng tra cứu hết sức, nhưng khó tránh khỏi
thiếu sót, sai lầm, kính mong các bậc Tôn túc cao
minh quan tâm đến di sản văn hóa Phật giáo, hoan hỷ
chỉ giáo để sau này khi sách may mắn được tái bản sẽ
giảm thiểu những khiếm khuyết.
Thiết nghĩ, muốn lãnh hội tốt yếu chỉ của sách,
xin quí độc giả hãy xem trước phần tổng quan, các
bài tựa rồi mới đi vào nội dung.
Cuối cùng, chúng tôi xin chân thành cám ơn thầy
Minh Hải, đạo hữu Đặng Hữu Trí đã tích cực tham
gia hoàn thành bản thảo. Nguyện cầu tất cả đều được
soi sáng trong ánh hào quang của chư Phật.
Thiền viện Vạn Hạnh, ngày 19/07/2008
Thích Phước Sơn, Lý Việt Dũng
Kính ghi
GIỚI THIỆU TỔNG QUÁT
1. Đôi dòng lịch sử
Lịch sử Thiền tông Trung Hoa, có người cho là
nối tiếp từ thời Nam Bắc triều khi Tổ Bồ-đề-đạt-ma
từ Tây Thiên sang Trung Hoa, có người cho là từ
lúc Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn đời Đường mở ra pháp
môn Đông Sơn, nhưng thực ra chính là phải kể từ
thời Lục Tổ Huệ Năng sáng lập Thiền pháp Đốn
ngộ. Tuy nhiên vì là một Tông phái nên Thiền tông
kế thừa các phái Tam luận tông, Thiên Thai tông,
và Pháp tướng tông mà hình thành vào buổi đầu đời
Đường. Đây là điểm mà phần đông giới học thuật
công nhận
Từ thời sơ Đường khi Thiền tông tự thành Tông
phái cho đến lúc ngài Hoài Hải giảng pháp tại núi
Bách Trượng vùng Tân Ngô - Giang Tây vào thời
trung diệp nhà Đường, sự phát triển của Thiền tông
còn chịu nhiều hạn chế rất lớn, mà nguyên nhân
căn bản là bản thân Thiền tăng lúc đó vẫn chưa có
tự viện độc lập của mình mà phương thức hành sự
độc đáo của Thiền đồ nảy sinh mâu thuẫn xung đột
không thể giải quyết được với Phật luật và Giáo qui
xưa, đồng thời cũng có thể nói là còn chưa xuất
hiện một bộ qui thức Thiền môn thích ứng với nhu
yếu phát triển của Thiền tông.
Thiền sư Bách Trượng Hoài Hải tổng kết kinh
nghiệm thực tiễn của Thiền tông từ lúc thành lập
đến nay, cũng căn cứ vào nhu yếu cấp thiết của sự
phát triển, gan dạ tiến hành cải cách giáo qui tự
sáng lập ra Qui thức Thiền môn, mau chóng được
Thiền lâm trong thiên hạ tiếp thụ tuân hành và
được gọi là Bách Trượng thanh qui.
Quyển Bách Trượng thanh qui được lưu hành
thật rộng lớn, xúc tiến sự phát triển mãnh liệt của
Thiền tông. Nhưng bên cạnh việc Thiền tông trở
thành chủ lưu của Phật giáo, Thiền lâm nhân chịu
ảnh hưởng phong tục tập quán của xã hội, cho nên
nội bộ cũng sản sinh rất nhiều điều hủ bại, đặc biệt
là đối với chức vụ trụ trì làm lãnh tụ của chốn tùng
lâm có lắm người mang tâm tranh đoạt vì thấy rằng
đây là món lợi dễ dàng cần mưu đồ, cho nên sau
khi đã ở vào cương vị này rồi liền quyền mưu tư lợi
mà thành ra sản sinh lắm tệ đoan, làm hoen ố tổn
hại đến danh dự của Thiền lâm, ảnh hưởng đến sự
phát triển lành mạnh của Thiền tông.
Do vậy mà các giới thức sĩ không kể tăng hay tục
đều hy vọng Thiền lâm khôi phục chế độ nghiêm
cẩn, truyền thống tốt đẹp của Bách Trượng thanh qui,
nhân đó mà đời Nguyên mới có bộ Sắc tu Bách
Trượng thanh qui biên chế và san hành. Lại cũng
nhân trong sách Sắc tu Bách Trượng thanh qui này
đem cựu chế của Bách Trượng thanh qui mà so sánh
với những vấn đề tồn tại của Thiền lâm trong xã hội
hiện thực của đời Nguyên, hy vọng có thể dẫn khởi
cảnh giới và cải cách sinh hoạt của tăng đồ.
Đoạn này là duyên khởi thuật thuyết đại sư
Hoài Hải chế định Bách Trượng thanh qui với tư
tưởng chỉnh đốn sinh hoạt của Thiền lâm vậy!
2. Thuyết ra đời sách Sắc tu Bách Trượng thanh qui
Sách này do Thiền sư Đông Dương Đức Huy trụ
trì chùa Thiền Đại Trí Thọ Thánh ở núi Bách
Trượng huyện Tân Nguyên Giang Tây phụng Thánh
chỉ vua Thuận Đế Bột Nhi Nổi Quán Thiết Mục Nhĩ
trùng soạn thành một bộ Thiền lâm thanh qui vào
trung diệp nhà Nguyên. Nguyên bổn sách gồm 9
chương, đầu mỗi chương đều có một bài tựa nhỏ,
thuyết minh chỉ thú cùng đại ý của mỗi chương,
cuối sách phụ lục bài minh và bài tựa tháp mộ của
cố Thiền sư Hoài Hải ở núi Bách Trượng Hồng
Châu đời nhà Đường do điện trung thị ngự sử Trần
Hủ viết vào đời nhà Đường Nguyên Hòa năm thứ
13 (CN 818), bài ký gác thiên hạ sư biểu là Thiền
sư chùa Đại Trí Thọ Thánh ở núi Bách Trượng, do
Quốc tử bác sĩ Hoàng Tấn viết vào năm thứ 2 niên
hiệu Chí Nguyên đời vua Thuận Đế nhà Nguyên
(1336), bài tựa Cổ thanh qui do Hàn lâm học sĩ
Dương Ức viết vào năm thứ nhất niên hiệu Cảnh
Đức nhà Bắc Tống (1004), bài tựa Sùng Ninh thanh
qui do trụ trì Thiền viện Thập Phương Hồng Tế phủ
Châu Định là Thiền sư Trường Lô Tông Trách (tông
Vân Môn) viết vào năm thứ 2 đời Sùng Ninh (1103),
bài tựa Hàm Thuần thanh qui do Hậu Hồ tỉ-kheo
Duy Miễn viết vào năm thứ 10 niên hiệu Hàm
Thuần đời Nam Tống (1274), bài tựa Chí Đại thanh
qui do tỉ-kheo Nhất Hàm chùa Đông Lâm Lô Sơn
viết vào năm thứ tư niên hiệu Chí Đại nhà Nguyên
(1311), bài tự Sắc tu Bách Trượng thanh qui do Hàn
lâm học sĩ Âu Dương Huyền viết vào năm thứ hai
niên hiệu Chí Nguyên nhà Đại Nguyên (1336) cho
đến bài hậu ký của Thiền sư Đức Huy viết vào năm
thứ tư niên hiệu Chí Nguyên nhà Đại Nguyên
(1338), gộp chung cả thảy có bảy muôn lời.
Sau khi sách thành, trước tiên cho các loại đơn
hành bổn lưu thông. Các đơn hành bổn này chia ra
làm 8 quyển. Từ sau đời Minh, bắt đầu thu nhập
vào các loại tạng kinh. Căn cứ vào những gì hiểu
biết được hiện nay thì tình huống nhập vào Đại tạng
kinh của sách này như sau:
Minh Bắc tạng đưa vào quyển Chuyết Phương
sách bổn, Gia Hưng tạng cũng thu nhập sách này.
Thanh tạng chép ở 2 quyển Bổn và Ư, Tần Già tạng
chép vào quyển Đằng, Tục tạng của Nhật Bản thu
thập sách này vào tập 111. Về sau, Đại chính tạng
của Nhật Bản thu vào tập thứ 48.
Từ lúc sách Sắc tu Bách Trượng thanh qui hoàn
thành đến nay đã hơn 600 năm, địa vị của sách này
đối với lịch sử lâu dài của Thiền tông Hoa – Việt
cũng như của Phật giáo hiện nay đã đóng một vai
trò cực kỳ quan trọng, nhất là về phương diện qui
củ, chế định và nghi lễ của tự viện. Thế nhưng, kể
từ khi có chữ quốc ngữ đến nay chưa có ai dịch, chú
ra Việt ngữ.
Trước khi Thiền sư Bách Trượng Hoài Hải chế
định Bách Trượng thanh qui thì Thiền viện chỉ ở ké
trong chùa Luật, Thiền độ cũng không có giáo qui
độc lập của mình. Đại sư Hoài Hải đã sáng tạo
Thiền viện độc lập, lại chế định luôn thanh qui của
tùng lâm thích ứng với đặc điểm của Thiền tông. Tư
đó sự tu trì và sinh hoạt hằng ngày của Thiền lâm
đều căn cứ vào qui phạm của thanh qui mà sinh khí
tiến hành đồng loạt, qua đó Thiền tông đã phát
triển rộng lớn trở thành dòng chảy chính thức của
Phật giáo. Tuy nhiên do trải qua thời kỳ đen tối đả
kích diệt phế Phật giáo của thời Hội Xương, lại trải
qua thời kỳ cực loạn lạc thời Mạt đường và Ngũ đại
Thập quốc, phần lớn kinh điển Phật giáo đã bị tán
thất không còn. Bản cổ Bách Trượng thanh qui của
Đại sư Hoài Hải cũng chẳng may mắn hơn được.
Cho nên kể từ thời mạt diệp đời Bắc Tống đã co
nhiều loại danh mục qui ước của tùng lâm sản sanh
lưu hành trong một phạm vi nhất định nào đó, trong
đĩ so snh với cc nt trọng yếu của 3 quyển thanh
qui đời Sng Ninh, Hm Hanh v Chí Đại thì cịn co
Nhập chng nhật dụng (cịn gọi l Vơ Lượng Thọ
Thiền sư nhập dụng tiểu thanh qui do Sng Thọ đời
Nam Tống soạn 1 quyển), Huyễn trụ am thanh quy
(lại cịn gọi l Am sự tu trì) 1 quyển do Thiền sư
Trung Phong Minh Bổn đời Nguyn soạn, l cc
thanh qui phạm vi vốn lưu hnh nhỏ. Cc loại thanh
qui ny căn cứ vo ký ức nhớ được hay qua cc
truyền thuyết, ít nhiều dung hợp với nội dung Cổ
thanh qui của đại sư Hoài Hải, chủ yếu chú trọng
phản ánh các chức vụ của từng tự viện, chuẩn tắc
hành sự và qui phạm lễ tiết, cụ hữu rõ ràng đặc
trưng của thời đại và sắc thái của từng địa phương,
nơi này, chỗ nọ đầy đủ hay lược bớt đi không giống
nhau, thậm chí nội dung chống chỏi nhau khiến cho
kẻ hậu học cảm thấy nghi hoặc không hiểu được,
không biết phải nên theo đâu mới đúng.
Do đó mà đến thời trung diệp nhà Nguyên liền
cần phải biên soạn lại một bộ dung hợp, thống nhất
thanh qui của tất cả các địa phương, để thích nghi
với tình huống mới của Thiền tông cùng quan hệ
giữa Thiền tông và các quan phủ, giữa Thiền tông
và những sinh hoạt thế tục có những yêu cầu với
các đặc điểm mới. Sơ khởi, các Thiền sư trứ danh
như Hối Cơ, Liễu Vạn, Vân Ông đều đã từng có chí
nguyện muốn làm điều này, nhưng mà tráng chí
chưa được thực hiện thì các ngài đều đã ra người
thiên cổ. Sứ mạng lịch sử nêu trên đã rơi vào thân
phận đệ tử của Hối Cơ là Thiền sư Đông Dương
Đức Huy vào năm thứ hai niên hiệu Thiên Lịch đời
vua Văn Tông nhà Nguyên (1329) xuất nhiệm trụ
trì chùa Thiền Đại Trí Thọ Thánh ở núi Bách
Trượng thuộc lộ Long Hưng, đạo Giang Tây. Chùa
này chính là Tổ đình của cố Hòa thượng Bách
Trượng Hoài Hải, qui chế và hành sự của tự viện
phần lớn đều bảo lưu di ý của cố Tổ sư Hoài Hải.
Đức Huy phàm bất cứ việc gì của nhà chùa đều
tuân thủ các qui phạm đã hình thành từ trước, trị lý
tự viện rất đạt thành tích. Từ các tăng đảm nhiệm
chức sự cho đến đại chúng đều có thể căn cứ vào
qui củ mà làm việc. Các cơ cấu, các điện đường
đều rất chỉnh túc, trở thành tự viện nổi tiếng mô
phạm trong thiên hạ.
Đức Huy là người có chí lớn và rất có năng lực,
giờ lại nắm Tổ đình Bách Trượng trong tay nên có
tư cách trụ trì chùa danh tiếng trong thiên hạ, do đó
khẳng khái lấy việc thống nhất thanh qui, hầu lắng
trong đại nghiệp của tùng lâm tự làm nhiệm vụ của
mình. Sư biết rằng muốn đạt đến điều này thì nhất
định phải nhờ đến quyền uy của Hoàng đế, bèn nhờ
quan hành tỉnh Giang Tây cầu xin Hoàng đế gia
tăng thụy hiệu cho Bách Trượng Hoài Hải, riêng sư
đến Bắc Kinh triển khai hoạt động. Tại kinh sư Đức
Huy thuyết pháp kết thân với quan ngự sử Trung
thừa Tát Địch và qua sự tiến cử dẫn dắt của Tát
Địch được diện kiến Hoàng đế, tâu rõ ý muốn của
mình và diễn tiến tình huống đổi thay, được Hoàng
đế thích thú, xuống sắc chỉ khâm ban cho sư trùng
biên, lại ra lệnh cho người đồng học của Đức Huy
là Đại Hân, trụ trì chùa Long Tường Tập Khánh, là
người rất được Hoàng đế sùng tín, suất lãnh một
nhóm Tăng nhân có học vấn rành rõ mọi điển
chương tinh gia hiệu chính, cả việc ban tứ đóng ấn
sách này để ban hành rộng rãi.
Sau khi phụng mạng Hoàng đế, Đức Huy lập tức
triển khai một cách khẩn trương công tác biên soạn.
Từ tháng 5 mùa hạ năm đầu niên hiệu Chí Thuận
nhà Nguyên (1330) cho tới mùa đông tháng 10 cùng
năm là bản thảo đã định hình, rồi cộng thêm 5 tháng
nữa là sách thành, lấy tên là Sắc tu Bách Trượng
thanh qui. Tính quyền uy của bộ trước tác này, một
mặt là do phụng khâm mạng Hoàng đế tu soạn và
hiệu chính, lại còn một mặt khác nữa là do nơi chính
thân phận cùng tư cách lịch lãm của Đức Huy, nhất
là do sư lúc trùng biên sách này đã thái thủ được thái
độ nhận chân tương đối nghiêm túc.
Cứ như Đức Huy tự thuật, sau khi sư thọ mạng
của Hoàng đế, từng sưu tầm rộng rãi tư liệu, rồi trải
qua việc giám sát xác nhận Sùng Ninh thanh qui của
Tông Trách trụ trì chùa Thập Phương Hồng Tế ở phủ
Châu Định thời Sùng Ninh đời Bắc Tống, Hàm
Thuần thanh qui Hậu Hồ tỷ-kheo Duy Miễn đời Nam
Tống, Thiền lâm bị dụng thanh qui của Thiền sư
Trạch Sơn Nhất Hàm chùa Đông Lâm vùng Lô Sơn
vào khoảng niên hiệu Chí Đại nhà Nguyên, là những
tác phẩm có giá trị tham khảo rất lớn. Thế là sư đã
lấy mấy loại thanh qui nêu trên làm căn cứ rồi dùng
các chế độ sinh hoạt thực tế tại Tổ đình núi Bách
Trượng để làm phương tiện tham chiếu chủ yếu, tập
trung tinh hoa các bản Bách Trượng, lại tái gia dĩ tỉa
bớt rườm rà, đính chính chỗ nhầm lẫn, bổ khuyết và
giải thích thuyết minh mà hoàn thành bản thảo ban
đầu rồi mang bản thảo đến thỉnh cầu Đại Hân hiệu
chính mà thành ra định bổn.
Lời tự thuật của Đức Huy đủ để thuyết minh giá
trị học thuật cao độ của Sắc tu Bách Trượng thanh
qui. Nhân vì sư lấy tài liệu rộng rãi mà tinh túy đúng
đắn, lại khéo kết hợp những điều sách vở văn hiến
ghi chép với tình huống mô phạm thực tế của tự viện,
cho nên đã có thể phản ánh hết sức đầy đủ di ý của
Bách Trượng cựu qui, lại cũng hết sức thích ứng được
với những hiện thực phong phú phức tạp của Thiền
lâm đời sau. Điều này quyết định giá trị tôn giáo to
lớn của qui phạm chế độ tùng lâm trong sách này,
người cùng thời với Đức Huy là Quốc tử bác sĩ
Hoàng Tấn đã đánh giá rất cao tác phẩm Sắc tu
Bách Trượng thanh qui, cho rằng sách này đã phát
huy lời dạy dỗ của bậc trước, nối tiếp làm rạng rỡ
Tông phong, có thể cùng với nước nhà đồng dạng dài
lâu, mãi còn, chẳng những có thể làm khuôn mẫu ở
đương thời mà còn ở tương lai vô tận có thể làm
chuẩn tắc cho các bậc tôn túc chốn Thiền lâm.
Sự thực đã xác định đúng như thế. Sau khi sách
Sắc tu Bách Trượng thanh qui trùng biên xong, đã
nhận được sự tưởng thưởng của vua Thuận đế nhà
Nguyên và đế đã xuống chiếu cho tăng nhân trong
thiên hạ tất phải tuân theo thanh qui này mà phụng
hành. Các Hoàng đế đời Minh cũng đã rất coi trọng
quyển thanh qui này, các vua Minh Thái Tổ Chu
Nguyên Chương, Minh Thành Tổ cho đến Nhân
Tông, Anh Tông đều từng hạ chiếu ban hành quyển
thanh qui này, cả nghiêm lệnh đối với tăng nhân
nào không tuân thủ điều lệ quyển thanh qui thì đều
phải bị trói lại mà trị tội đúng pháp. Cho đến thời
kỳ đời Đại Thanh và Dân Quốc, bộ Sắc tu Bách
Trượng thanh qui này vẫn là cương lĩnh sinh hoạt
của các tự viện Thiền tông.
Vào thế kỷ thứ 19, một vị học giả Hán học
người Hà Lan đã cho rằng: “Sắc tu Bách Trượng
thanh qui hiện tại vẫn mang tính tuyệt đối quyền uy
trong việc trị lý tự viện”. Lại một học giả Tây
phương khác là H.Hackman ở đầu thế kỷ đã phỏng
vấn hơn 100 ngôi chùa ở 11 tỉnh thành và lưu lại vài
tuần tại một vài tự viện trong số hơn 100 ngôi chùa
trên, đích thân cảm thụ được quyền uy của Sắc tu
Bách Trượng thanh qui tại các tự viện đó. Ông nói:
“Mỗi một đặc điểm của các tổ chức tự viện Phật
giáo đều do sách Sắc tu Bách Trượug thanh qui này
nêu ra hết rồi”, học giả nước Mỹ là Holmes Welch
đã có năm sáu mươi năm tiếp xúc rộng rãi với các
bậc cấp Trưởng lão và Hòa thượng ở các tự viện và
đã hỏi họ tần suất sử dụng Sắc tu Bách Trượng
thanh qui như thế nào, phải chăng sách này đã nằm
yên ắng trên gác cao bị bụi bặm bám đầy, hay là
được dùng tới hằng ngày? Các bậc tôn túc đã đáp:
“Đối với nội dung của sách này thì mỗi cá nhân đều
rành rõ như chỉ tay, rất ít trường hợp có nhu cầu
phải đọc lại. Tuy nhiên nếu có phát sanh nhiều vấn
đề phức tạp mà không có phương pháp nào khác có
thể giải quyết được thì sách này là quyền uy tối hậu
mà ai cũng phải tuân phụng. Bất kể là ở tại tình
hình nào thì các tự viện trứ danh đều tuyệt đối
không dung thứ bất cứ ai làm ngược lại qui định của
Sắc tu Bách Trượng thanh qui”. Do đó mà không
khó thấy ra rằng mục tiêu mà thiền sư Đúc Huy kỳ
vọng không bị rơi vào khoảng không, lời bình luận
của nhóm các ông Hoàng Tấn không phải là lời
rỗng tuếch. Từ hơn 600 năm trở lại đây thì Sắc tu
Bách Trượng thanh qui trong xã hội Phật giáo Trung
Quốc chiếm lĩnh địa vị cực kỳ trọng yếu, giá trị tôn
giáo cực đại của sách này sẽ tồn tại lâu dài không
suy vi theo thời gian.
3. Tiểu sử người trùng biên và hiệu chính
Sau đây xin nêu giản lược tiểu sử người trùng
biên Sắc tu Bách Trượng thanh qui là thiền sư Đức
Huy và người hiệu chính là Đại Hân.
Thiền sư Đức Huy đều không rõ được tên thế
tục cùng năm sanh ngày mất, chỉ biết sư là người
Đông Dương (nay là thành phố Kim Hoa ở Chiết
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |