61
EVOH tăng từ 10-30% (hình 3.5a, 3.5b và 3.5c), các polyme thành phần có mức độ
phân tán và tương hợp tốt với nhau. Hỗn hợp thu được là một pha đồng nhất, bề mặt
cắt không thấy xuất hiện những vùng tách pha, gãy hoặc vón cục. Nikos và cộng sự
cũng thu được kết quả tương tự khi tiến hành chế tạo polyme blend HDPE/EVOH
sử dụng chất trợ tương hợp là SEBS-g-MA [28]. Điều này là do khi sử dụng chất trợ
tương hợp PE-g-MAH, phần PE trong chất trợ tương hợp dễ trộn lẫn với pha PE,
phần MAH sẽ phản ứng với nhóm hydroxyl của EVOH tạo thành copolyme ghép
EVOH-g-chất trợ tương hợp. Cơ chế hình thành cầu nối este giữa EVOH và chất trợ
tương hợp được biểu diễn trong sơ đồ hình 3.3. Khi copolyme ghép này tạo thành,
phần PE trong polyme blend LLDPE/EVOH sẽ trộn hợp đồng nhất với pha PE,
phần EVOH sẽ trộn hợp tốt với pha EVOH làm cho PE và EVOH tương hợp với
nhau tốt hơn. Do đó, sức căng bề mặt tại liên diện giảm xuống, tương tác tại bề mặt
phân chia pha tăng lên dẫn đến sự phân bố của pha EVOH trong pha liên tục PE
mịn và đồng đều hơn. Tuy nhiên, khi tiếp tục tăng hàm lượng EVOH trong polyme
blend từ 40-50% (hình 3.5d và 3.5e), quá trình tương hợp giữa hai pha EVOH và
LLDPE trở nên kém hơn. Quan sát trên bề mặt gãy thấy rất rõ các hạt bị đẩy ra khỏi
pha nền, ít có sự bám dính được tạo ra giữa EVOH và LLDPE.
3.1.1.5. Nhiệt lượng quét vi sai (DSC) của polyme blend PE/EVOH
Giản đồ DSC của các mẫu polyme blend PE/EVOH với hàm lượng chất trợ
tương hợp PE-g-MAH 4% ở các tỷ lệ PE/EVOH khác nhau được thể hiện trên hình
3.8 (a và b) và tổng hợp trong bảng 3.3.
Bảng 3.3. Ảnh hưởng của tỷ lệ LLDPE/EVOH đến tính chất nhiệt của polyme
blend
Chia sẻ với bạn bè của bạn: