Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên Quyển 1 印光 法 師文 鈔 參 編 卷 一


Thư trả lời cư sĩ Đinh Phước Bảo



tải về 2.21 Mb.
trang10/29
Chuyển đổi dữ liệu10.03.2018
Kích2.21 Mb.
#36455
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   ...   29

61. Thư trả lời cư sĩ Đinh Phước Bảo (thư thứ mười ba)
Vừa nhận được thư, ông khiêm tốn, khen ngợi [Quang] quá đáng khiến Quang hổ thẹn không chốn nương thân. Những điều Quang đã đọc chỉ là những chỗ bàn luận thêm của Thượng Biên và Hạ Biên, những chỗ khác đều chưa đọc tới. Những điểm nêu ra chỉ là những điều Quang đã đọc được. Lời nói chẳng thành văn, nào đáng khắc vào đầu quyển? Nếu chẳng chê bỏ, xin hãy đợi Quang thong thả đọc kỹ Hạ Biên một lượt, rồi sẽ sửa sai, nêu riêng từng điều một để mọi người thương lượng. Nếu chịu nghe theo, Quang sẽ nhân lúc được rảnh rang mà rườm lời mấy câu nhằm làm lời Bạt cho ngọn đuốc lớn. Còn như những lời lẽ nhờ cậy Quang chỉ bày để sửa sai trọn chẳng cần phải nhắc tới nữa. Nhưng mắt Quang quả thật chẳng kham sử dụng được, sẽ phải mất mấy chục ngày nữa mới có thể phúc đáp được (Ngày mồng Bảy tháng Hai năm Dân Quốc thứ bảy - 1918)

Nếu cả bộ sách được sửa chữa thì xin hãy bảo tòa báo đăng trọn vẹn bộ sách ấy. Do trước kia trong sách ấy có nhiều chỗ chẳng thích hợp lắm, sợ gây hiểu lầm cho người khác nên bảo họ chỉ đăng những phần bàn luận thêm thuộc hai cuốn Thượng Biên và Hạ Biên mà thôi. Nay được thấy mấy phen nhã ý của các hạ, chắc là đã nghe theo ngu kiến của Quang. Trước hết hãy nên nêu đại ý sách ấy, chẳng ngại gì cùng mọi người cân nhắc. Nhưng Quang do tâm mục suy đồi, gần đây lại bận bịu đủ mọi chuyện, khắc hơn một ngàn trang sách thì đối với hơn một nửa số trang đã khắc xong đều chưa giảo duyệt được. Lại do phải trao đổi thư từ thuận theo tình cảm, chẳng thể chuyên tâm làm việc ấy được, cho nên phải chậm trễ. Tôi sẽ sang Dương Châu vào khoảng tháng Năm hay tháng Sáu, đến đấy liền sửa đổi bản khắc chữ để cho in ra biếu tặng. Lại còn những sách được tái bản, phải đợi tới sang năm mới lo liệu được! (tái bút)


62. Thư trả lời cư sĩ Đinh Phước Bảo (thư thứ mười bốn)
Hôm qua nhận được thư và lời tựa của các hạ dành cho tác phẩm Cú Giải lớn lao, khôn ngăn cảm kích. Bộ kinh Pháp Hoa mầu nhiệm có được một bản hoàn chỉnh, ấn loát lưu thông, quả thật là may mắn lớn. Nhưng theo như những gì các hạ đã nêu ra, cũng có chỗ tự cắt thịt thành vết thương vậy. Cố nhiên Quang chẳng thể trình bày cặn kẽ từng điều một được.

Trong phẩm Phương Tiện, chữ Vĩ (茟) trong câu “nhược thảo mộc cập vĩ” (nếu dùng ngọn cỏ cây), chữ Vĩ (茟) có khi bị viết thành Bút (筆). Trong bộ Chánh Ngoa Tập (sửa đổi cho đúng những điều sai lạc), ngài Vân Thê giải thích chữ Vĩ (茟) âm đọc như chữ Vĩ (緯), có nghĩa là cây hay hoa vừa mới nhú. Nếu xét kỹ ý nghĩa, chưa chắc đã là chữ Bút, bởi lẽ trẻ nhỏ đùa bỡn kiếm được loại cây cỏ và búp hoa của các loại cây cỏ nào đều dùng móng tay để vạch lên đó. Vì thế, vẽ kiểu này trọn chẳng phải là như vẽ trên giấy hay lụa, mà là vẽ trên mặt đất, trên vách, hay trên đồ vật. Sách Tự Vị và Tự Điển128 đều có thể dẫn làm chứng cứ, chắc không cần phải chèn ép ngài Vân Thê để khoe ra sự hiểu biết.

Chữ Trà (茶), trong kinh của Nhật Bản đều viết thành chữ Đồ (荼), chứ không phải chỉ mình chữ Cưu Bàn Trà (鳩槃茶). Tra trong tự điển thì chữ Đồ cũng có thể đọc là Trà, và cũng có nghĩa giống như chữ Trà. Vì thế, chớ nên dựa theo kinh điển Nhật Bản rồi chê bai kinh sách Trung Quốc đều viết sai. Nếu quyết định phải viết là Đồ thì những chữ [Đồ] phải đọc [thành] âm Trà129 nhiều lắm! Hãy đem cách đọc chữ 荼 theo âm Đồ (塗) để đọc những chữ khác.

Câu “hình thể thù hảo” (hình thể hết sức đẹp đẽ) hoặc “đoan chánh thù diệu” (đoan chánh tuyệt diệu), [chữ Thù] viết là 姝 mà viết là 殊 cũng được!

Không cần phải dẫn các sách để làm chứng, chỉ cần dựa vào chánh văn của kinh để quyết đoán là được rồi! Há lẽ nào trong hết thảy các sách, đối với cùng một chữ đều không sai khác hay sao? Một pháp tam-muội [được nói] trong kinh Lăng Nghiêm còn có thể hiểu thành ba thứ, chẳng thể nói rạch ròi một thứ nào. Huống là những chữ trọng yếu khác đều theo lệ chung [giống như vậy] hay sao? Ba thứ là tam-muội, tam-ma-đề, tam-ma-địa, trong một kinh mà còn nhiều thứ chẳng duy nhất, huống là nhiều sách ư?

Ông sửa chữ Mạt (末: cuối, ngọn) thành chữ Mạt (抹: nghiền nát)130, chớ nên quá cố chấp. Nếu bảo ghi theo lối cổ là đúng thì chữ dùng trong Ngũ Kinh, Tứ Thư hiện thời đều phải sửa đổi, bỏ đi quá nửa thì mới tạm thời gần giống ý [những chữ được dùng vào thời cổ]. Nếu lại muốn dùng đúng nguyên văn như trong thời ấy thì e rằng chẳng có chữ [hiện thời] nào dùng [để ghi chép Tứ Thư, Ngũ Kinh] được hết!

Chữ Cập (及: và) sửa thành chữ Nãi (乃: bèn), đúng là sai ngoa, nhưng Quang vẫn chưa thấy bản nào chép sai như vậy, cố nhiên không phải bản nào hiện thời cũng đều chép giống như vậy.

Chữ Danh (名) viết thành chữ Minh (明) cũng chẳng thể tra cứu được. Sách Cú Giải viết: “Chữ Danh liên quan đến phần kinh văn tiếp theo. Chữ này vốn dùng để liệt kê nhiều thứ, sao không có một điều nào khác mà lại dùng chữ Danh? Nếu chỉ có một mình điều này mà dùng chữ Danh thì sẽ thành cách dịch hỗn loạn”131. Nguyệt Thiên Tử, Minh Nguyệt Thiên Tử cố nhiên chẳng phải một, chẳng phải hai. Như có người gọi các hạ là cư sĩ, lại có người gọi là đại cư sĩ, có vì một chữ Đại mà gây trở ngại ư?

Chữ Minh (冥: tối tăm) cố nhiên nên viết là Minh (瞑: nhắm tịt mắt lại), Manh Minh (盲冥: mù mờ, tối tăm) cố nhiên phải viết là Manh Minh (盲瞑: mù lòa), chữ có xưa - nay, nhưng nghĩa chẳng tăng - giảm, cớ gì phải nhọc sức so đo tường tận hay dở như vậy?

Chữ Trinh (貞) là thân cây; Thật (實) là trái cây. Cú Giải vẫn thiếu đoạn phân tích giảng giải về chữ này, trong các bản kinh [được lưu thông] phần nhiều viết sai [chữ Trinh thành] chữ Chân (真)132, thật đáng đau lòng!

Tập (集) là tích tập, còn Tập (習) là tu tập. Chữ tuy khác nhau, nhưng nghĩa có thể dùng lẫn cho nhau. Chẳng riêng gì kinh Pháp Hoa dùng lẫn lộn chữ này, mà trong kinh Hoa Nghiêm cũng thế. Do chẳng hại gì đến nghĩa thì các bản chép sao cứ giữ nguyên như vậy cũng được.

Chữ Thọ (受) có nghĩa là được. Chữ Thọ (授) có nghĩa là trao cho. Chẳng biết dựa theo nghĩa để định danh, làm sao coi trọng chuyện hoằng kinh cho được! Cố nhiên chẳng phải đợi đến khi có chứng cứ mới biết là sai vậy.

Chữ Nghị (議) trong từ ngữ Luận Nghị (論議) viết thành chữ Nghĩa (義) cũng không sao, do trong chữ Luận đã sẵn đủ ý nghĩa của chữ Nghị rồi, mà cái điều được Luận Nghị (bàn bạc) chính là Nghĩa (nghĩa lý) vậy.

Chữ Phạt (伐) sửa thành (罰) thì sai ngoa quá mức. Cư sĩ chấp cổ quá mức, nên mới làm thế. Chẳng biết rằng lỗi nhỏ thì [gọi là] phạt (罰). Như tiểu vương phản nghịch, Luân Vương đi đánh dẹp thì cũng gọi là phạt (罰). Chứ [nếu theo như cư sĩ] thì [những chữ Phạt133 (伐) trong các câu] “lễ nhạc chinh phạt, Vũ Vương phạt Trụ” (禮樂征伐,武王伐紂: Dùng lễ nhạc để chinh phạt, Vũ Vương dẹp Trụ) đều phải sửa thành chữ Phạt (罰) hết hay sao?

Oán tặc đã cầm dao làm hại thì chữ Nhiễu (繞: vây quanh) ý nghĩa rất khéo, còn ý nghĩa chữ Nhiễu (擾: khuấy nhiễu) rất vụng. Chữ Oán (怨) đổi thành Oán (冤) thì trong kinh sách hai chữ này được dùng lẫn cho nhau. Oán (怨) là oán hận, oán thù; còn Oán (冤) là oan khuất, oan uổng. Trong kinh Hoa Nghiêm có gần một trăm trường hợp như vậy, nhưng hai chữ này mỗi chữ chiếm một nửa, do vậy hãy nên sửa cho đúng. Ngay trong kinh Pháp Hoa thì hai chữ này vẫn dùng lẫn cho nhau.

Chữ Đa (哆)134 sửa thành chữ Đa (多) thì vẫn là một gốc. Những bản Quang được thấy đều viết là Đa (哆).

Tham Trước (貪著: tham đắm) hay Tham Nhạo (貪樂: tham ưa) về ý nghĩa đều có thể dùng lẫn cho nhau, chẳng cần phải dẫn khắp các kinh để chứng tỏ viết như vậy là sai!

Chữ Xử (處) chính là Thọ (受), Thọ chính là Xử135, ông tính sửa cho giống hệt nhau có lẽ quá cố chấp. Sách Mạnh Tử chép: “Ngô hôn bất năng tấn ư thị hỹ, nguyện phu tử phụ ngô chí minh dĩ giáo ngã. Ngã tuy bất mẫn, thỉnh thường thí chi136. Bốn câu nói này được nói cùng một lúc, thốt ra từ cùng một miệng mà còn chẳng thể dùng nhất quán, đang Ngô chợt thành Ngã, huống chi là đối với kệ tụng do Phạm Thiên các phương nói ra lại cứ muốn phải sửa sao cho giống hệt như nhau ư?

Sửa chữ Đạo (道) thành chữ Huệ (慧) tuy dường như không hợp lẽ, nhưng xét kỹ câu kinh tiếp theo câu “tốc thành tựu Phật thân” (mau thành tựu Phật thân) thì cố nhiên chữ Huệ cũng không sai cho lắm. Các bản ghi sao cứ giữ như vậy là được rồi!

Chữ Số (數) sửa thành chữ Chư (諸) thì Quang trọn chưa thấy bản nào chép sai như vậy.

Văn (聞: nghe) chính là “văn hương” (聞香: nghe mùi, ngửi mùi), tức là một lần mười và hai lần năm vậy. Chèn ép điều này, đề cao điều kia, hay chèn ép điều kia, đề cao điều này đều sai hết, bản nào giữ theo bản nấy là được rồi. Thiêu (燒) hay Phần (焚) đều là đốt. Sửa chữ Đắc (得) thành chữ Đáng (當) thì Quang cũng chưa thấy bản nào ghi như thế, chớ nên nói các bản hiện thời đều như vậy!

Niên hiệu Thái Khang đời Vũ Đế hay niên hiệu Vĩnh Khang đời Huệ Đế137, các vị [cổ đức] đều chưa thể tra cứu trong Tam Tạng Ký Tập, Đại Đường Nội Điển Lục138, nên không cách nào biện định để sửa cho đúng điều sai này vì Cao Tăng Truyện chưa ghi rõ năm tháng kinh Pháp Hoa được dịch ra.

[Sách Cú Giải nhắc đến] những chữ bị bỏ sót thì tra trong những bản kinh được lưu thông gần đây đều thấy đúng cả. Nhưng chẳng sót chữ thì ý nghĩa [của kinh] cũng không tăng, mà bị sót chữ thì ý nghĩa [của kinh] cũng không giảm. Hãy nên ai nấy tuân theo một bản nào đó là được rồi! Nếu cứ muốn tham khảo bản này để sửa cho đúng bản kia sẽ trở thành bỏ gốc chạy theo ngọn, uổng phí tinh thần, đối với người, đối với kinh, rốt cuộc có lợi ích gì đâu? Người hoằng kinh hãy nên nương theo Tứ Y. Tứ Y là “y pháp bất y nhân, y nghĩa bất y ngữ, y trí bất y thức, y liễu nghĩa kinh bất y bất liễu nghĩa kinh” (nương theo pháp chứ không nương theo người, nương theo nghĩa chứ không nương theo lời nói, nương theo trí chứ không nương theo thức, nương theo kinh liễu nghĩa chứ không nương theo kinh bất liễu nghĩa). Kinh lưu truyền mấy ngàn năm khắp cả thiên hạ mà muốn cho mỗi câu mỗi chữ [trong các bản kinh được lưu hành] không một chỗ nào bị so le được chăng? Cốt sao xét về ý nghĩa thông suốt là được rồi. Cố nhiên chẳng nên quá chấp trước câu nệ vậy! (Ngày Hai Mươi Tám tháng Hai năm Dân Quốc thứ bảy - 1918)
63. Thư trả lời cư sĩ Đinh Phước Bảo (thư thứ mười lăm)
Bữa Mười Tám hôm trước đã nhận được sách gởi tới, liền vâng mạng phúc đáp ngay. Đến hôm Hai Mươi mới nhận được thư các hạ, bưu cục đều lần lượt chuyển tới các bưu kiện. Các hạ nhắc đến sách Hải Nam Nhất Chước thì sách ấy có lợi lẫn gây tổn hại cho người khác đều có đủ. Thoạt đầu, Quang chấp lý rất nghiêm, sợ người khác mắc bệnh, trọn chẳng hé răng bảo người ta đọc. Rồi sau đấy nghĩ rằng thiện thư trong thế gian thật ít sách tận thiện tận mỹ, chỉ cần có thể tạo được lợi ích thì chẳng ngại gì bảo họ đọc. Dẫu có ai bị tổn hại thì cũng chỉ tùy theo tri kiến của người ấy mà phân biệt lợi - hại. Nếu do có chỗ chẳng thích đáng bèn nhất loạt cự tuyệt thì không khỏi đánh mất phương pháp dẫn người khác tiến vào chỗ thù thắng. Vì thế, gần đây tôi cũng thường bảo người khác thỉnh về đọc.

Người soạn ra sách ấy vốn quê ở Giang Tây, họ Từ tên Khiêm, tự là Bạch Phảng139, ngoài ba mươi tuổi liền được bổ vào viện Hàn Lâm. Do bẩm tánh chân thật, chất phác nên chẳng muốn làm quan, cũng từng đảm nhiệm chức Sơn Trưởng140 một hai lần. Sau đấy, ở hẳn nơi nhà, chuyên chú khuyên người làm lành và cầu cơ, dân chúng theo học rất đông. Về sau, do một vị Cử Nhân tại tỉnh thành Giang Tây dạy môn đồ cầu cơ chẩn bệnh khá linh nghiệm, mẹ quan Phủ Đài141 mắc bệnh, thuốc men không công hiệu; do vậy, thỉnh đồ đệ ông ta đến cầu cơ kê toa. Thuốc vừa uống vào miệng [bà cụ] liền tắt thở ngay. Xét kỹ toa thuốc, thấy trong ấy có những vị thuốc kỵ nhau. Do vậy, bèn bắt kẻ ấy đến tra hỏi, ông ta khai ra tên thầy mình, quan liền bắt thầy ông ta thường mạng. Từ Khiêm nghe tin, bèn thôi không dạy người khác cầu cơ nữa, chỉ chuyên chú dạy sửa lỗi hướng lành, tích công lũy đức, bảo con cháu ông ta mỗi người chuyên một nghề, chẳng được đặt chân vào con đường làm quan. Ông ta thọ đến chín mươi sáu tuổi. Lúc lâm chung, có người bạn thân đi đường nghe tiếng thiên nhạc, trở về hỏi thăm, té ra ngay trong lúc ấy, mọi người đều nghe tiếng thiên nhạc khi ông ta mất. Đệ tử của ông ta thật đông. Sư Liễu Nhất Trụ Trì chùa Pháp Vũ trước kia lúc còn tại gia là môn sinh cuối cùng của ông ta, nay Sư đã bảy mươi chín tuổi rồi, từng kể chuyện này với Quang.

Điều đáng tiếc là ông ta chỉ có tâm thích điều lành, ưa Phật, nhưng trọn chẳng dự vào lò hun đúc của bậc tri thức đủ mắt, đến nỗi trở thành tri kiến hồ đồ “tà - chánh chẳng phân, đúng - sai lẫn lộn”. Trước thuật của ông ta sao trích kinh Phật lẫn lời giáng cơ, coi chân kinh và ngụy kinh giống hệt như nhau. Ông ta thường có những lời nghị luận, phán đoán xét về văn lý cũng phần nhiều gây sướng tai khoái mắt người khác, nhưng bản Tâm Kinh ngụy tạo lời văn lẫn lý đều thô thiển, hèn kém, chẳng đáng để vào mắt, mà ông ta vẫn coi giống hệt như Tâm Kinh! Đúng là xem mắt cá và chân châu hoàn toàn như những vật giống hệt nhau không khác! Nhưng bản Tâm Kinh được ông ta sao lục từ bản do Quách Lan Thạch đã viết thì lại là cùng một bản gốc, khác người dịch, chứ không phải là kinh ngụy tạo, không thể không biết [điều này]! Cái gọi là Quán Âm Sám Pháp chính là do gã Tăng phàm tục vô tri cắt xén Lương Hoàng [Sám] và Thủy Sám ghép thành [sám văn]. Do không hiểu văn lý lại muốn biên soạn thành nghi thức mới nên đến nỗi sự lý và giáo tướng bị mâu thuẫn.

Nội dung của bốn cuốn thuộc phần Nội Hàm [của bộ Hải Nam Nhất Chước] quá nửa là những lời giáng cơ, chẳng đáng để lưu thông. Ông ta tự cho là phần này hết sức tinh vi, hết sức xác đáng. Phần Ngoại Hàm gồm sáu quyển, phần nhiều là chuyện Bồ Tát cảm ứng. Tuy không phải là chẳng mắc khuyết điểm thâu thập tràn lan, nhưng quả thật có lợi ích rất lớn cho thế đạo nhân tâm. Vào đời trước, lúc gieo thiện căn trọn chớ nên gieo lẫn lộn, hễ lẫn lộn thì đời này tà - chánh chẳng phân. Từ Khiêm do đời trước đã gieo thiện căn lộn xộn, nên đời này tuy tu chuyên ròng mấy chục năm, chỉ trở thành một bậc thiện sĩ trong cõi tục! Lúc mất, tuy có thiên nhạc là điềm lạ, nhưng chỉ là sanh lên cõi trời, chứ không phải sanh về Tây Phương vì đối với Phật pháp ông ta trọn chẳng biết đến nghĩa lý đích thực tột cùng, huống chi là pháp môn Tịnh Độ ư?

Cổ nhân nói: “Cộng quân nhất dạ thoại, thắng độc thập niên thư” (Tạm dịch: Một đêm trò chuyện cùng anh, còn hơn đọc sách loanh quanh mười mùa). Nếu là bậc học rộng nghe nhiều, chẳng cùng những vị thông suốt thảo luận mấy phen, sẽ trở thành “nhai bã của cổ nhân chẳng tiêu hóa được”, đâm ra thành đại bệnh! Học hỏi chẳng gặp người thông, đến già rốt cuộc trở thành đống xương. Không riêng gì Từ Khiêm là như thế mà những người giống như Từ Khiêm trong cõi đời quả thật đông lắm đấy! (Ngày Hai Mươi Mốt tháng Năm năm Dân Quốc thứ bảy - 1918).
64. Thư trả lời cư sĩ Đinh Phước Bảo (thư thứ mười sáu)
Hôm qua nhận được thư, biết các hạ muốn lưu thông cuốn Thành Đạo Ký Chú142, khôn ngăn vui mừng. Ba mươi năm trước, tôi đã từng được thấy sách này ở Hồng Loa, chứ ở Pháp Vũ hoàn toàn không có, liền ra phía trước núi hỏi một người bạn, thầy ấy nói [nhà chùa] có một bản nhưng đã bị thầy Đương Gia cầm đi hai ba năm rồi, vị ấy lại không có mặt ở chùa. Do vậy, bảo họ tìm kiếm trong nhà kho, phòng chứa kinh, nhưng vẫn chưa tìm được. Vị sư ấy hứa sẽ viết thư hỏi ông ta. Nhưng một cuốn sách mỏng manh nếu chẳng trân trọng, mến tiếc, chắc đã lạc mất rồi! Do vậy, lại gởi thư sang cho thầy Kỳ Căn là Thư Ký chùa Quán Tông nhờ thầy hỏi khắp đại chúng chùa Quán Tông, ai có thì đem nguyên bản gởi thư bảo đảm cho Quang. Đợi đến khi sắp chữ hoàn chỉnh, sẽ kính gởi trả lại. Trong hai chỗ ấy, may ra một chỗ sẽ có. Chứ nếu sao chép ngay trong núi thì hơi khó kiếm được người. Cơ duyên của Phật, của Tổ ẩn hay hiển có thời, thần vật ngầm gia hộ, ắt được như nguyện (Ngày Hai Mươi Lăm tháng Ba năm Dân Quốc thứ tám - 1919)
65. Thư gởi cư sĩ Đinh Phước Bảo (thư thứ mười bảy)
Những sách do các hạ biên soạn như Lục Đạo Luân Hồi v.v… quả thật có thể khiến cho kẻ khinh nhờn chẳng hề thấy nghe hay biết đại đạo sẽ nhanh chóng được mở mang tầm mắt, hồi tâm chuyển niệm, biết chính mình vốn một mực ngồi đáy giếng nhìn trời, lầm lạc suy lường bầu trời bao lớn! Những ghi chép của tiên hiền vốn do túc căn sâu dầy, vâng lời di chúc của đức Phật, cho nên chẳng mê muội linh tánh của chính mình, dùng ngôn ngữ, sự tích của Thế Đế để chuyển pháp luân tùy cơ độ sanh của đức Như Lai. Từ đấy, người sanh lòng chánh tín, phát tâm Bồ Đề, sợ nỗi khổ dữ dội trong luân hồi, hâm mộ sự vui sướng cùng cực nơi An Dưỡng, ắt sẽ một người xướng, trăm người họa, dẫn dắt nhau thoát khỏi cõi Sa Bà này, sanh về cõi Cực Lạc kia, chẳng thể dùng toán số, thí dụ nào để biết được nổi!

Quang đọc xong cảm thấy vui vẻ, may mắn khôn cùng, toan viết một bài tựa để tán dương, nhưng do mục lực không đủ, lại thêm bận bịu không rảnh rang, nên lần chần đến nay. Tuy đã ghép được hơn một ngàn chữ, nhưng do học vấn nông cạn, kém cỏi, kiến địa tầm thường, thấp thỏi, đối với tự tánh ngay chính nơi tâm và đạo tùy cơ lợi sanh [vẫn hệt như] kẻ lòa trong lúc mây dầy sương kín, ngửa trông ánh mặt trời chỉ càng thêm lòa quáng. Vì thế, đối với diệu đạo của Phật, của Tổ, cũng như tâm sự của các hạ đều chưa thể nêu tỏ rõ ràng. Lòng biết lời tựa này trọn chẳng thể dùng được, nhưng muốn biểu lộ lòng ngu thành, nên riêng gởi trình dưới tòa, mong hãy rộng lòng phủ chánh (Ngày Rằm tháng Năm năm Dân Quốc thứ tám - 1919).

Tôi có chỗ muốn thưa hỏi đối với ba cuốn sách ấy, sẽ viết trong một tờ giấy khác.

Hơn nữa, cái hại của thuốc phiện chẳng thể nói trọn hết được. Năm ngoái tôi đã bàn chuyện này với Trần Tích Châu, ông ta cho biết trước đây đã từng hút thuốc phiện, nghiện rất nặng, về sau được một toa thuốc, uống vào trừ được tận gốc. Do vậy, khôn ngăn khâm phục! Năm nay ông ta lại đến núi; nhân đấy, bảo ông ta chép ra toa thuốc ấy để làm lợi đồng nhân. Nhưng Quang ẩn thân ngoài hải đảo chẳng giao du với ai, tuy có toa thuốc ấy vẫn khó thể lợi người được! Trước kia, có người bạn từ Cáp Nhĩ Tân (Harbin) đến nói ở chỗ ông ta bãi bỏ lệnh cấm thuốc phiện, [người ta mặc sức hút] trọn chẳng kiêng sợ gì. Cũng có người muốn cai nhưng không có cách nào hết, thường ưu tư về chuyện ấy. Do vậy, bèn gởi toa thuốc ấy đi, mong ông ta lần lượt truyền bá, để những ai có chí cai nghiện sẽ cùng được lợi ích. Nay nghĩ các hạ có tâm lo cho thế đạo, lại còn hành nghề y, giao du rất rộng, người tin tưởng thật đông. Nếu có ai mắc bệnh này muốn vĩnh viễn trừ tận gốc rễ mà chẳng có được phương cách nào thì chắc là hãy nên đem bài thuốc này tặng cho họ. Do vậy gởi kèm theo thư (lại nói kèm thêm)


* Tiên truyền tuyệt diệu thần phương để cai thuốc phiện

(Dẫu là hạng vốn được xưng quốc thủ danh y cũng chớ nên lầm lạc tăng thêm một vị thuốc nào. Nếu tăng thêm một vị thuốc nào đấy, [toa thuốc] sẽ chẳng linh nghiệm nữa. Hết sức khẩn cầu)
Cam Thảo (Radix Glycyrrhizae) loại tốt: nửa cân, Xuyên Bối Mẫu (Bulbus Fritillariae Cirrhosa): bốn lạng143; Đỗ Trọng (Eucommia Ulmoides Oliver): bốn lạng.

Dùng sáu cân nước để nấu chung ba vị thuốc, cho đến khi cạn nước một nửa thì bỏ bã, dùng một cân đường đỏ loại tốt nhất đổ vào nước thuốc, đun tiếp gần khoảng một giờ sẽ thành chất cao.

1) Ba ngày đầu tiên, mỗi ngày uống một lạng cao, hút một tiền thuốc phiện.

2) Ba ngày kế đó, uống một lạng cao, hút tám phân thuốc phiện.

3) Ba ngày kế đó, hút sáu phân.

4) Ba ngày kế đó, hút bốn phân.

5) Ba ngày kế đó, hút hai phân.

Từ đấy trở đi, mỗi ngày dùng một lạng cao, hút một phân thuốc phiện. Lại dùng cho đến ngày thứ mười tám, dùng sau một tháng thì không cần phải hút thuốc phiện nữa, vĩnh viễn trừ được tận gốc rễ.

Nếu trong khi uống thuốc cao, có những bệnh tật phát tác bên ngoài có thể hút thêm lên một phân thuốc phiện. Hút một hai ngày liền thôi, vẫn chiếu theo đúng toa thuốc ban đầu để uống cao, đừng tăng nhiều hơn. Toa thuốc này cai được thuốc mạnh hơn hút thuốc phiện một bậc. Dù ai nghiện nặng, mỗi ngày phải hút mấy lạng thuốc phiện, mà cai bằng toa thuốc này không ai chẳng trừ được tận gốc, lại không bị bệnh gì khác. Nhiều lần thử đều nhiều lần hiệu nghiệm, đúng là toa thuốc thần diệu.

Tiên sinh Trần Tích Châu hằng ngày hút ba bốn lạng thuốc phiện, sau có được toa thuốc này liền nấu một liều uống vào; hết thuốc thì bệnh ghiền cũng hết. Chẳng những không bệnh tật gì mà thân thể còn khỏe mạnh, tinh thần sung túc. Từ đấy bảo khắp với người quen biết, không ai chẳng dùng hết thuốc liền dứt được chứng nghiện. Do tôi nói đến nỗi họa hại của thuốc phiện, ông ta liền kể nguyên do cai thuốc của chính mình. Tôi bèn xin ông ta chép ra để cứu những ai cùng mắc phải bệnh này! Hơn nữa, người cai thuốc phải có tấm lòng “trăm điều thử thách chẳng quay đầu, dẫu chết chẳng thay đổi” thì mới đạt được hiệu quả thật sự của bài thuốc này. Nếu trong tâm trọn chẳng có ý niệm nhất định cai thuốc, đừng nói là dược vị của thế gian chẳng thể hữu ích, dẫu thần tiên đích thân trao cho tiên đan cũng chẳng thể có ích được! Mong [người muốn cai thuốc phiện] hãy gắng chí uống vào thì may mắn lắm thay!

Đạo lập ngôn muôn vàn khó khăn, dẫu học vấn uyên bác, nhưng muốn trước tác hoặc trích lục những câu danh ngôn, ắt phải suy xét, châm chước kỹ càng. Xét đến tình thế của từng câu văn, dựa theo ngữ mạch thì mới chẳng đến nỗi mắc khuyết điểm “vì từ mà hại ý” cũng như đem sai lầm truyền tụng sai lầm. Trước kia, tôi đọc Phật Học Chỉ Nam thấy dẫn sách Chỉ Nguyệt Lục144 có chỗ giản lược ý câu văn không nhất quán, có khi chép “lão bệnh tử tăng” (ông tăng già bệnh chết) thành “sanh lão bệnh tử”, nghĩ rằng các hạ chưa xét kỹ càng, ngẫu nhiên chép sai! Nay thử kiểm cuốn sách này cũng thấy viết như vậy, khôn ngăn than thở!

Phần lớn những trước tác của người thông minh trong đời sau phần nhiều đều có chỗ không suy xét kỹ càng, tài sức có thừa mà chẳng chịu châm chước đôi ba phen, viết lách cẩu thả! Tuy có thể làm lợi cho người khác, người ta tưởng mình là bậc thông suốt bèn dựa theo đó đem sai lầm lưu truyền sai lầm thì lỗi ấy cũng chẳng phải nông cạn! Quang vô đạo, vô đức, ít tham phỏng, ít học, trót được ông lầm coi là tri kỷ trong pháp môn, thường muốn dốc hết sức dò theo từng dòng mực để đáp tạ tri kỷ. Nhưng mắt ngày càng suy, thật khó thể toại nguyện. Nay đem những điều từng thấy được nêu ra đại lược cho xong trách nhiệm, chẳng nói xuông mà thôi!

Sách Chỉ Nam trang bốn mươi, dòng thứ nhất, Ba-la-môn (chữ Ba 波 nên viết thành Bà 婆), câu “trước hết A Di Đà Phật nhập diệt” nên viết là “trước hết Thích Ca Mâu Ni Phật nhập diệt”.

Mặt sau trang bốn mươi, dòng mười ba, những chuyện [được trích từ] Thần Tăng Truyện145 tường thuật sự việc và ngày tháng sai lầm, lẫn lộn, không theo thứ tự, quả thật chẳng theo đúng như cách trình bày trong Thần Tăng Truyện và Tống Cao Tăng Truyện146. Hãy nên sửa cho đúng theo hai sách ấy.

Mặt sau trang bảy mươi lăm, dòng bốn, “những nhà chú giải sai lầm, tùy tiện rất nhiều!” Chú giải của Tâm Kinh rất nhiều, bản đang được lưu thông hiện thời là bản tổng hợp lời chú giải của năm vị [thiện tri thức] gộp thành một bản. Những bản chú giải khác được thấy ở các nơi hoặc trong các sách; nhưng kinh nghĩa vô tận, tùy theo sự thấy biết của mỗi người mà soạn lời chú thích. Các hạ phán định là “sai lầm, tùy tiện rất nhiều” khôn ngăn khiến cho người khác kinh hồn vỡ mật. Nếu nói bản [Tâm Kinh] Tiên Chú dễ lãnh hội, khá có lợi cho kẻ sơ cơ thì được. Nếu nói những bản chú giải cổ đều sai lầm, tùy tiện, lại nói thêm là “rất nhiều” thì không được! Nếu thật sự sai lầm, tùy tiện, xin hãy đem những chỗ sai lầm của năm vị ấy chỉ ra từng điều một để cởi gỡ lòng nghi cho Quang. Nếu không, xin hãy sửa đổi câu này, ngõ hầu chẳng đến nỗi kẻ vô tri vô thức [sẽ vì câu nói ấy mà] miệt thị cổ đức, dấy lên tội lỗi báng pháp, báng tăng.

Các hạ tâm lợi người hết sức tha thiết, do gấp muốn hoàn thành sách nên có nhiều chỗ lập ngôn không xét kỹ lưỡng. Như trong lời chú thích cho lời tựa của ngài Đế Nhàn lại chê trách Tổ Thanh Lương. Trong Di Đà Kinh Tiên Chú khi bàn về sáu phương, tuy là [dẫn] lời lẽ của người khác, há nên đem sai ngoa để lưu truyền sai ngoa? Trong mùa Xuân, tôi thấy sách ấy khá hợp thời cơ, vẫn mong mục lực còn tốt thì sẽ dốc cạn lòng ngu thành, đọc kỹ một lượt để góp sức mọn. Nay mắt đã ngày càng thêm quáng lòa, vì thế chỉ nêu đại khái mà thôi. Quang trọn chẳng kết giao với sĩ đại phu, vì thế ăn nói chẳng hợp lẽ; nếu lỡ mạo phạm, ngàn phần xin đừng quở trách.

Phật Học Khởi Tín Biên, phần nói về Tịnh Độ Tông ở mặt sau trang 107, Lương Nhậm Công (Lương Khải Siêu) sống tại Nhật Bản đã lâu, những điều ông ta trình bày về Phật giáo nói chung đều là dựa theo những điều đã được viết thành sách của người Nhật Bản để luận. Tịnh Độ Tông Nhật Bản coi ngài Thiện Đạo là Sơ Tổ, lý lẽ ấy không xác đáng cho lắm. Vì một pháp Tịnh Độ từ Viễn Công trở đi thì đời nào cũng chẳng thiếu người cực lực hoằng truyền, xiển dương. Ngay như nước ta chọn ngài Thiện Đạo làm Nhị Tổ cũng là chuyện ngẫu nhiên; chứ không phải là sau ngài Viễn Công, không có một ai hoằng dương tông này! Đối với tiết mục này có lẽ nên y theo xưa, theo lệ của nước ta. Há nên đem sai lầm truyền bá sai lầm, đến nỗi gây nghi ngờ bàn định cho người đời sau ư?

Thêm nữa, trong hai mươi bảy vị Tổ ở Tây Thiên của Thiền Tông không có ngài Thế Thân; do Thế Thân là Pháp Thân đại sĩ, đương nhiên cũng triệt chứng Thiền Tông, nhưng ở đây nhằm biểu thị các vị viễn Tổ [truyền thừa Thiền Tông], trọn chớ nên kể tên ngài [Thế Thân] lẫn vào đó.

Trang 114, trong biểu đồ ở dòng thứ hai, dưới phần Thiền Tông ghi “Ấn Độ vô” (ở Ấn Độ không có), phía dưới lại ghi: “Trung Quốc đặc sáng” (Do riêng mình Trung Quốc sáng lập). Bảy chữ này cũng không thích đáng cho lắm. Tây Thiên đương nhiên có hai mươi tám vị Tổ, sao bảo là không có? (Hơn nữa, nơi mặt sau của trang 113 ở phần trước, dòng thứ nhất), đoạn luận về Thiền Tông có lẽ chấp chặt sự truyền thừa của hai mươi tám vị Tổ là lời luận quyết định. Cần biết rằng sự truyền thừa này chẳng qua nhằm thể hiện rõ sự trao truyền [mạng mạch đạo pháp] giữa vị Tổ trước và vị Tổ kế tiếp mà thôi, chứ không phải suốt cả một đời của hai mươi bảy vị Tổ147 chỉ có một đoạn sự tích này! Hơn nữa, chuyện này thật hay giả cũng khó thể biện định được. Nếu nói là thật thì câu trên (tức câu “ở Ấn Độ không có”) gây hiểu lầm cho người ta thật sâu, nếu đã bỏ câu trên đi thì câu dưới (tức câu “Do riêng mình Trung Quốc sáng lập”) cũng không có lý do gì để giữ lại. Hãy nên bỏ đi ba dòng rưỡi này.

[Qua những nhận định này], đủ thấy Lương Nhậm Công (Lương Khải Siêu) tâm thô gan lớn! Nếu “vì từ hại ý” thì vua Đường Nghiêu lên ngôi mấy chục năm chỉ phát ra chưa quá ba bốn hiệu lệnh để thi hành chánh sự mà thôi! Do cổ nhân chất phác; hơn nữa, năm tháng xa xôi, cho nên truyền lại chẳng được mấy! Chứ không phải là ngoài chuyện ấy ra trọn chẳng làm gì khác! Chuyện của chư Tổ Tây Thiên cứ so theo đây mà biết. Quang học vấn như nhìn vào vách, chẳng qua vì được coi là tri kỷ nên chẳng ngại nói đầu đuôi ngõ hầu ông khỏi phạm lỗi do chấp trước sai lầm mà luận định cổ nhân sai trái mà thôi!

Văn chương của ông Lương [Khải Siêu] bao trùm cõi đời, thông minh hơn người, tiếc rằng chưa nghiên cứu Phật pháp sâu xa, chỉ trình bày theo đúng như những gì người Nhật đã luận. Vì thế, tuy không đến nỗi gây trở ngại lớn lao, nhưng thường thốt ra những luận định chẳng hợp lẽ! Mạnh Tử nói: “Bác học nhi tường duyệt chi, tương dĩ phản thuyết ước dã” (Học rộng rãi, giải nói tường tận, [sau khi dung hội quán thông] sẽ quay về với cách nói giản ước)148. Nếu ông Lương lắng lòng nghiên cứu mười mấy năm, rồi mới cầm bút soạn luận thì những bài luận ấy đem treo ở cửa Ngọ Môn149, ai đổi được một chữ sẽ được thưởng ngàn vàng! Hết năm trọn tháng, hoàn toàn chẳng có một ai dám lãnh thưởng! Huống hồ Ấn Quang là kẻ vô tri vô thức, dám múa mỏ để bươi móc vết tích nhỏ nhặt ư? Ông Lương đã như thế mà các hạ cũng như thế, đều do gấp muốn thành sách, chưa rảnh rỗi để châm chước nên mới ra nông nỗi!

Người đại thông minh, đại danh nhân, lập ngôn ắt phải suy xét kỹ càng, chớ nên cẩu thả bởi người ta sẽ lấy mình làm mẫu mực. Nếu kẻ bình thường có chỗ sai lầm thì người khác còn dễ biết, dễ sửa. Nếu là danh nhân, ắt người ta sẽ tưởng sai là đúng, truyền bảo sai ngoa cho nhau. Như bài văn ghi lại giấc mộng của họ Lý ở cuối sách Long Thư Tịnh Độ Văn, văn ấy rất bình thường, đơn giản, cũng không phải là văn chương sâu xa, nghĩa lý huyền áo gì. Nhưng do viết thiếu một chữ “sơ” (thoạt đầu), những người sao chép về sau đều tưởng là do họ Lý trình bày trực tiếp, chuyện trong lúc còn sống rốt cục biến thành chuyện sau khi chết được mấy tháng, trở thành chuyện cảm được lợi ích sau khi mộng; nhưng phàm những ai sao lục bài văn ấy đều nghĩ như thế cả (như Tịnh Độ Chỉ Quy Tập, Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, Cư Sĩ Truyện, Liên Tông Bảo Giám, và Nhân Sơn Dương Công Lược Truyện), đủ thấy mọi người càng phải chú ý. Quang một là thiếu học vấn, hai là không có kiến địa, ba là không có hành trì. Vì thế, đối với Phật pháp chẳng dám chú thích một chữ, một câu. Gần đây do một hai người bạn lầm lẫn lưu truyền, chia sẻ cho người khác những thứ cơm thừa canh cặn, khôn ngăn hổ thẹn, không chốn nương thân, nhưng chẳng biết làm như thế nào?

Lại nữa, trong ba cuốn sách, dưới mỗi một điều [được trích dẫn] đều có ghi rõ tên sách, nhưng chỉ có lời của ông Kỷ Văn Đạt là nhất loạt chẳng ghi tên sách, chẳng biết tôn ý ra sao? Nếu theo như ngu kiến thì cũng nên ghi tên sách để gợi tín tâm cho người ta và có chứng cứ để tra khảo.

Thêm nữa, Phật Học Tiểu Từ Điển chữ nhỏ không đọc được. Ngay hôm ấy liền đưa cho người bạn đọc. Lúc mới nhận được, chỉ mở xem qua mấy trang, và đọc phần phương pháp chọn lựa từ ngữ ở đầu sách mà thôi. Ngẫu nhiên thấy phía dưới con số năm mươi hai [địa vị] có ghi chú rằng: “Tức là địa vị Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, Diệu Giác Bồ Tát”. Diệu Giác chính là Phật, sao lại kể vào trong số những địa vị Bồ Tát? Nếu nêu chung chung những địa vị thuộc bậc thánh thì được, còn nếu chuyên giảng về địa vị Bồ Tát thì lầm lẫn lớn lắm! Tiên sinh Châu An Sĩ đã từng liệt kê con số này như thế! Do vậy, tôi biết bậc danh nhân thường có những sai lầm ngoài ý muốn!


Каталог: Luan -> aqvstambien
Luan -> Phần mở đầu Tính cấp thiết của đề tài
Luan -> Như mọi quốc gia trên thế giới, bhxh việt Nam trong những năm qua được xem là một trong những chính sách rất lớn của Nhà nước, luôn được sự quan tâm và chỉ đạo kịp thời của Đảng và Nhà nước
Luan -> TS. NguyÔn Lai Thµnh
Luan -> Luận văn Cao học Người hướng dẫn: ts. Nguyễn Thị Hồng Vân
Luan -> MỞ ĐẦu tính cấp thiết của đề tài
Luan -> 1 Một số vấn đề cơ bản về đất đai và sử dụng đất 05 1 Đất đai 05
Luan -> Lê Thị Phương XÂy dựng cơ SỞ DỮ liệu sinh học phân tử trong nhận dạng các loàI ĐỘng vật hoang dã phục vụ thực thi pháp luật và nghiên cứU
Luan -> Tính cấp thiết của đề tài
aqvstambien -> Ấn Quang Pháp Sư

tải về 2.21 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   6   7   8   9   10   11   12   13   ...   29




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương