Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên Quyển 1 印光 法 師文 鈔 參 編 卷 一


Thư trả lời cư sĩ Đinh Phước Bảo



tải về 2.21 Mb.
trang11/29
Chuyển đổi dữ liệu10.03.2018
Kích2.21 Mb.
#36455
1   ...   7   8   9   10   11   12   13   14   ...   29

66. Thư trả lời cư sĩ Đinh Phước Bảo (thư thứ mười tám)
Hôm Rằm vừa rồi nhận được một gói Phật Học Toát Yếu, một cuốn Tịnh Tọa Pháp Tinh Nghĩa, liền đọc ngay. Biết các hạ đối với mỗi pháp tịnh tọa của tam giáo đều biết được cốt lõi, đầu mối. Nhưng hoằng dương Phật pháp chớ nên xen lẫn chuyện luyện đan vận khí của Đạo Gia, sợ kẻ chủng tánh tà kiến sẽ biến tà thành chánh thì muốn làm cho người ta được lợi ích hóa ra lại [khiến cho họ bị] mắc hại. Toàn thể cách ngồi để tham cứu bản thể như Nho gia đã luận đều là lấy cách tham cứu của nhà Thiền rồi thay đổi tên gọi, nhưng trọn chẳng nói đến Phật pháp! Dẫu [coi là] bản lãnh cao sâu, đối với mình lẫn người đều có lợi ích, nhưng lén trộm lấy điều hay của người khác để [khoe khoang] chính mình tự có thì cái đạo “thành ý chánh tâm” đã biến thành thiếu sót, khôn ngăn người phải cảm khái, than thở!

Trang mười lăm, dòng thứ tám: “Phật Di Giáo Kinh: Chế tâm nhất xứ, vô sự bất biện” (Kinh Phật Di Giáo dạy: ‘Giữ tâm ở một chỗ, thì không chuyện gì chẳng thực hiện được’). Chữ “nhất xứ” ở đây nghĩa là niệm niệm luôn hướng về đạo, tâm hợp với đạo, tâm và Phật hợp với nhau. Phần giải thích của các hạ dưới đoạn văn này quá chấp hình tích. Nơi dòng thứ mười một, chữ Duyên Trung chỉ cho cảnh được duyên bởi tâm, vì thế tiếp đó liền nói: “Nhược mi gian, nhược ngạch thượng, nhược tỵ đoan”. (Hoặc giữa chặn mày, hoặc trên trán, hoặc chót mũi). Đấy chính là những cảnh được duyên, chứ không phải Duyên Trung150 cũng là tên gọi của cảnh! Nếu Duyên Trung cũng là tên gọi của Cảnh thì phải dùng chữ “cập” (và), chẳng nên dùng chữ “nhược” (như là). Đạo gia ăn trộm kinh Phật, nhưng không hiểu ý, lầm lạc xác định vị trí của Duyên Trung, lại còn muốn ra vẻ khác biệt với Phật, bèn gọi là Hoàng Trung, nực cười đến thế! Các hạ đọc rộng mà vẫn noi theo Đạo giáo một mực hiểu lầm “cảnh được duyên”. Đủ thấy hoằng pháp xen tạp, có chỗ gây lầm lạc cho người khác. Đến hàng thứ mười hai “lắng tâm nơi Đan Điền”, đây chính là cách trị bệnh. Vì thế, phần kinh văn tiếp đó nói: “Lâu ngày ắt trị được nhiều bệnh”, chứ không phải là chẳng vì trị bệnh mà cũng lấy Đan Điền làm cảnh sở duyên.

Dòng mười lăm, mười sáu, “nhĩ thời đương hệ niệm tỵ đoan, linh tâm trụ tại duyên trung, vô phân tán ý” (khi ấy hãy nên chú tâm nơi chót mũi khiến cho tâm trụ nơi cảnh được duyên, ý không bị phân tán) đủ thấy “hệ niệm tỵ đoan” chính là “tâm trụ duyên trung” (tâm trụ vào nơi cảnh được duyên). Nếu nói “duyên trung” chính là cảnh thì nhất tâm hệ niệm hai cảnh, há chẳng phải là tâm và cảnh tách rời, do đâu mà thành Định cho được? Trong dòng mười một ở phần trên, “sơ học hệ tâm duyên trung: nhược mi gian, nhược ngạch thượng, nhược tỵ đoan” (Kẻ mới học buộc tâm nơi cảnh được duyên như là giữa chặng mày, trên trán hoặc chót mũi). Tuy nói ba cảnh, nhưng rốt cuộc chỉ là duyên nơi một. Vì thế, đối với mỗi cảnh đều dùng chữ Nhược.

Các hạ bị lời xằng bậy của Đạo gia xoay chuyển, sao chẳng xét sát sao ý nghĩa kinh văn để thấy được ý chỉ gốc? Đạo gia ăn trộm kinh Phật rất nhiều chỗ giống như vậy đó, hãy nên bỏ qua không bàn đến [mới là đúng lý]. Nếu dẫn tràn lan vào sách nhà Phật, rồi lại chẳng phân biệt được là đúng hay sai thì chúng sẽ trở thành tấm bùa hộ thân cho những kẻ tà kiến. Những kẻ luyện đan thường coi những pháp như trị bệnh v.v… là lạ lùng, đặc biệt, [lấy những chuyện đó] để chứng minh cho phép luyện đan vận khí, nhưng các hạ chẳng biết dụng ý của chúng, lại bình luận là “giống như duyên để buộc tâm chăm chú vào một chỗ” thì những kẻ khác đạo kia sẽ nói Phật pháp cũng là pháp luyện đan vận khí!

Ngài Bảo Chí Công là bậc Pháp Thân đại sĩ hiện khắp mọi sắc thân, há nên đem chuyện tinh hồn151 xuất thần [biến hóa trong Đạo giáo] để so sánh luận bàn? Hễ lẫn lộn chỗ này thì Môn Cữu Cô Nương152 và Thuần Dương Lã Tổ sẽ bằng vai phải lứa, chẳng khác chút nào! Sách Lễ Ký chép: “Nghĩ nhân tất ư kỳ luân” (Làm người thì phải noi theo lẽ thường). Các hạ lỡ lời, Quang chẳng thể nào vì kiêng nể các hạ mà không nói! Trang mười chín, dòng thứ chín ghi “chủ nhất” (chú trọng vào một), giảng rất hay. Sao các hạ chẳng áp dụng nghĩa này để giải thích ý nghĩa câu “chế tâm nhất xứ” (chế ngự tâm vào một chỗ). Dòng mười sáu, mười bảy nói đến chuyện “hồi quang” cũng là dấu vết của Đạo gia, nhưng cũng là lời nói do chẳng biết bản thể mà cứ nói vậy! Dòng hai mươi mốt luận về ý nghĩa Pháp Thân cũng chẳng phải là [những ý nghĩa] Pháp Thân vốn có.

Trang thứ chín, từ dòng ba mươi trở đi, Vi Chỉ Thiên của Bão Phác Tử153 chính là phần rút gọn của Cảm Ứng Thiên, chẳng nên gọi là bản cội nguồn của Cảm Ứng Thiên! Theo Phật Tổ Thống Kỷ154, quyển năm mươi bốn, năm Quang Hòa thứ hai (179) đời Hán Linh Đế, Lão Quân155 giáng xuống núi Thiên Thai, đem Cảm Ứng Thiên truyền cho tiên nhân Cát Huyền156, đủ biết rằng Vi Chỉ là phần trích lục đại cương [của Cảm Ứng Thiên] mà thôi.

Trang ba mươi mốt, dòng thứ mười lăm ghi: “Ấn Quang giới luật trang nghiêm thanh tịnh, tinh thông mười hai bộ kinh”, khôn ngăn hốt hoảng, thật chết người! Phật pháp chẳng thể coi giống như tình cảm thông tục trong cõi đời được! Các hạ rốt cuộc đã biến Phật pháp thành tình cảm thông tục trong cõi đời. Tuy là có ý nồng hậu, nhưng những người biết rõ mười mươi Quang ấp ủ những thứ thấp kém như thế nào sẽ khó thể không chê các hạ nói chẳng đúng sự thật!

Tôi đã gởi Phật Học Toát Yếu sang tỉnh thành Sơn Tây, bảo bạn bè chia ra tặng cho những người có tín tâm, xin vì những người ấy hết sức cám ơn. Thế đạo tình người hiện thời đã hết thuốc chữa, trừ đạo nhân quả ba đời của đức Như Lai ra, dẫu có Tứ Vô Ngại Biện đối trước người ta thuyết pháp cũng vẫn uổng công. Chỉ cần biết có chuyện nhân quả báo ứng luân hồi sanh tử thì tâm người ta sẽ kinh sợ, chỉ sợ do nhân ác sẽ chuốc lấy quả ác mà thôi, thế rồi khởi tâm, động niệm, xử sự chẳng dám phóng túng không kiêng kỵ, mặc tình mà làm! Dẫu ở trong nhà tối vẫn như đối trước Ngọc Hoàng Thượng Đế! Nếu đức Như Lai chẳng mở ra pháp nhân quả thì người đời sau sống trong vòng trời đất muốn được chết yên lành cũng hiếm hoi lắm! Nhưng kẻ cuồng sợ bị trói buộc, kẻ ngu sợ bị ngăn trở chuyện của chính mình; do vậy, nếu chẳng bảo nhân quả là chấp tướng thì cũng chê là mờ mịt. Các hạ sưu tập hết những chuyện nhân quả từ các sách vở, gom soạn thành sách, tuy đối với lẽ bổn phận tợ hồ chưa đạt đến cùng tột, nhưng sẽ có ích lớn lao [để giúp cho] lòng người chưa chết, thiên lý sắp sống dậy vậy! (Ngày Mười Chín tháng Sáu năm Dân Quốc thứ tám - 1919).

Ông Châu Quần Tranh ở Ôn Châu đọc Liễu Phàm Tứ Huấn cho là văn lẫn lý đều tinh vi, thiết thực, tính bảo Thương Vụ Ấn Thư Quán sắp chữ đem in để kết duyên, sai Quang viết lời tựa. Lại do nhằm đúng kỳ [thiện tín lên núi Phổ Đà] dâng hương, thường có người tới đây [thăm viếng] nên đến nỗi chậm trễ mấy ngày, thật là thiếu sót!
67. Thư trả lời cư sĩ Đinh Phước Bảo (thư thứ mười chín)
Đã lâu chưa gặp gỡ, thường nghĩ đến ông. Nay có một đệ tử ở Thiểm Tây là Vương Tôn Tổ bị bệnh phổi đã lâu, các cách chữa trị đều vô hiệu. Nghe nói cư sĩ là chuyên gia trị bệnh phổi bèn xin Quang giới thiệu. Những sách do Quang in ra trong năm sáu năm qua, sợ cư sĩ không rảnh để xem; vì thế, chẳng gởi. Tôi đã từng gởi hai bộ Sơn Chí của Phổ Đà và Thanh Lương cho ông hay chưa, nay tôi cũng không nhớ rõ! Nay bảo ông ta đem theo cả ba bộ Sơn Chí của Nga Mi, Thanh Lương, Phổ Đà. Ngoài ra còn có Viễn Công Văn Sao, Tang Tế Tu Tri, Niệm Phật Khẩn Từ, Tọa Hoa Chí Quả cùng gói thành một bọc, mong hãy xem khi rảnh rỗi. Cuối cuốn Tọa Hoa Chí Quả có in thêm Tỉnh Mê Lục, cũng rất đúng với căn bệnh phổ biến hiện thời. Cuốn này do một người ở Tứ Xuyên biên tập, một vị cư sĩ gởi đến, do vậy bèn in kèm vào sau.

Vương Tôn Tổ là con trai thứ tư của một người bạn tôi là Vương Ấu Nông. Trước kia, Ấu Nông làm ty trưởng ty Dân Chánh Sự Vụ tỉnh Thiểm Tây, hiện nay làm chủ tịch Hội Cứu Tế Thiên Tai, là người ít thấy trong chánh giới hiện thời. Người đi cùng Vương Tôn Tổ là con thứ của ông ta, tên tự là Thứ Sam, thường sống tại Tô Châu.


68. Thư trả lời cư sĩ Khuất Văn Lục (thư thứ nhất)
Nhận được thư đầy đủ. Pháp hội lần này là Hộ Quốc Tức Tai; phàm là quốc dân đều nên hết lòng góp phần. Trong khóa tụng sáng tối, Quang cũng đều cầu nguyện. Nay được Hội Trưởng và các vị sai khiến, cố nhiên phải trọn hết lòng ngu thành của tôi. Chớ nên áp dụng thói khắc khổ giả dối trong thời gần đây đến nỗi chẳng thành ra thể loại của một pháp hội Hộ Quốc! Suốt cả đời Quang chẳng dự vào hội đoàn của ai, cứ hành riêng theo chí của mình. Lúc ở Phổ Đà, thoạt đầu thường trụ mời khắp mọi người đi dự Trai Tăng thì cũng đi. Một buổi Trai Tăng mất hết hai ba tiếng đồng hồ, cảm thấy chán ngán quá, bèn hơn hai mươi năm không đi dự Trai Tăng!

Lần này là chuyện tận tâm cá nhân. Nếu thực hiện theo cách thỉnh pháp sư giảng kinh thông thường thì trọn chẳng hợp lẽ! Về biện pháp đả thất thì tuy tôi chẳng thể [đả thất] cùng đại chúng được, nhưng vẫn phải tuân thủ quy củ đả thất. Bất luận là ai, [Quang] cũng nhất loạt không gặp! Vì nếu gặp một người, há chẳng thể nào không mệt đến chết ư? Năm Dân Quốc thứ mười (1921), Quang đến [dự Phật thất] tại chùa Thường Tịch Quang ở Hàng Châu, người trông coi [Phật thất ấy] hoàn toàn không có chương trình, người ta kéo đến ào ào, trong vòng hai bữa [phải chào hỏi] nứt họng luôn. Lần này đã có kinh nghiệm rồi, cố nhiên chẳng thể không nói rõ trước.

Khi Quang đến [Thượng Hải] thì cắt một người làm Trà Đầu, phàm những chuyện ăn uống đều do người ấy lo liệu, ba bữa sáng trưa tối ăn một mình trong phòng. Trong bữa cháo sáng thì bánh mạn đầu hay cơm chỉ dùng một thứ. Bữa trưa thì một chén rau, bốn cái mạn đầu; buổi tối thì một bát mì lớn, quấy quá cho xong. Quang mấy chục năm ăn cơm không để sót lại thức ăn nên chỉ cần một chén thức ăn. Ăn xong, dùng bánh mạn đầu vét sạch dầu mỡ trong bát, chớ nói là “ăn xong phải chừa lại đôi chút!” Ngoài ra, tất cả những thứ điểm tâm lôi thôi đều nhất loạt chẳng dùng đến. Hôm viên mãn Phật thất, cũng không dự Trai Tăng. Dẫu cử hành lễ Trai Tăng ngay trong pháp hội, Quang cũng chẳng ngồi ăn cùng mọi người do không có tinh thần để bồi tiếp. Hôm sau ngày viên mãn sẽ trở về đất Tô ngay, cũng đừng nên đưa tiễn, đưa tới ngoài cửa liền dừng chân. Nếu cứ tiễn chân sẽ trở thành thói quen của chốn thị tứ, chẳng thành ra quy củ một pháp hội Hộ Quốc Tức Tai vậy! (Ngày Mười Bảy tháng Chín năm Dân Quốc 25 - 1936).

Thêm nữa, hãy đem lời Quang chẳng tiếp khách bảo với các vị lo việc chiêu đãi. Nếu có ai đem quà đến biếu, đều bảo họ cầm về; nếu chẳng chịu cầm về thì sung vào quỹ của hội [Phật giáo Trung Quốc]. Đồ ăn đã như thế mà tiền tài cũng giống như thế, bảo họ cúng dường cho hội, đừng cúng dường cho Quang. Hơn nữa, tiền tàu xe đi về của Quang và của người Trà Đầu đều tính sổ với Quang. Hội cũng không nên thưởng công hậu hĩnh cho người Trà Đầu, bởi người ấy cũng vì quốc dân mà góp phần, chớ nên đối xử nồng hậu đặc biệt, đâm ra chẳng hợp pháp thể! Quang là một ông Tăng lui tới một mình, sợ rằng [hội Phật giáo Trung Quốc] vẫn chưa thông cảm điều đó nên mới phải nói thêm.


69. Thư trả lời cư sĩ Khuất Văn Lục (thư thứ hai)
Hôm trước, khi viết thư vừa xong, đưa cho thầy Đức Sâm coi, thầy ấy nói: “Hãy nên nhờ cư sĩ đem chuyện không tiếp khách, không nhận quà tặng dù là thức ăn hay tiền tài đăng trên tờ Tân Thân Báo để mọi người đều biết!” Quang cho rằng làm như thế sẽ phiền phức. Ngày hôm qua, thầy ấy cầm báo đưa cho Quang xem, thưa: “Con đã đăng báo rồi!” Vậy là nên đem chuyện này đăng báo. Sáng nay lại nhận được thư ngày hôm qua và ngày hôm trước, cho biết cư sĩ sẽ tự mình lái xe đến đón, chứ không để cho hội phải bỏ tiền xăng. Được cư sĩ yêu mến nồng hậu, khôn ngăn cảm kích, hổ thẹn; nhưng Quang một mực chẳng thích được người khác tung hô, lại cần phải đi các nơi. Chi bằng để tôi đón xe kéo tùy theo ý thích. Nếu phải ngồi xe hơi, hóa ra chẳng khác gì bị giam lỏng, chẳng được tự tại. Ngàn phần mong ông đừng làm mệt chính mình để đôi bên đều được thoải mái.

Hơn nữa, Quang thuyết pháp chẳng giống với hết thảy các pháp sư khác. Các đại pháp sư phần nhiều chú trọng đàm huyền thuyết diệu, Quang chẳng biết nói chuyện huyền diệu, mà phần nhiều chú trọng dạy người giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận. Năm Dân Quốc mười mấy (quên mất năm nào), Quang đến Ninh Ba, ông Hoàng Hàm Chi thỉnh đến nói khai thị tại Niệm Phật Xã ở phía ngoài nha Đạo Doãn. Vị đại lão quan X… ngồi kiệu đến, lúc ấy Quang đã diễn thuyết. Sau đấy, [khi Quang] nói đến chuyện giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, cha từ, con hiếu v.v… người ấy bèn lên kiệu bỏ đi. Nhưng Quang một mực giữ chí này, chẳng vì người khác không thích nghe mà thay đổi phương châm. Huống chi lần này là Hộ Quốc Tức Tai, chuyện niệm tụng vẫn là cành nhánh; giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận mới là căn bản. Bất luận người ta thích nghe hay không, tôi vẫn lấy đó làm tông chỉ.

Còn chuyện quy y thì Quang không xứng, bởi Hội Trưởng hội Phật giáo là chủ nhân, Quang là khách, những kẻ quy y kia nên quy y với Hội Trưởng. Đấy là điều chí lý quyết định chẳng thay đổi được! Hơn nữa, mắt Quang đã lòa, xem sách phải dùng cả kiếng lão lẫn kiếng lúp cũng chỉ thấy lờ mờ, làm sao thăng tòa vì người khác nói Tam Quy Ngũ Giới cho được. Hơn nữa, rất đông người, cũng chẳng ghi pháp danh được. Chắc chắn chẳng chấp nhận chuyện này để khỏi bị người ta chê cười! Lần này đến Thượng Hải, chuyên vì Hộ Quốc, tuy chẳng thể theo đại chúng niệm tụng, nhưng vẫn theo cùng một quy củ với đại chúng để khỏi bị phân tâm trở thành hữu danh vô thực. Nếu dùng biện pháp tiếp đón pháp sư rềnh rang như thường thấy thì đôi bên đều sai lầm. Do vậy, Quang phải thưa rõ trước! (Ngày Hai Mươi tháng Chín năm Dân Quốc 25 - 1936)

Những điều Quang sẽ nói đều một mực tùy tiện không theo thứ tự nhất định. Phật sự niệm tụng lần này để hộ quốc tức tai, ngày đầu tiên sẽ nói đại lược về ý nghĩa hộ quốc tức tai, tức là nói về công đức lợi ích của pháp môn Niệm Phật. Ngày hôm sau lại nói đến đạo hộ quốc căn bản để mong vãn hồi thế đạo nhân tâm. Lúc Quang mới xuất gia, tới nhà một vị cư sĩ, cả nhà ấy đều tin Phật: Mẹ chồng, con dâu là hai người, ba bốn đứa con, mỗi người thờ một vị Phật, bàn thờ Phật là một cái bàn dài. Cô con dâu chỉ thắp hương, cúng nước, phẩy bụi cho đức Phật của mình, còn tượng Phật của mẹ chồng bụi bám cũng không phẩy, Quang thấy vậy mà đau lòng! Những người như vậy do vì chưa nghe thiện tri thức dạy dỗ nên dùng thân báng pháp. Đây là nguyên do vì sao Quang chú trọng đến chuyện giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận vậy.

Lại thấy nhiều người thâu nhận đồ đệ cho nhiều, đều chẳng phải hạng người tu hành thật sự. Do vậy, phát nguyện chẳng thâu nhận đồ đệ. Do thấy sự hèn hạ của tăng nhân hướng về người khác hóa duyên nên chẳng nguyện làm Trụ Trì, làm pháp hội. Nay đã già rồi, vẫn chưa đến nỗi phụ bạc cái tâm thuở đầu, cam lòng giữ bổn phận kiếm cơm, ngõ hầu những bạn bè đã sanh về Tây Phương từ trên đài sen chẳng chê cười tôi!
70. Thư trả lời cư sĩ Khuất Văn Lục (thư thứ ba)
Gởi đi bức thư đề ngày Hai Mươi rồi, đến chiều hôm qua mới biết cụ Chi đã về Tây, khôn ngăn thảm thương, Phật pháp mất đi một người hộ pháp ưu tú, quả là một đại bất hạnh cho Phật giáo! Đối với bạn bè chí thân thâm giao, Quang một mực đều chẳng viết bài phúng điếu, chỉ trong lúc hồi hướng vào khóa tụng sáng tối bèn hồi hướng cho họ trong bảy ngày hoặc hai mươi mốt ngày hoặc ba mươi lăm ngày, hoặc nhiều ngày hơn nữa mà thôi! Nay tôi cũng làm như thế đối với cụ Chi. Trước đây tôi đã nhận được chương trình nhập hội của hội Phật giáo, do không dễ đọc nên giao cho thầy Đức Sâm, thầy ấy nói hãy nên nhập hội. Nay nộp (tiền quỹ một trăm đồng, lúc đến sẽ mang theo), thư tình nguyện gia nhập thì gồm hai chữ cơ bản và tên Quang là ba chữ nữa, người giới thiệu thì xin pháp sư Viên Anh và cư sĩ hãy tự điền vào. Còn đối với những điều được nêu trong mặt sau thư thì do người đã bảy mươi sáu tuổi sắp chết trong sáng chiều có lẽ chẳng cần phải dông dài!

Cư sĩ gởi thư nói sẽ đến đón thì vào ngày Mười Tám đến chùa Thái Bình là được rồi. Ngày mồng Sáu, mồng Bảy quyết chẳng được. Vì sao vậy? Do ai có chí nấy, nếu tỏ lòng kính trọng mà trái ý người ta, làm sao có chuyện đó được? Nếu không, Quang trở về đất Tô ngay, quyết chẳng đến Tịnh Nghiệp Xã. Quang rất chán chuyện này, há chịu vì hộ quốc tức tai mà lại phải nín nhịn sự tâng bốc quá mức của cư sĩ ư? Đã coi Quang là người ngoài thì Quang sẽ tự xử sự như người ngoài, trở về đất Tô vào quan phòng tự niệm tụng một mình. Phàm mọi chuyện đều nên thông cảm cho lòng người ta, người thích được tâng bốc [bèn tiếp đón trọng thể] thì được, chứ người không thích được tâng bốc sẽ cảm thấy xấu hổ không yên, cần gì phải khổ sở vì ý tốt mà khiến cho người khác phải hổ thẹn không yên vậy?

Còn đối với chuyện sau hôm viên mãn [pháp hội] sẽ nói Tam Quy Ngũ Giới, nếu chiếu theo cách Quang thường truyền giới thì thật chẳng có nghi thức nào đáng coi được cả. Nếu muốn phô trương bày vẽ thăng tòa thì Quang quyết chẳng thể làm được vì mắt chẳng đọc được chữ. Nếu cứ phải “không thăng tòa là không được” thì hãy mời người khác nói thay, Quang chẳng đến đàn truyền giới! Đối với chuyện pháp danh, Quang cũng chẳng thể viết. Bất luận bao nhiêu người, bất luận bao nhiêu tiền hương kính, Quang chẳng lấy một đồng. Ngoài tiền biếu cho vị sư nói thay và các sư trực ban ra, đều dùng làm chi phí cho hội Phật giáo hết. Biện pháp như thế có lẽ thích đáng cho khắp mọi người. Nếu đối đãi với Quang như một vị pháp sư giảng kinh thông thường thì sẽ đánh mất thể tài của hai chữ Hộ Quốc, mà lại còn coi rẻ Quang. Vì sao vậy? [Người ta sẽ tưởng Quang] đặc biệt vì chuyện hộ quốc mà thủ lợi! Quang tuy thiếu sáng suốt, vẫn chẳng mong trong những ngày sắp chết lại nhận được tiền bạc từ pháp hội Hộ Quốc này! (Ngày Hai Mươi Ba tháng Chín).
71. Thư trả lời cư sĩ Hứa Chỉ Tịnh
Lễ sám không có quy củ cứng ngắc, chỉ dốc lòng chí thành khẩn thiết là được rồi! Thờ Phật trong phòng ngủ trừ trường hợp nghèo nàn không có phòng nào khác thì được. Nếu có phòng khác, trọn chẳng nên thờ trong phòng ngủ. Công khóa tùy theo ý của mỗi người, cũng không có chương trình nhất định. Quang thì khóa sáng ắt phải cứ chiếu theo Khóa Tụng Sáng Tối mà niệm thẳng tuột. Phàm những chỗ phải lên giọng xướng tán cũng niệm thẳng tuột, chỉ [đọc] hơi chậm lại một chút mà thôi. Quang trọn chưa học cách xướng niệm, nhưng ở trong tùng lâm hãy nên niệm nhỏ tiếng đừng để bên ngoài nghe tiếng đến nỗi làm kinh động người khác.

Lúc đầu thì Quang mỗi ngày lễ mấy trăm lạy, mấy năm gần đây nhiều việc quá, chỉ hai thời công khóa. Mùa Đông thì mỗi ngày lễ hơn trăm lạy, mùa Hạ chỉ mấy chục lạy, mà cũng chỉ lễ Thích Ca, Di Đà, Tịnh Độ Tam Kinh và các kinh Đại Thừa, Quán Âm, Thế Chí, Thanh Tịnh Hải Chúng, tận hư không trọn pháp giới quá khứ, hiện tại, vị lai hết thảy chư Phật, hết thảy tôn pháp, hết thảy hiền thánh tăng (Lễ Phật Di Đà nhiều ít không nhất định, dựa theo tinh thần và hoàn cảnh mà tăng hay giảm, đối với mỗi vị khác đều lễ ba lạy). Mấy lúc gần đây trong ban ngày trọn chẳng thể xem kinh, lễ Phật, tất cả thư từ và những chuyện nhờ cậy giảo chứng, giảo đối đều đã không rảnh rỗi để làm.

Hiện thời, phu nhân đã có thể ăn chay trường suốt năm tháng, sao không ăn luôn một năm? Bởi lẽ, sát nghiệp gây trở ngại lớn nhất cho sự vãng sanh! Nếu chẳng vãng sanh ngay, lại càng phải nên không ăn thịt để khỏi phải đền nợ thân mạng trong vị lai. Niệm Phật ăn chay vãng sanh Tây Phương là chuyện công đức bậc nhất trong thế gian. Nỡ để cho vợ con chẳng quyết định được hưởng lợi ích này hay sao? Đối với công nhân, nếu muốn làm cho họ gieo thiện căn, chẳng ngại gì nói rõ đầu đuôi với họ, dùng chi phí mua đồ ăn mặn để làm tiền thưởng thì do họ làm được nhiều tiền hơn sẽ trọn chẳng đến nỗi thốt lời gièm pha!

Mùa Hạ năm nay các nơi lụt lội, dân đói rất đông, hãy nên răn nhắc người nhà sốt sắng niệm Phật để ngừa tai họa ngoài ý muốn. Nếu ai chẳng thể chịu đựng nhọc nhằn, hãy nghĩ đến nỗi khổ của dân đói và nỗi khổ của nhà giàu bị cướp đoạt thì sẽ tự chịu đựng được sự khổ sở vì niệm Phật. Chuyện này vốn đâu có khổ, do một mực không quen nên mới thấy là khổ. Nhưng cái khổ này là sự khổ để thoát khổ, nếu chẳng chịu nỗi khổ này thì nỗi khổ trong tương lai sẽ chẳng thể nói trọn hết được! (Năm Ất Sửu - 1925).


72. Thư trả lời cư sĩ Tiêu Dịch Đường
Hôm mồng Một nhận được thư, tôi khôn ngăn vui mừng, an ủi. Ông đã dùng gan ruột Bồ Tát để thực hiện sự nghiệp hộ pháp thì nay đang gặp đúng dịp. Dân Quốc mở mang nền Cộng Hòa, tự do tôn giáo, dùng chủ nghĩa Tam Dân để hiệu triệu lẫn nhau, nay đã được mười tám năm rồi, nhưng đối với Tăng nhân lại vô cùng ngược đãi, ý muốn đuổi Tăng đoạt của, ngõ hầu cả nước trọn chẳng còn một Tăng sĩ nào thì mới thỏa dạ! Lại sợ dư luận gây trở ngại nên mượn tiếng quản lý [chùa miếu] để làm căn cứ xua đuổi, chiếm đoạt. Lập ra hai mươi mốt điều thì như trong điều thứ tư, điều thứ năm, điều thứ chín, tuy mạo danh quản lý, bảo hộ, há chẳng khiến cho bậc tri thức đau lòng, kẻ ôm dã tâm khoan khoái ư? Lập pháp kiểu đó há còn đáng gọi là tự do tôn giáo nữa hay chăng? Há còn có thực tế dân sinh, dân quyền, dân tộc nữa ư? Có còn đúng với chánh lệnh lập quốc của nước Cộng Hòa nữa hay không? Chủ nghĩa như thế chính là thực hành đẩy dân đến chỗ chết, đoạt dân quyền, diệt dân tộc vậy!

Nếu nói: “Điều này chỉ có Tăng giới bị ảnh hưởng, chứ không phải dân chúng trong cả nước bị như vậy” thì thử hỏi: Tăng chẳng phải là người dân trong nước hay sao? Nếu áp dụng những thứ pháp lệnh ấy cho dân cả nước thì còn chấp nhận được, nay chỉ áp dụng riêng cho Tăng; chẳng phải là do Tăng chúng yếu ớt không có sức bèn dùng thủ đoạn lấn áp, cậy mạnh hiếp yếu, lấy đa số chèn ép thiểu số hay chăng? Nhật Bản là nước bé tẹo tèo teo mà xưng hùng toàn cầu, vẫn chẳng coi Phật pháp là ung nhọt. Nước ta từ sau đời Hán đến nay, Phật pháp truyền sang khắp các nước Đông, Tây, Nam, Bắc. Nay muốn cho nước nhà thống nhất, nhân dân yên vui, mà lại coi Phật pháp vốn là pháp “về mặt ngầm thì giúp giữ yên nền bình trị, về mặt hiển nhiên là giữ yên dân tình” giống như ung nhọt, muốn trừ khử đi; có khác nào muốn cho cây cỏ xum xuê mà lại đẵn gốc trước? Muốn cho [nước] chảy được xa mà lại lấp nguồn trước? Phật pháp ích lợi cho cõi đời trên phương diện tinh thần, kẻ phàm phu chẳng thể thấy được, giống như rễ cây, như đầu nguồn nước. Những kẻ tri kiến thiển cận trong cõi đời chỉ phê bình, bàn luận về sự lan truyền tạo lợi ích rộng khắp nơi thân, cành, nhánh, lá; chứ đối với điều khiến cho thân, cành, nhánh, lá được lan truyền tạo lợi ích rộng khắp lại chẳng hề biết! Há chẳng đáng gọi là “xoay càng xe về phía Bắc để đi tới nước Việt [ở phương Nam]”, bước giật lùi mà mong tiến lên phía trước ư?

Ngày Hai Mươi Chín tháng trước, các vị Tăng - tục thuộc hội Phật giáo Thượng Hải lên Bắc Kinh thỉnh nguyện. Ngày hôm qua, tôi nhận được thư gởi đến mời các ủy viên Tăng - tục trong hội [Phật giáo Trung Quốc] cùng đến họp. Quang vốn là ông Tăng già đợi chết, không có môn đình, không có đồ chúng, không có bản lãnh gì, hội ấy do thấy Quang có chút hư danh nên cũng kể tên Quang làm hội viên. Nhưng thân Quang đây đã gác ra ngoài rồi; nếu Dân Quốc rộng dung thì chẳng ngại gì trọn hết tuổi thừa. Nếu chẳng dung nạp thì chẳng ngại gì kết bạn với Hà Bá, Hải Nhược157, miễn sao khỏi gây trở ngại cho địa giới của Dân Quốc, đâu cần phải thỉnh nguyện xin họ bao dung để mong sống mãi trong cõi đời ư?

Chỉ vì Phật pháp là tròng mắt của người, trời. Đang trong lúc tàn sát lẫn nhau đến mức chẳng dứt này, muốn hưng khởi điều lợi, trừ bỏ thói tệ, mà trước hết lại theo đuổi chuyện diệt pháp thì sợ rằng sẽ dẫm theo vết xe đổ của Ngụy Vũ, Châu Vũ, Đường Vũ158, nào phải chỉ tự mình chuốc lấy quả báo mà còn để lại tiếng nhơ cho người đời sau chê cười, gây tổn hại vô ích cho nước, cho dân. Do vậy, chẳng nề hà kỵ húy, trình bày thẳng thừng điều lợi, lẽ hại, mong cư sĩ sẽ phát lòng vì nước vì dân mà cực lực duy trì, ngõ hầu những điều lệnh đã được ban hành trước đây chẳng trở thành sự thật thì quyền tự do tôn giáo trong nền Cộng Hòa, lời hiệu triệu chủ nghĩa Tam Dân mới hữu ích lớn lao cho nước, cho dân, chứ nào phải chỉ Tăng chúng được hưởng phước lợi mà thôi! (Mồng Ba tháng Năm)

Hiện thời những kẻ nói đến chuyện nam nữ bình quyền, phần nhiều đều chẳng biết quyền của nữ nhân lớn lao hơn quyền của nam tử khó thể diễn tả, thí dụ được! Thế đạo loạn lạc cũng do nữ quyền chẳng được chấn hưng mà ra! Muốn giữ yên thế đạo, phải gấp làm sao cho nữ giới chẳng cô phụ thiên chức, ai nấy đều nghiêm túc giữ lấy quyền ấy. Quang thường nói: “Quyền trị quốc bình thiên hạ, hàng nữ nhân chiếm quá nửa”. Vì họ trọn hết đạo làm vợ, giúp chồng dạy con thì đối với gia đình, đối với đất nước sẽ có lợi ích mà chẳng hay chẳng biết. Xin hãy đọc kỹ mấy chương khuyên dạy tại gia thiện tín trong Gia Ngôn Lục sẽ biết rõ. Tìm cách bình trị [nào khác] ngoài cách này ra thì do thấy biết kém cỏi, Quang chẳng thể nào biết được!


Каталог: Luan -> aqvstambien
Luan -> Phần mở đầu Tính cấp thiết của đề tài
Luan -> Như mọi quốc gia trên thế giới, bhxh việt Nam trong những năm qua được xem là một trong những chính sách rất lớn của Nhà nước, luôn được sự quan tâm và chỉ đạo kịp thời của Đảng và Nhà nước
Luan -> TS. NguyÔn Lai Thµnh
Luan -> Luận văn Cao học Người hướng dẫn: ts. Nguyễn Thị Hồng Vân
Luan -> MỞ ĐẦu tính cấp thiết của đề tài
Luan -> 1 Một số vấn đề cơ bản về đất đai và sử dụng đất 05 1 Đất đai 05
Luan -> Lê Thị Phương XÂy dựng cơ SỞ DỮ liệu sinh học phân tử trong nhận dạng các loàI ĐỘng vật hoang dã phục vụ thực thi pháp luật và nghiên cứU
Luan -> Tính cấp thiết của đề tài
aqvstambien -> Ấn Quang Pháp Sư

tải về 2.21 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   7   8   9   10   11   12   13   14   ...   29




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương