Ấn bản 09/2010, có hiệu chính và bổ túc phầN 3 M. T. D. X. M. T. D. X


Vasasuta128 (Bà Xá Tư Đa) năm 240 - 325



tải về 1.04 Mb.
trang17/21
Chuyển đổi dữ liệu02.09.2016
Kích1.04 Mb.
#30032
1   ...   13   14   15   16   17   18   19   20   21

25. Vasasuta128 (Bà Xá Tư Đa) năm 240 - 325

Tổ Vasasuta tên thật là Suta, người nước Kasmira (Kế Tân), thuộc dòng Bà-la-môn, cha tên Tịnh Hạnh, mẹ tên Thường An Lạc. Mẹ ngài nằm mộng thấy thanh gươm thần mà mang thai. Khi mới sanh, bàn tay trái ngài luôn luôn nắm cứng lại. Năm 20 tuổi, được Tổ Simha Bhiksu nhắc lại chuyện đời trước, ngài liền nhớ lại rõ ràng, xin xuất gia theo Tổ. Tổ Simha Bhiksu ghép tên đời trước của ngài là Vasa với tên hiện đời là Suta thành ra Vasasuta mà đặt pháp tự cho ngài, rồi mật truyền tâm ấn, khuyên ngài nên đến miền nam Ấn Độ giáo hóa.

Rời xứ Kế Tân, Tổ Vasasuta đến trung Ấn (thung lũng sông Gangà). Vua Ca Thắng ra đón tiếp ngài. Nguyên trong xứ này có ngoại đạo tên Vô Ngã, rất giỏi pháp thuật và nghị luận, khinh chê Phật pháp. Nhà vua mở hội nghị luận, chính vua làm chủ tọa. Vô Ngã đến hội đề xướng mặc luận, không dùng lời nói. Tổ Vasasuta không đồng ý, nói :

– Nếu chẳng dùng lời làm sao phân biệt hơn thua ?

– Chẳng tranh hơn thua, chỉ lấy nghĩa lý.

– Cái gì là nghĩa ?

– Không tâm là nghĩa.

– Ngươi đã không tâm thì đâu thành nghĩa ?

– Ta nói không tâm, chính là danh chẳng phải nghĩa.

– Ngươi nói không tâm chính là danh chẳng phải nghĩa; ta nói phi tâm chính là nghĩa chẳng phải danh.

– Chính là nghĩa chẳng phải danh, thì làm sao biện được nghĩa ?

– Ngươi nói chính là danh không phải nghĩa, thì danh này là danh gì ?

– Vì biện cái phi nghĩa nên không danh mà đặt danh.

– Danh đã phi danh, thì nghĩa cũng phi nghĩa. Người biện là ai và biện vật gì ?

Bàn qua luận lại như thế hơn 50 lần, ngoại đạo mới bặt lời, chịu phục. Bỗng trong vương cung có mùi hương lạ bay đến, Tổ chợt nói :

– Đây là tin đưa đến, thầy ta đã tịch.

Tổ Vasasuta liền xây mặt về hướng bắc, chấp tay đảnh lễ. Lễ xong, Tổ nói với vua :

– Khi ra đi, thầy tôi dạy đến nam Ấn. Nay ở lại đây đã lâu là trái ý thầy, xin tạm biệt Đại vương, tôi phải đi.

Vua Ca Thắng và quần thần tiễn Tổ lên đường đi nam Ấn.

Đến miền nam, gặp vua Thiên Đức thỉnh Tổ về hoàng cung. Vua Thiên Đức có hai người con : thái tử Đức Thắng thì thân thể khỏe mạnh mà tánh tình hung bạo, còn người em tánh tình hiền lành mà bệnh hoạn liên miên. Vua hỏi Tổ :

– Đứa con thứ của trẫm tôn thờ Phật pháp, ưa làm việc lành, sao lại mắc bệnh kinh niên, vậy lẽ báo ứng lành dữ như thế nào ?

– Bệnh của hoàng tử là do công đức phát sanh. Song lý sâu xa này Đại vương phải khéo nghe. Phật dạy người có nghiệp nặng nơi thân, ví như bệnh nội thương quá nặng, uống thuốc không có công hiệu, sắp chết bệnh càng hoành hành. Nếu là nghiệp nhẹ, bệnh nhẹ, gặp thuốc liền bớt, bớt rồi từ từ mạnh. Người nghiệp nặng, dù có công đức cũng không làm gì được, đến lúc gần chết nghiệp lại càng phát hiện. Người nghiệp nhẹ, làm các việc công đức, nghiệp trước liền hiện, trả xong sau sẽ được nhẹ nhàng thanh tịnh.

“Hiện nay, hoàng tử làm việc thiện mà bị bệnh lâu, hẳn là do làm các công đức nên phát ra nghiệp nhẹ này. Hiện tại tuy có khổ nhỏ, về sau sẽ được an ổn. Kinh có nói : “Nếu phải chịu nghiệp báo trong ba đường ác, nên nguyện đời nay trả xong, để khỏi sanh vào đường ác.” Đại vương chớ nghi ngại.

Vua Thiên Đức nghe xong, tin nhận, càng phát tâm làm việc phước thiện. Tổ Vasasuta từ giã vua, đi hoằng hóa nơi khác.

Mười sáu năm sau, vua Thiên Đức băng. Thái tử Đức Thắng lên nối ngôi, tin theo ngoại đạo, vấn nạn Tổ Vasasuta. Thái tử Punyamitra (Bất Như Mật Đa) đến can ngăn, bị vua bắt giam. Vua muốn gán cho Tổ tội truyền tà pháp để giết. Nhưng khi cùng Tổ Vasasuta tranh luận đạo lý, vua bị Tổ thuyết phục, nên xin hối lỗi, lễ bái và phóng thích Tổ. Thái tử Punyamitra được vua tha liền xin xuất gia theo Tổ Vasasuta. Sau 6 năm, Tổ Vasasuta gọi Punyamitra đến bảo :

– Ta đã già lắm rồi, sắp rời cõi đời này. Đại pháp nhãn tạng của Như Lai đã truyền cho Mahà Kassapa xưa kia, nay ta trao lại cho ngươi. Hãy nghe ta nói kệ :

Thánh nhơn thuyết tri kiến,

Đương cảnh vô thị phi.

Ngã kim ngộ kỳ tánh,

Vô đạo diệc vô lý.129

Truyền pháp xong, Tổ Vasasuta thị hiện thần biến rồi vào niết bàn, năm 325.

26. Punyamitra130 (Bất Như Mật Đa) năm 300 - 388

Tổ Punyamitra là thái tử, con vua Đức Thắng miền nam Ấn Độ. Khi vua bắt giam Tổ Vasasuta, thái tử đến can ngăn cũng bị vua bắt giam luôn. Trước khi mang Tổ Vasasuta ra xử tử về tội truyền tà pháp, vua cùng Tổ tranh luận đạo lý. Vua bái phục và hối lỗi. Thái tử Punyamitra được vua tha, xin xuất gia với Tổ Vasasuta, và sau 6 năm được truyền tâm ấn.

Theo quyển Phật Tổ Lịch Đại Thông Tái, thì sau khi được truyền tâm ấn, Tổ Punyamitra đến giáo hóa tại miền đông Ấn Độ. Vua nước ấy tên Kiên Cố tin theo ngoại đạo là Phạm Chí Trường Trảo131 (Dìghanakha), bảo Tổ là ma. Tổ dùng Chánh Pháp chế ngự tà pháp của Phạm Chí, rồi diễn thuyết pháp yếu khiến vua theo về Phật đạo.

Nguyên trong xứ này có một đồng tử, con dòng Bà-la-môn. Cha mẹ mất sớm, đồng tử ấy phải xin ăn để sống qua ngày. Đồng tử này tánh tình phóng khoáng lạ thường, không ai biết tên họ gì. Có khi đồng tử tự xưng là Anh Lạc, nên dân chúng gọi là đồng tử Anh lạc. Một hôm, vua Kiên Cố cùng Tổ Punyamitra ngồi chung xe đi sang cổng thành phía đông. Anh Lạc bước ra đứng trước xe làm lễ. Tổ nói với vua :

– Người này là thánh nhơn trong nước Đại vương đây.

Rồi Tổ quay sang hỏi Anh Lạc :

– Ngươi nhớ việc xưa chăng ?

– Tôi nhớ khi xưa, đồng trong pháp hội, Tôn giả giảng Bát-nhã Ba-la-mật-đa (Prajna paramità), còn tôi giảng Tu-đa-la (sutra, sutta) thậm thâm. Duyên xưa, nay gặp lại, nên mới đón nhau đây.

Tổ nói với vua :

– Đồng tử này là hóa thân của Bồ tát Đại Thế Chí, ra đời để nối pháp cho tôi. Sau tôi sẽ có hai vị đại sĩ ra đời, vị trước giáo hóa ở nam Ấn, vị sau có duyên với nước Chấn Đán (Trung Hoa), nhưng chỉ ở bên ấy 9 năm rồi trở về bổn quốc.

Tổ lại quay sang nói với Anh Lạc :

– Do xưa ta giảng Bát-nhã, còn ông thuyết Tu-đa-la, nay lại gặp nhau đây. Vậy nên gọi ông là Bát Nhã Đa La (Prajnatara132).

Prajnatara liền đảnh lễ, tôn Tổ làm thầy, xin xuất gia theo Tổ.

Tổ Punyamitra hoằng pháp nơi đây 60 năm. Đến năm 388, Tổ truyền tâm ấn cho ngài Prajnatara với bài kệ :

Chơn tánh tâm địa tàng,

Vô đầu diệc vô vĩ.

Ứng duyên nhi hóa vật,

Phương tiện hô vi trí.133

Truyền pháp xong, Tổ ngồi kiết già hiện các thần biến rồi vào niết bàn, hóa lửa tự thiêu. Vua Kiên Cố thâu xá lợi, xây tháp cúng dường.

27. Prajnatara134 (Bát Nhã Đa La) năm 360 - 460

Tổ Prajnatara là người miền đông Ấn Độ, dòng Bà-la-môn. Ngài mất cha mẹ từ thuở nhỏ, thường dạo chơi trong xóm làng, tự xưng là Anh Lạc, hành động và ngôn ngữ khác thường, gần giống như Bồ tát Thường Bất Khinh. Một hôm, nhơn gặp Tổ Punyamitra nhắc lại nhân duyên đời trước, đồng tử Anh Lạc xin xuất gia theo Tổ và được đặt pháp tự là Prajnatara.

Đến năm 388, được truyền tâm ấn, Tổ Prajnatara đến hoằng pháp tại nước Dekhan miền nam Ấn Độ. Vua xứ này là Hương Chí hết lòng sùng kính Phật pháp. Đến năm 460, Tổ Prajnatara truyền trao Chánh Pháp cho người con thứ ba của vua Hương Chí là Bodhitara, pháp tự là Bodhidharma, với bài kệ sau đây :

Tâm địa sanh chư chủng,

Nhơn sự phục sanh lý.

Quả mãn bồ-đề viên,

Hoa khai thế giới khởi.135

Truyền pháp xong, Tổ ngồi nhập định, hiện các thứ thần biến rồi thị tịch.



28. Bodhidharma136 (Bồ Đề Đạt Ma), Sơ Tổ tại Trung Hoa, năm 440 - 529

Tổ Bodhidharma sanh năm 440, là con trai thứ ba của vua Hương Chí xứ Dekhan, miền nam Ấn Độ. Tên thật của ngài là Bodhitara. Một hôm vua mời Tổ thứ 27 là Prajnatara vào cung thọ trai. Sau khi nghe thuyết pháp, vua dâng cúng cho Tổ một viên ngọc quý nhất trong xứ. Tổ Prajnatara cầm viên ngọc quý đưa lên, hỏi ba vị hoàng tử :

– Chẳng hay các Hoàng tử có bao giờ thấy vật gì quý hơn hòn ngọc này không ?

– Bạch Hòa Thượng, hoàng tử lớn tên Candra Suddha Tara (Nguyệt Tịnh Đa La) đáp, viên ngọc này thật hiếm có, con chưa bao giờ thấy vật gì quý bằng hòn ngọc này cả.

Vị hoàng tử thứ nhì tên Gunatara (Công Đức Đa La) cũng đồng ý với anh. Vị hoàng tử thứ ba tên Bodhitara (Bồ Đề Đa La) thưa :

– Bạch Hòa Thượng, viên ngọc này thật là quý báu. Nhưng theo con nghĩ thì Giáo Pháp của đức Phật còn quý hơn nhiều. Vì Giáo Pháp đó có thể mang đến cho chúng ta sự bình an, hạnh phúc và giải thoát khỏi mọi đau khổ.

Tổ Prajnatara lại hỏi :

– Trong muôn loài, loài nào lớn hơn cả ?

– Bạch Hòa Thượng, Bodhitara đáp, con nghĩ rằng Phật Tánh là lớn hơn cả, vì nó bao gồm cả muôn vật.

Sau khi nghe hai câu trả lời đó, Tổ nói với vua :

– Tâu Bệ hạ, hoàng tử Bodhitara là người có trí tuệ rộng lớn, đúng là vị thánh nhơn mà đức Phật đã tiên đoán là sẽ nối nghiệp tôi sau này.

Sau khi vua băng hà, hoàng tử Bodhitara xin xuất gia, được Tổ Prajnatara đặt pháp tự là Bodhidharma (Bồ Đề Đạt Ma). Đến năm 20 tuổi, Bodhidharma được truyền tâm ấn, Tổ Prajnatara nói :

– Này Bodhidharma, Chánh Pháp Nhãn Tạng của đức Thế Tôn đã truyền cho Mahà Kassapa, Mahà Kassapa truyền cho Ànanda và truyền lần cho đến ta. Nay ta trao lại cho ngươi. Từ nay ngươi là vị Tổ thứ 28 ở Ấn Độ. Ngươi tạm giáo hóa ở xứ này, sau sang Trung Hoa mới thật là nhân duyên lớn. Song đợi ta diệt độ rồi, khoảng 60 năm sau sẽ đi. Nếu ngươi đi sớm e có việc không tốt.

Vua Nguyệt Tịnh (Candra Suddha) băng, thái tử Dị Kiến lên nối ngôi. Dị Kiến lên ngôi không bao lâu lại tin theo ngoại đạo, bài bác Phật giáo. Tổ Bodhidharma sai đệ tử là Parati (Ba La Đề) đến cung vua để cải hóa. Sau khi cải tà quy chánh, vua Dị Kiến hỏi ra mới biết Parati là đệ tử của chú mình. Nhà vua thỉnh Tổ về cung giáo hóa. Cơ duyên tới, Tổ Bodhidharma, theo di chúc của Tổ Prajnatara, theo thuyền buôn vượt biển đến Trung Hoa. Ba năm sau, thuyền cặp bến Quảng Châu, huyện Phiên Ngung, tỉnh Quảng Đông, vào ngày 21 tháng 9 âm lịch năm Canh Tý 520.

Vua Lương Vũ Đế (502-557) sai sứ rước Tổ đến kinh đô Kiến Nghiệp, mời Tổ vào cung tham vấn. Vua hỏi :

– Bạch Hòa Thượng, từ hồi lên ngôi Hoàng đế đến nay, trẫm đã ra lệnh xây cất chùa, tạc tượng Phật, đúc chuông đồng nhiều vô số. Ngoài ra còn in kinh sách, cúng dường tăng ni không kể hết. Như vậy có công đức gì chăng ? Sau này trẫm có được thành Phật không ?

– Thưa Đại vương, không công đức ! Không thể thành Phật được !

– Sao lạ vậy ? Trẫm không hiểu !?

– Thưa Đại vương, những điều ngài làm chỉ được phước báo hữu lậu. Không thể thành Phật được.

– Vậy phải làm thế nào để được công đức vô lậu ?

– Tâm rỗng.

– Thế nào là một Thánh nhơn ?

– Quách nhiên vô thánh.137

– Trẫm đang nói chuyện với ai ?

– Không biết.

Vua Lương Vũ Đế ngơ ngác. Tổ Bodhidharma kiếu từ, rút lui. Đến ngày 19 tháng 10 âm lịch, Tổ âm thầm qua sông, đến đất Ngụy, dừng chân ở chùa Thiếu Lâm, núi Tung Sơn, ngồi thiền xoay mặt vào vách đá suốt ngày đêm. Người thời ấy gọi ngài là Bích Quán Bà-la-môn.

Ngày mồng 9 tháng 12 âm lịch năm 520, có vị tăng tên Thần Quang từ xa tìm đến để hỏi đạo, thấy Tổ ngồi thiền, không dám quấy rầy, đứng chờ phía sau lưng Tổ. Đến gần sáng, gặp mùa đông, tuyết lên đến đầu gối. Thấy vậy, Tổ hỏi :

– Ngươi đứng suốt đêm trong tuyết, ý muốn cầu việc gì ?

– Bạch Thầy, con muốn cầu học đạo của chư Phật.

– Đạo của chư Phật rất thâm sâu, mầu nhiệm. Phải cần cù học tập trong nhiều kiếp, phải làm được những việc siêu phàm, phải kiên nhẫn trong khi người khác không chịu nổi. Những kẻ phàm tục, mê muội, đầy kiêu mạn, không chịu nổi khó nhọc, không thể nào học được Chánh Pháp. Nếu ngươi thật sự muốn học, hãy chứng tỏ sự quyết tâm của ngươi.

Ngài Thần Quang liền dùng dao chặt đứt cánh tay trái, tay phải lấy tuyết bụm vết thương lại, đứng yên một chỗ. Tổ Bodhidharma hỏi :

– Ngươi đã chặt tay để bày tỏ sự quyết tâm. Vậy ngươi muốn học gì ?

– Bạch Thầy, con xin được nghe Pháp ấn của chư Phật.

– Pháp ấn của chư Phật không thể “nhờ người mà ta được”138.

– Bạch Thầy, tâm con không an, xin Thầy an tâm cho con.

– Tâm ngươi đâu ? Đưa đây, ta an cho.

Ngài Thần Quang suy nghĩ một lúc rồi nói :

– Bạch Thầy, con tìm mãi mà không thấy tâm con đâu cả !

– Ta đã an tâm cho ngươi rồi đó.

Ngài Thần Quang liền được đại ngộ, quỳ xuống đảnh lễ, xin theo làm đệ tử, được Tổ ban pháp tự là Huệ Khả.

Từ đây, kẻ tăng người tục đua nhau đến yết kiến ngài, tiếng tâm lừng lẫy. Vua Hiếu Minh Đế nước Ngụy ba phen sai sứ đến thỉnh Tổ, Tổ đều từ chối. Nhà vua càng kính trọng, sai sứ đem lễ vật đến tận nơi cúng dường, rốt cuộc Tổ phải nhận.

Mở cửa phương tiện, Tổ Bodhidharma dùng bốn hạnh chính để giáo hóa môn đồ: 1) Báo oán hạnh139, 2) Tùy duyên hạnh, 3) Vô sở cầu hạnh, 4) Xứng pháp hạnh.

Sau 9 năm, vào cuối tháng 9 năm Kỷ Dậu 529, Tổ muốn trở về Ấn Độ, ngài gọi 4 đệ tử lớn đến hỏi :

– Ta sắp trở về Thiên Trúc, các ngươi hãy nói chỗ sở đắc của mình cho ta nghe thử.

– Bạch Thầy, đại đức Đạo Phó (Tăng Phó) thưa, theo con nghĩ, muốn hiểu Đạo thì không nên căn cứ vào văn tự nhưng cũng không nên rời văn tự140.

– Ngươi đã được phần da của ta, Tổ đáp.

– Bạch Thầy, sư cô Tổng Trì thưa, theo chỗ hiểu của con, như Tổ A Nan thấy nước Phật A Súc141, chỉ thấy một lần, không còn thấy lại. (Tất cả đều là hư vọng).

– Ngươi đã được phần thịt của ta.

– Bạch Thầy, đại đức Đạo Dục thưa, con thấy tứ đại đều không, năm uẩn chẳng thật. Theo con thì không một pháp có thể được. (Vô sở hữu, vô sở đắc).

– Ngươi đã được phần xương của ta.

Tới phiên ngài, đại đức Huệ Khả bước ra đảnh lễ Tổ, rồi lui lại đứng im lặng (Bất khả thuyết, không thể diễn tả được). Tổ nhìn ngài Huệ Khả nói :

– Ngươi đã được phần tủy của ta.

Tổ Bodhidharma liền truyền tâm ấn cho ngài Huệ Khả. Tổ nói :

– Xưa kia đức Thế Tôn đã truyền Chánh Pháp Nhãn Tạng cho Tổ Mahà Kassapa, rồi từ đó truyền lần cho đến ta. Hôm nay ta trao lại cho ngươi cùng với y bát của ta142. Ngươi hãy gìn giữ cẩn thận. Mỗi vật đều quan trọng, ngươi nên biết rõ.

– Bạch Thầy, xin Thầy chỉ dạy cho con.

Trong truyền tâm ấn để khế hợp chỗ tâm chứng; ngoài trao y bát để định tông chỉ. Đời sau có nhiều người cạnh tranh, nghi ngờ, họ nói ta là người Ấn, ngươi là người Hoa, căn cứ vào đâu mà được Pháp, lấy gì để minh chứng? Ngươi gìn giữ pháp y (áo cà-sa) này, nếu gặp tai nạn, ngươi đem ra làm pháp tín, thì sự giáo hóa không bị trở ngại.

“Hai trăm năm sau khi ta diệt độ, y bát này dừng lại không truyền, vì lúc đó Phật pháp rất thạnh hành. Chính khi ấy, người biết đạo thật nhiều, người hành đạo quá ít, người nói lý thì nhiều, người ngộ lý thì ít. Tuy nhiên, người thầm lặng chứng đạo có hơn hằng vạn. Ngươi gắng xiển dương, chớ khinh người chưa ngộ. Nghe ta nói kệ :

Ngô bổn lai tư độ,

Truyền pháp cứu mê tình.

Nhất hoa khai ngũ diệp,

Kết quả tự nhiên thành.143

“Và đây là bộ kinh Lăng Già (Lankavatara sutra) gồm 4 quyển, là cửa vào Chơn Tâm, là chìa khóa để mở kho tàng tri kiến Phật, ngươi hãy ráng bảo trì. Ta rất hài lòng được người thừa kế như ngươi.

“Ta từ nam Ấn sang đây, đã 5 phen bị thuốc độc mà không chết. Vì thấy xứ này tuy có khí đại thừa mà chưa ứng hợp, nên ta lặng lẽ ngồi lâu chờ đợi. Nay đã truyền trao xong, đã có thủy ắt phải có chung vậy.

Vài ngày sau, Tổ cùng đồ chúng đi đến Võ Môn, ở chùa Thiên Thánh, dừng lại 3 hôm. Quan Thái thú nơi đây tên Dương Huyễn Chi là người sùng mộ Phật pháp, nghe tin Tổ đến, liền tới đảnh lễ rồi hỏi :

– Đại sư ở Ấn Độ được kế thừa làm Tổ và sang Trung Quốc để truyền bá Giáo Pháp. Vậy thế nào là Tổ ? Làm sao thành một vị Tổ sư ?

– Biết rõ tâm tông của Phật, làm và hiểu hợp nhau, ấy gọi là Tổ.

– Còn có chi khác không ?

– Phải biết soi sáng tâm người, biết hiện tại và quá khứ, an nhiên trước có / không, không phân biệt trí / ngu, không vướng mắc vào đâu cả. Người như thế đáng làm Tổ.

– Bạch Đại Sư, con vì nghiệp thế tục, ít gặp được thiện tri thức, trí nhỏ không thể thấy đạo. Xin Thầy hoan hỉ chỉ dạy cho con đường lối tu tập theo Phật, theo Tổ.

Không khinh điều ác; không trọng điều thiện. Không xa trí tuệ; không gần vô minh. Không bỏ phàm phu; không theo hiền thánh. Đó là đại đạo đưa đến Phật Tánh để cứu muôn loài chúng sanh. Tâm bình đẳng đối với thánh / phàm. Vượt ngoài ý niệm đối đãi. Đó là vị Tổ sư.

Rồi Tổ Bodhidharma nói bài kệ tóm ý như sau :

"Ngoài dứt muôn duyên (5 căn thanh tịnh)

"Trong bặt nghĩ tưởng (ý căn thanh tịnh)

"Tâm như vách tường (tâm bất động chuyển)

"Mới là vào Đạo.

"Sáng Phật Tâm Tông (biết rõ Chơn tâm, Phật tánh)

"Thảy không sai ngộ.

"Làm hiểu hợp nhau

"Ấy gọi là Tổ.

Quan Thái Thú Dương Huyễn Chi nghe xong, vui mừng chảy nước mắt, thưa :

– Bạch Đại Sư, con xin ngài ở lại đây thật lâu để giáo hóa chúng con.

– Ta sắp đi đây, ta không thể ở lâu hơn nữa. Người đời tâm tánh sai khác, ta đã bị phiền lụy nhiều rồi.

– Ai dám phiền lụy đến Đại Sư, xin ngài cứ nói, con sẽ thanh toán người ấy.

– Ta đã truyền bá bí pháp của chư Phật để cứu người. Nay, chẳng lẽ vì sự an nguy của mình mà hại người sao ?

– Con không hại người, chỉ muốn biết đó thôi.

– Đời mạt pháp, kẻ tội ác quá nhiều, dù ta có ở lại lâu e chẳng lợi ích gì mà còn làm tăng trưởng tội ác cho người. Hãy nghe ta nói kệ đây :



Giang tra phân ngọc lãng,

Quản cự khai kim tỏa.

Ngũ khẩu tương cộng hành,

Cửu thập vô bỉ ngã.144

Thái thú Huyễn Chi nghe xong ghi nhớ, đảnh lễ Tổ rồi lui ra.

Ba ngày sau, Tổ Bodhidharma ngồi an nhiên thị tịch, nhằm ngày mồng 9 tháng 10 năm Kỷ Dậu 529. Đến ngày 18 tháng chạp, nhục thân của Tổ được an táng tại chùa Định Lâm, núi Hùng Nhĩ. Hơn ba năm sau, khi sứ nước Ngụy là Tống Vân đi sứ Ấn Độ về, qua núi Thông Lãnh, chợt gặp ngài dùng gậy quảy một chiếc dép trên vai đi nhanh như bay. Tống Vân hỏi :

– Đại Sư, ngài đi đâu đó ?

– Ta đi về Thiên Trúc (Ấn Độ). Chủ ông đã chán đời rồi !

Khi về đến Lạc Dương, vua Hiếu Minh Đế đã băng, Tống Vân thuật lại cho vua Hiếu Trang Đế nghe việc gặp Tổ tại núi Thông Lãnh. Vua lấy làm lạ, ra lệnh mở quan tài ra xem: Mọi người ngạc nhiên thấy trong quan tài chỉ có một chiếc dép của Tổ. Vua ra lệnh xây tháp thờ Tổ Bodhidharma với di tích chiếc dép của ngài, ở chùa Thiếu Lâm, đặt tên là tháp Không Quán.

Vua Lương Vũ Đế tôn xưng Tổ là Thánh Trụ Đại Sư. Vua Đường Đại Tông ban thụy hiệu là Viên Giác Đại Sư. Đời Đường, niên hiệu Khai Nguyên năm thứ 15 (năm 728), môn đồ dời chiếc dép của Tổ về thờ ở chùa Hoa Nghiêm.

Về đệ tử của ngài, ngoài Tổ Huệ Khả còn có những vị nổi tiếng khác như Đạo Dục, Tăng Phó (Đạo Phó), Đàm Lâm, Tổng Trì, v.v...



Tổ Bodhidharma không để lại tác phẩm nào bằng văn tự. Các tác phẩm nói lên phương pháp tu hành của ngài gồm có : Luận Nhị Thập Tứ Hành, Thiếu Thất Lục Môn, Đạt Ma Hòa Thượng Tuyệt Quán Luận, Thích Bồ Đề Đạt Ma Vô Tâm Luận, Nam Thiên Trúc Bồ Đề Đạt Ma Thiền Sư Quán Môn, Thiền Môn Nhiếp Yếu, Thiếu Thất Dật Thư.

29. Huệ Khả145 (Hoei Keu), Nhị Tổ tại Trung Hoa năm 487 - 593

Tổ Huệ Khả, sanh năm 487, là người huyện Lạc Dương, tỉnh Hà Nam, họ Cơ, tự Thần Quang, hiệu Tăng Khả, vào thời Nam Bắc Triều. Ngài thuộc dòng tôn thất nhà Chu. Khi ngài lọt lòng mẹ, có hào quang lạ chiếu sáng trong nhà, nên cha mẹ đặt tên là Thần Quang. Thuở nhỏ, ngài xuất gia với sư Bảo Tịnh, chùa Hương Sơn ở Long Môn, Lạc Dương; sau thọ giới cụ túc tại chùa Vĩnh Mục. Ngài sớm đi tham học các nơi về Thiền Quán, tinh cần nghiên cứu về Khổng, Lão. Năm 520, vào ngày mồng 9 tháng 12 âm lịch, ngài đến chùa Thiếu Lâm ở Tung Sơn, tham yết Tổ Bodhidharma và theo học 9 năm, được truyền tâm ấn làm Nhị Tổ tại Trung Hoa vào đầu tháng 10 năm 529.

Sau khi Tổ Bodhidharma thị tịch, Tổ Huệ Khả sang bắc Tề hoằng truyền Chánh Pháp. Năm 556, Tổ đang ở tại chùa Quang Phước, một hôm, có một cư sĩ trạc 40 tuổi, chẳng nói tên họ, đến đảnh lễ Tổ và thưa :

– Thân con lâu nay mắc bệnh ghẻ lở, chữa trị mãi không lành. Chắc đời trước con đã gây nhiều tội lỗi, xin Đại Sư hoan hỉ sám hối tội cho con.

– Hãy đem tội của ngươi đến đây, ta sẽ sám hối cho.

– Bạch Đại Sư, con tìm kiếm tội, không thấy ở đâu cả.

– Ta đã sám hối tội cho ngươi rồi đó. Nhưng ngươi nên nương tựa Phật, Pháp, Tăng.

– Hiện giờ đệ tử thấy thầy đây là đã biết được Tăng. Nhưng chẳng biết thế nào là Phật và Pháp ?

– Tâm ấy là Phật, tâm ấy là Pháp. Phật và Pháp không hai. Ngươi biết chưa ?

– Nay đệ tử mới biết tánh tội không ở trong, không ở ngoài, không ở chặn giữa. Tâm cũng vậy, Phật và Pháp cũng vậy. Thế nên Phật và Pháp không hai.

Tổ Huệ Khả nghe nói, rất hoan hỉ, liền cho xuất gia, và bảo :

– Ngươi là vật báu của ta, nên ta đặt tên cho ngươi là Tăng Xán.

Sau khi thọ giới cụ túc, bệnh của ngài Tăng Xán lần lần thuyên giảm. Ngài Tăng Xán theo hầu Tổ được hai năm. Một hôm, Tổ Huệ Khả gọi Tăng Xán đến, bảo :

– Tổ Bodhidharma chẳng ngại xa xôi, từ Ấn sang đây, đem Chánh Pháp nhãn tạng của Như Lai truyền cho ta và có để lại y bát của ngài làm pháp tín, nay ta trao lại cho ngươi, ngươi khéo giữ gìn, chớ để đoạn tuyệt. Nghe ta nói kệ :

Bổn lai duyên hữu địa,

Nhơn địa chủng hoa sanh.

Bổn lai vô hữu chủng,

Hoa diệc bất tằng sanh.146

Rồi Tổ Huệ Khả nói tiếp :

– Ngươi được Pháp rồi, nên vào núi sâu mà ở, lúc này chưa phải thời ngươi hành hóa. Trong nước sẽ có nạn.

– Thầy đã biết trước mọi việc, xin từ bi chỉ dạy con rành rẽ.

– Đây không phải tự ta nói, mà là lời huyền ký của Tổ Prajnatara, do Tổ Bodhidharma thuật lại cho ta nghe : Sau khi Tổ Prajnatara nhập niết bàn khoảng 150 năm, sẽ có những việc xảy ra như trong bài kệ sau đây :

Tâm trung tuy kiết ngoại đầu hung,

Xuyên hạ tăng phòng danh bất trung.

Vi ngộ độc long sanh võ tử,

Hốt phùng tiểu thử tịch vô cùng.147

“Xét về niên số nhằm đời của ngươi, ngươi nên thận trọng. Ta cũng có cái nợ ngày trước cần phải trả.

Tổ Huệ Khả phó pháp cho đệ tử là Tăng Xán xong, đến huyện Nghiệp Đô, tỉnh Hà Nam giảng kinh Lăng Già, rồi mai danh ẩn tích trên 30 năm, chẳng ai biết tông tích.


Lúc bấy giờ có một văn sĩ nổi tiếng là thần đồng, tên Mã Tăng Ma. Năm 21 tuổi, ông đã giảng được sách Lễ, kinh Dịch tại miền Đông Hải, thính giả đến nghe đông như chợ. Vừa được gặp Tổ Huệ Khả, Mã Tăng Ma liền xin xuất gia, thọ cụ túc giới. Từ đó về sau, ông không cầm đến cây viết, bỏ hết sách thế gian, chỉ một y, một bát, một tọa cụ, ngày ăn một bữa, ngủ một lần dưới gốc cây, chuyên tu hạnh đầu đà. Về sau, Mã Tăng Ma dạy đệ tử là Huệ Mãn rằng :

– Tâm ấn của Tổ sư chẳng phải chuyện khổ hạnh. Khổ hạnh chỉ là giúp đạo mà thôi. Nếu ngươi khế hội được bản tâm148, phát cái dụng tùy ý chơn quang149, thì khổ hạnh như nắm đất thành vàng. Nếu ngươi chỉ chú trọng khổ hạnh mà không rõ bản tâm, lại bị yêu ghét trói buộc thì khổ hạnh như đêm 30 đi trong đường hiểm.

"Ngươi muốn rõ được bản tâm, phải suy cùng xét cạn, khi gặp sắc gặp thinh mà chưa khởi suy nghĩ thì tâm ở chỗ nào ? Là không chăng ? Là có chăng ? Đã chẳng rơi vào chỗ có/không, thì tâm chân tự sáng, thường chiếu thế gian, chưa có một mảy bụi làm gián cách, chưa có một sát-na đứt nối.
Lại có ông cư sĩ Hướng là một nhà văn uyên bác, chẳng màn đến bả công danh, thích sống nơi rừng sâu hoang vắng, đói ăn lá cây, khát uống nước giếng, làm bạn với nước biếc non xanh để di dưỡng tinh thần. Nghe Tổ Huệ Khả đang hoằng hóa ở bắc Tề, ông biên thơ đến hỏi như vầy :

– Bạch Thầy,

“Theo thiển ý của tôi, người đời cảnh tạm, công danh phú quý như chòm mây nổi, lạch biển cồn dâu; đài các phong lưu như hòn bọt nước. Cái gì là chơn thật, đáng để ta quý trọng ?

“Vì bởi bóng do hình mà có, vang theo tiếng mà sanh, đuổi bóng nhọc hình, chằng biết hình là gốc của bóng; to tiếng để ngăn vang, đâu biết tiếng là cội của vang. Trừ phiền não mà thú hướng niết bàn, cũng như bỏ hình mà tìm bóng. Lìa chúng sanh mà cầu Phật quả, cũng như im tiếng mà tìm vang.

“Thế nên biết, mê ngộ một đường, ngu trí chẳng khác, không tên mà đặt tên, nhơn tên đó mà có thị phi. Không lý mà tạo thành lý, nhơn lý đó mà khởi tranh luận. Huyễn hóa chẳng phải chơn, thì cái gì phải ? cái gì quấy ? Hư vọng chẳng phải thật, thì cái gì không ? cái gì có ?

“Muốn đem cái biết “được mà không chỗ được, mất mà không chỗ mất” trình với Thầy mà chưa có dịp gặp. Nay thố lộ ý này, mong Thầy từ bi đáp cho.

Tổ Huệ Khả đáp :

– Bị quán lai ý giai như thật,

Chơn u150 chi lý cảnh bất thù:

Bổn mê ma-ni vị ngõa lịch,

Hoát nhiên tự giác thị chơn châu.

Vô minh trí tuệ đảng vô dị,

Đương tri vạn pháp tất giai như.

Mẫn thị nhị kiến chi đồ bối,

Thân từ tá bút tác tư thơ.

Quán thân dữ Phật bất sai biệt,

Hà tu cánh mích bỉ vô dư ?

Dịch nghĩa : Ông cư sĩ Hướng,

Xem rõ ý ông gởi đến đây,

Đối lý chơn u có khác gì:

Mê bảo ma-ni là ngói gạch,

Bỗng nhiên giác ngộ biết chơn châu.

Vô minh trí tuệ đồng chẳng khác,

Muôn pháp đều như, phải liễu tri.

Thương kẻ chấp thường và chấp đoạn,

Bày lời mượn bút viết thơ này.

Quán thân với Phật không sai khác,

Nhọc gì tìm kiếm niết bàn chi ?

Ông cư sĩ Hướng được thơ của Tổ Huệ Khả, đọc xong, tìm đến đảnh lễ và thọ nhận ấn ký.

Sau đó, Tổ Huệ Khả hay mặc thường phục, có khi vào quán rượu, có lúc đến hàng thịt, hoặc ở giữa đám đông thuyết pháp, hoặc làm người khuân vác v. v... Có người biết, hỏi :

– Thầy là nhà tu, sao lại làm như thế ?

– Ta tự điều phục tâm, đâu có can hệ gì đến ngươi.

Một hôm, Tổ mặc thường phục đến trước tam quan chùa Khuôn Cứu ở Quảng Thành, diễn nói đạo vô thượng. Nhằm lúc pháp sư Biện Hòa đang giảng kinh Niết Bàn trong giảng đường. Thính giả trong chùa từ từ rút lần ra ngoài rất đông, đứng nghe Tổ nói. Sư Biện Hòa bực tức báo với quan ấp Tể là Địch Trọng Khản rằng Tổ giảng tà thuyết, làm việc phi pháp. Trọng Khản nghe theo, không xét phải quấy, bắt Tổ gia hình. Tổ không đối kháng, mặc nhiên thừa nhận để trả nợ trước cho xong.

Tổ Huệ Khả tịch vào năm 593, thọ 107 tuổi, được thiện tín thương xót đem di thể về chôn ở chùa Từ Châu, phía đông bắc huyện Phú Dương. Về sau được vua ban thụy hiệu là Chánh Tông Phổ Giác Đại Sư. Vua Đức Tông nhà Đường truy phong Đại Tổ Thiền Sư.



30. Tăng Xán151 (Seng Tsan), Tam Tổ tại Trung Hoa năm 517 - 606

Tổ Tăng Xán sanh năm 517 ở Từ Châu. Không ai biết gốc gác ngài như thế nào, chỉ biết ngài mắc bệnh ghẻ lở kinh niên. Một hôm, ngài đến nhờ Tổ Huệ Khả làm lễ sám hối nghiệp đời trước, mong sẽ được lành bệnh. Nhơn đó được ngộ đạo, và được Tổ cho xuất gia, thọ cụ túc giới tại chùa Quang Phước vào ngày 18 tháng 3 âm lịch năm Bính Tý 556 nhằm niên hiệu Thiên Bình thứ hai đời Bắc Tề. Đến năm 558, ngài Tăng Xán hết bệnh, được Tổ Huệ Khả truyền y bát và bảo :

– Ngươi được Pháp rồi, nên vào núi sâu mà ở, lúc này chưa phải thời ngươi hành hóa. Trong nước sẽ có nạn.

Tam Tổ Tăng Xán vào núi Tư Không, huyện Thái Hồ ẩn cư, thay đổi chỗ ở luôn. Trong thời gian này, khoảng năm 574, có một vị sư người nam Ấn tên Vinitaruci (Tỳ Ni Đa Lưu Chi) xin làm đệ tử. Sau khi được truyền pháp, Vinitaruci nghe theo lời Tổ vào miền nam hoằng pháp, trụ tại chùa Chế Chi tỉnh Quảng Châu trong 6 năm; đến năm 580, ngài Vinitaruci rời Trung Quốc sang Giao Châu (Việt Nam), dừng chân ở chùa Pháp Vân thuộc phủ Thuận An, huyện Siêu Loại, nay là chùa Dâu152 thuộc xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.

Sau, Tam Tổ Tăng Xán đến núi La Phù hoằng pháp, lập pháp hội nơi cội cây. Đến đời vua Võ Đế nhà Bắc Chu đàn áp Phật giáo, Tổ lánh nạn đến núi Hoản Công, huyện Thư Châu, người đời không ai biết.

Năm 592, đời Tùy, niên hiệu Khai Hoàng, có sa di Đạo Tín, mới 14 tuổi, đến đảnh lễ Tam Tổ rồi thưa :

– Bạch Hòa Thượng, xin Hòa Thượng từ bi ban cho con pháp môn giải thoát.

– Có ai trói buộc ngươi sao ?

– Dạ, không có ai trói buộc con cả.

– Đã không bị trói buộc, đâu cần cầu giải thoát.

Đạo Tín vừa nghe xong liền đại ngộ. Ngài xin theo hầu Tam Tổ suốt 9 năm. Sau đó đến Kiết Châu thọ giới cụ túc, rồi trở lại hầu Tổ rất cần mẫn. Đến năm 604, thấy Đạo Tín đã thuần thục, Tam Tổ Tăng Xán gọi ngài đến, bảo :

– Đại pháp nhãn tạng của Như Lai, nay ta trao lại cho ngươi cùng với y bát của Tổ Bodhidharma. Ngươi gắng gìn giữ. Nghe ta nói kệ :

Hoa chủng tuy nhơn địa,

Tùng địa chủng hoa sanh.

Nhược vô nhơn hạ chủng,

Hoa địa tận vô sanh.153

Tổ Tăng Xán nói tiếp :

– Xưa, Tổ Huệ Khả trao pháp cho ta rồi ngài đến xứ Nghiệp Đô hoằng hóa hơn 30 năm mới thị tịch. Nay đã có ngươi thừa kế cho ta thì việc của ta đã xong, còn mắc ở đây làm gì ?

Truyền pháp xong, Tổ Tăng Xán đến núi La Phù ngao du hai năm, rồi lại trở về Châu Thư, ngụ tại chùa Sơn Cốc. Dân chúng ở đây nghe Tổ đến đều vui mừng tấp nập kéo đến thừa sự, cúng dường. Tổ đăng tòa thuyết pháp cho tứ chúng nghe, rồi đứng ngay thẳng dưới cây đại thọ, chấp tay thị tịch. Nhằm ngày rằm tháng 10 năm Bính Dần, niên hiệu Đại Nghiệp thứ hai (606) đời nhà Tùy.

Tổ Tăng Xán có để lại một tác phẩm : Tín Tâm Minh.

Vua Huyền Tông đời Đường (713-755), có sắc thụy phong cho ngài là Giám Trí Thiền Sư. Đến đời vua Thiên Bảo (742), có quan Doãn huyện Hà Nam tên Lý Thường đến khai mộ Tổ, thỉnh thi hài làm lễ trà tỳ. Ông thu lượm xá-lợi xây tháp thờ, một phần tặng sư Thần Hội ở chùa Hà Trạch, một phần mang luôn theo mình.

31. Đạo Tín154 (Tao Sinn), Tứ Tổ tại Trung Hoa năm 580 - 651

Tổ Đạo Tín, người huyện Quảng Tế, tỉnh Kỳ Châu (Hồ Bắc), họ Tư Mã. Cha mẹ ngài quê ở Hà Nội, sau khi dời về Kỳ Châu mới sanh ra ngài. Ngài xuất gia khi còn để chỏm, tuy còn ấu thơ mà đã có ý chí xuất trần muốn tu giải thoát. Năm 14 tuổi, ngài vào núi Hoản Công ở Thư Châu, tham yết Tổ Tăng Xán, được Tổ độ cho ngộ đạo. Ngài ở lại hầu Tổ 9 năm. Đến năm 604, ngài Đạo Tín được Tổ Tăng Xán truyền y bát làm Tứ Tổ.

Theo huyền thoại, vào năm 601, đại đức Đạo Tín nhơn đi ngang núi Long Phong huyện Huỳnh Mai, gặp một đạo sĩ già chuyên trồng cây tòng (tùng), nên người ta gọi ông là Tài Tòng. Đạo sĩ Tài Tòng nhận thấy đạo phong của ngài Đạo Tín nên hỏi :

– Đạo pháp của Như Lai có thể cho tôi học được chăng ?

– Tuổi ông đã quá già, dù có học cũng chẳng được lợi ích cho nhiều người. Như ông nhẫn chịu đến khi đầu thai trở lại thì tôi sẽ dạy cho.

Đạo sĩ Tài Tòng ưng chịu, liền đi xuống núi. Đến huyện Huỳnh Mai, thấy một cô gái đang ngồi giặt áo ở bờ sông, ông đến chào và hỏi :

– Nhà cô ở gần xa, cô vui lòng cho tôi nghỉ nhờ một đêm được chăng ?

– Tôi còn cha mẹ, không dám tự quyền, mời ông vào nhà hỏi cha mẹ tôi là hơn.

– Vậy cô có bằng lòng không đã ?

– Riêng tôi thì bằng lòng.

Ông đạo Tài Tòng đến nhà cô gái, xin nghỉ qua đêm, rồi sáng sớm hôm sau ông đi mất dạng. Cô gái kia là con út của nhà họ Châu. Ít lâu sau cô có thai. Cha mẹ cô lấy làm ô nhục, quở mắng và đuổi cô ra khỏi nhà. Cô còn trẻ mà phải cam chịu sống cảnh bơ vơ trong sự tủi nhục, không nơi nương tựa, phải đi làm mướn nuôi thân qua ngày. Chín tháng sau, cô sinh ra một đứa con trai xinh xắn. Cô vẫn chịu nhẫn nhục nuôi con, sống nhờ vào sự bố thí của những người hảo tâm. Thấm thoát được sáu năm, đứa bé tỏ ra kháu khỉnh, thông minh, ăn nói khác thường. Vì nó không có cha nên người trong xóm thường gọi nó là thằng bé không họ.

Đến năm 608, Tổ Đạo Tín đến huyện Huỳnh Mai, giữa đường gặp một đứa bé dáng vẻ khôi ngô, độ chừng 7 tuổi. Đồ chúng nói cho Tổ biết đó là thằng bé không họ. Tổ gọi :

– Này thằng bé không họ !

– Tôi có họ chớ !

– Ngươi họ gì ?

– Tôi họ Phật.

Tổ bỗng nhớ đến lời hẹn xưa của ngài với ông đạo Tài Tòng, bèn tìm đến nói với người mẹ, xin đứa bé đem về nuôi. Căn cứ vào tánh nhẫn của Tổ, tánh nhẫn của Tài Tòng và tánh nhẫn của người mẹ, Tổ đặt tên cho thằng bé không họ là Hoằng Nhẫn, rồi cho thế phát làm sa di, giao cho đồ chúng dạy học...

Năm 617, Tứ Tổ Đạo Tín dẫn đồ chúng đến huyện Lư Lăng, tỉnh Kiết Châu. Bị bọn giặc Tào Võ Vệ bao vây thành 70 ngày, suối giếng khô cạn, mọi người đều lo sợ. Tổ khuyên mọi người thành tâm niệm Ma-ha Bát-nhã. Bọn giặc từ xa trông thấy như có thiên binh giữ thành, nên bảo nhau “Trong thành ắt có dị nhân, không nên đánh”, rồi rút quân. Sau đó, Tổ muốn đi Hoành Nhạc, nhưng trên đường ra Giang Châu, người xuất gia cũng như tại gia đều thỉnh Tổ ở lại chùa Đại Lâm tại Lô Sơn. Tổ hoằng pháp nơi đây 7 năm.

Năm 624, Tổ trở về quê ở Kỳ Châu, trụ trên núi Phá Đầu hơn 30 năm. Tăng chúng bốn phương đua nhau tìm đến tham vấn rất đông. Núi Phá Đầu sau đổi tên là núi Song Phong, nên người đời còn gọi Tổ là Song Phong Đạo Tín.

Năm 630, Tổ đang ở trên núi Phá Đầu, nhìn xem khí tượng, biết trên núi Ngưu Đầu có bậc dị nhơn. Tổ Đạo Tín đích thân tìm đến núi này, vào chùa U Thê hỏi thăm chư tăng rằng :

– Ở đây có đạo nhơn chăng ?

– Phàm là người xuất gia ai chẳng phải là đạo nhơn ?

– Cái gì là đạo nhơn ?

Chư tăng im lặng. Có một vị đáp :

– Ở bên kia núi, cách đây chừng 2 dặm, có một vị sư tên Pháp Dung, lười biếng đến đỗi thấy người đến cũng không đứng dậy chào, cũng không chấp tay xá. Như vậy có phải là đạo nhơn chăng ?

Tổ liền leo núi tìm đến nơi, thấy sư Pháp Dung đang ngồi thiền định trên tảng đá, dường như chẳng để ý đến ai. Chờ một lúc, đến khi sư Pháp Dung xuất thiền, Tổ hỏi :

– Đại đức ở đây làm gì ?

– Quán tâm.

– Quán là người nào ? Tâm là vật gì ?

Pháp Dung không đáp được, bèn đứng lên làm lễ, thưa :

– Hòa thượng an trú nơi nào ?

– Bần tăng không có chỗ ở nhất định, hoặc đông hoặc tây.

– Ngài có biết thiền sư Đạo Tín chăng ?

– Vì sao thầy hỏi ông ấy ?

– Tôi nghe danh đức đã lâu, khao khát muốn đến lễ yết.

– Thiền sư Đạo Tín là bần đạo đây.

– Vì sao ngài quang lâm đến đây ?

– Ta tìm đến thăm hỏi thầy. Có chỗ nào nghỉ ngơi chăng ?

– Dạ có cái am nhỏ kia.

Pháp Dung liền đưa Tổ về am, có nhiều cọp sói lảng vảng xung quanh. Tổ đưa hai tay lên ra vẻ sợ sệt. Pháp Dung hỏi :

– Ngài vẫn còn cái đó sao ?

– Cái đó là cái gì ?

Pháp Dung không đáp được. Giây lát, Tổ đến tấm đá của Pháp Dung ngồi thiền, vẽ một chữ PHẬT. Pháp Dung nhìn thấy giật mình. Tổ bảo :

– Vẫn còn cái đó sao ?

Pháp Dung không hiểu, bèn đảnh lễ cầu xin Tổ chỉ dạy. Tổ bảo :

– Phàm trăm ngàn pháp môn đồng về một tấc vuông. Diệu đức như hà sa, thảy ở nơi nguồn tâm. Tất cả pháp môn như giới, định, tuệ, thần thông biến hóa, thảy đều đầy đủ nơi tâm ngươi. Tất cả phiền não xưa nay đều lặng không. Tất cả nhơn quả đều như mộng huyễn, không có tam giới có thể ra, không có bồ-đề có thể cầu. Người cùng phi nhơn tánh tướng bình đẳng. Đại đạo thênh thang rộng lớn, bặt suy dứt nghĩ. Pháp như thế, nay ngươi đã được, không thiếu khuyết, cùng Phật không khác, lại không có pháp gì lạ.

Chỉ cần tâm ngươi tự tại, chớ khởi quán hạnh, cũng chớ lóng tâm, chớ khởi tham sân, chớ ôm lòng lo buồn, rỗng rang không ngại, mặc tình tung hoành, chẳng làm các việc thiện, chẳng làm các việc ác, đi đứng nằm ngồi, mắt thấy tai nghe ... thảy đều là diệu dụng của Phật. Vì vui vẻ không lo buồn nên gọi là Phật.

Pháp Dung thưa :

– Tâm đã đầy đủ. Vậy cái gì là Phật ? Cái gì là tâm ?

– Chẳng phải tâm thì không hỏi Phật. Hỏi Phật thì chính là tâm.

– Đã không khởi quán hạnh, khi gặp cảnh khởi tâm, làm sao đối trị ?

Cảnh duyên không có tốt xấu. Tốt xấu khởi nơi tâm. Nếu tâm chẳng theo cảnh (danh sắc), thì vọng tình từ đâu khởi ? Vọng tình đã chẳng khởi, thì chơn tâm mặc tình biết khắp. Ngươi chỉ cần tùy tâm tự tại, chẳng cần đối trị, tức gọi là pháp thân thường trụ, không có đổi thay. Ta thọ pháp môn đốn giáo này của Tổ Tăng Xán, nay trao lại cho ngươi. Ngươi nên nhận kỹ lời ta, chỉ ở núi này, sau có năm vị đại nhơn đến nối tiếp giáo hóa.

Năm 643, nghe đạo hạnh của Tổ, vua Thái Tông ba phen hạ chiếu thỉnh về kinh, nhưng Tổ đều dâng biểu từ chối. Vua tức giận ra lệnh nếu Tổ không đi thì sứ giả phải mang thủ cấp của Tổ về. Khi sứ giả đến đọc chiếu chỉ xong, Tổ ung dung ngửa cổ chịu chém. Sứ giả lấy làm lạ trở về tâu lại với vua. Vua càng kính phục, gởi gấm lụa đến tận nơi cúng dường.

Năm 651, ngài Hoằng Nhẫn được 50 tuổi, Tổ Đạo Tín gọi đến bảo :

– Xưa Như Lai truyền Chánh Pháp nhãn tạng cho Tổ Mahà Kassapa, rồi từ đó truyền lần cho đến ta. Nay ta trao lại cho ngươi cùng với y bát của Tổ Bodhidharma, ngươi nên gìn giữ cẩn thận. Nghe ta nói kệ :

Hoa chủng hữu sanh tánh,

Nhơn địa hoa sanh sanh.

Đại duyên dữ tín hiệp,

Đương sanh sanh bất sanh.155

Tổ Đạo Tín lại nói tiếp :

– Trước kia, trong đời Võ Đức, ta có viếng Lô Sơn, lên tột trên đỉnh, nhìn về núi Phá Đầu, thấy một vầng mây màu tía giống như cái lộng, dưới phát ra lằn khói trắng chia ra sáu đường. Ngươi cho là điềm gì ?

– Đó là điềm sau Hòa Thượng, con cháu sẽ chia thêm một nhánh Phật pháp.

Hay thay, ngươi khéo biết đó.

Truyền pháp xong, đến ngày mồng 4 tháng 9 nhuần năm Tân Hợi 651, Tổ Đạo Tín gọi hết thảy đệ tử vào dặn :

Tất cả các pháp đều là giải thoát, các ngươi phải tự ghi nhớ và giáo hóa đời sau.

Dặn dò các đệ tử rồi, Tổ ngồi an nhiên thị tịch, thọ 72 tuổi. Nhục thân ngài được đồ chúng nhập tháp thờ ở chùa Huỳnh Mai, huyện Đông Sơn156. Ngày mồng 8 tháng 4 năm sau, cửa tháp tự nhiên mở ra, dung nhan của Tổ xinh tươi như lúc sống. Từ đây về sau, các đệ tử không đóng cửa tháp nữa.

Vì đệ tử của Tổ là ngài Hoằng Nhẫn hoằng truyền pháp Thiền tại chùa Huỳnh Mai, Đông Sơn, nên người đời còn gọi Tổ Đạo Tín là Sơ Tổ pháp môn Đông Sơn. Ngoài ra sư Pháp Dung, một đệ tử khác của Tổ, lập riêng pháp Thiền Ngưu Đầu.

Vua Đường Đại Tông (766-779) ban cho Tứ Tổ Đạo Tín thụy hiệu Đại Y Thiền Sư, tháp hiệu Từ Vân.

Tác phẩm của Tổ Đạo Tín gồm có : Nhập Đạo An Tâm Yếu Phương Tiện Pháp Môn, Bồ tát Giới Tác Pháp.

32. Hoằng Nhẫn157 (Houng Jenn), Ngũ Tổ tại Trung Hoa năm 602 - 675

Tổ Hoằng Nhẫn không cha, mẹ họ Châu, sanh năm 602 tại huyện Huỳnh Mai, tỉnh Kỳ Châu (Kỳ Xuân, Hồ Bắc). Thuở nhỏ, ngài rất thông minh, xinh đẹp. Có ông thầy xem tướng khen rằng “Đứa bé này có đầy đủ tướng tốt, chỉ thua Phật bảy tướng thôi”. Vì không biết cha ngài là ai, nên người trong xóm thường gọi ngài là thằng bé không họ.

Năm lên 7 tuổi, ngài xuất gia với Tứ Tổ Đạo Tín ở chùa Đông Sơn, núi Song Phong, huyện Huỳnh Mai, tỉnh Kỳ Châu.

Năm 651, ngài Hoằng Nhẫn được 50 tuổi, được Tổ Đạo Tín truyền tâm ấn làm Ngũ Tổ, thường được gọi là Ngũ Tổ Huỳnh Mai (Hoàng Mai).



Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn lấy việc liễu ngộ Chơn Tâm làm ý chỉ, giữ tâm thanh tịnh làm cốt yếu của thiền tập. Ngài phát huy Thiền phong, hình thành pháp môn Đông Sơn, và bắt đầu phổ biến sâu rộng kinh Kim Cang Bát Nhã thay thế kinh Lăng Già. Tổ có rất đông đệ tử, tăng chúng thường trực nơi đạo tràng Hoàng Mai không dưới 500 người.

Năm 671, có người cư sĩ họ Lư tên Huệ Năng từ phương nam đến xin yết kiến Tổ. Tổ hỏi :

– Ngươi từ đâu đến ?

– Bạch Hòa Thượng, đệ tử từ Lãnh Nam đến.

– Ngươi muốn cầu việc gì ?

– Đệ tử chỉ muốn cầu làm Phật, không cầu việc gì khác.

– Người Lãnh Nam là giống dân man di, làm sao thành Phật được ?

– Theo con nghĩ thì người tuy có nam bắc, chứ Phật tánh không có nam bắc.

Tổ Hoằng Nhẫn biết Huệ Năng là bậc lợi căn, giả vờ nạt bảo :

– Thôi, hãy ra nhà sau đi !

Huệ Năng đảnh lễ, đi xuống nhà sau lãnh phần bửa củi, giã gạo.

Sáu tháng sau, Tổ dự biết thời kỳ truyền pháp đã đến, liền gọi đồ chúng đến bảo :

– Nay ta đã già yếu rồi, các ngươi, tùy ý mỗi người, làm một bài kệ nói rõ chỗ thâm hiểu của mình về Phật pháp. Nếu được chỗ cao siêu phù hợp với Chánh Pháp, ta sẽ truyền y bát cho.

Lúc bấy giờ, tăng chúng hơn 700 người, ai cũng tôn kính thượng tọa Thần Tú là bậc giáo thọ158. Họ bảo nhau :

– Nếu không phải thượng tọa Thần Tú thì còn ai đảm đương nổi việc này. Chúng ta có làm kệ cũng vô ích thôi.

Ngài Thần Tú nghe lời bàn tán của đồ chúng như vậy, tự nghĩ mình phải làm kệ. Làm kệ xong, ban đêm ngài lén biên lên vách ở hành lang chùa :



Thân thị bồ-đề thọ,

Tâm như minh cảnh đài.

Thời thời cần phất thức,

Mạc sử nhạ trần ai.159

Sáng ngày, Tổ Hoằng Nhẫn đi kinh hành thấy bài kệ trên vách, đọc qua biết là của thầy Thần Tú làm. Tổ khen :

– Người đời sau, nếu y bài kệ này tu hành sẽ được thánh quả.

Toàn chúng đều đua nhau đọc tụng và học thuộc lòng. Huệ Năng đang giã gạo sau chùa, nghe một thanh niên đọc đi đọc lại bài kệ ấy để học thuộc lòng. Hỏi ra biết của thầy Thần Tú làm. Huệ Năng bèn nhờ người đó dẫn đến chỗ biên kệ, đọc lại cho nghe một lần nữa, rồi nhờ người đó biên giùm một bài kệ họa vận :



Bồ-đề bổn vô thọ,

Minh cảnh diệc phi đài.

Bản lai vô nhất vật,

Hà xứ nhạ trần ai ?160

Tổ thấy bài kệ này thầm nhận là người đã sáng đạo, nhưng không dám nói ra, e có người ganh tị hại Huệ Năng. Tổ lấy dép bôi bài kệ, nói :

– Ai làm bài kệ này vẫn chưa thấy tánh.

Tổ ra sau chùa gặp Huệ Năng đang giã gạo, hỏi :

– Gạo đã trắng chưa ?

– Bạch Hòa Thượng, gạo đã trắng rồi nhưng chưa giần sàng.

Tổ cầm gậy gõ lên miệng cối ba cái rồi bỏ đi vào liêu. Đến canh ba (nửa đêm) Huệ Năng vào thất của Tổ. Tổ lấy y che kín xung quanh thất, rồi giảng kinh Kim Cang cho Huệ Năng nghe. Đến câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, Huệ Năng liền đại ngộ, buột miệng nói :

Đâu ngờ tự-tánh vốn tự thanh tịnh ! Đâu ngờ tự-tánh vốn không sanh diệt ! Đâu ngờ tự-tánh vốn tự đầy đủ ! Đâu ngờ tự-tánh vốn không dao động ! Đâu ngờ tự tánh hay sanh muôn pháp !

Ngũ Tổ biết Huệ Năng đã ngộ được bản tánh, dạy rằng :

Chư Phật ra đời chỉ vì một đại sự nhân duyên là dắt dẫn cho tất cả chúng sanh đều thành Phật, thành bậc Giác Ngộ hạnh phúc đời đời. Nhưng vì chúng sanh có nghiệp lực nặng nhẹ, căn cơ lớn nhỏ khác nhau, nên chư Phật mới phương tiện nói ba thừa, giảng các pháp môn đốn tiệm từ thấp lên cao. Như Lai riêng đem Chánh Pháp Nhãn Tạng vô thượng chơn thật vi diệu trao cho Tổ Mahà Kassapa, lần lượt truyền đến đời thứ 28 là Tổ Bodhidharma. Tổ Bodhidharma sang Trung Quốc truyền nối đến đời ta. Nay ta đem đại pháp và y bát đã thọ trao lại cho ngươi. Ngươi là vị Tổ đời thứ 6, hãy khéo tự hộ niệm, rộng độ chúng sanh, gìn giữ, truyền trao đừng cho bặt dứt. Nghe ta nói kệ :

Hữu tình lai hạ chủng,

Nhơn địa quả hoàn sanh.

Vô tình ký vô chủng,

Vô tánh diệc vô sanh.161

Huệ Năng thọ pháp và y bát xong, đảnh lễ Tổ và thưa :

– Xin Thầy chỉ dạy cho con những điều cần thiết phải làm.

– Xưa Tổ Bodhidharma, khi truyền pháp cho Tổ Huệ Khả, vẫn ngại người đời không tin có sự truyền thừa giữa thầy Ấn trò Hoa, nên trao y bát làm bằng chứng (pháp tín). Nay tông môn của ta thiên hạ đều biết rõ, không còn ai chẳng tin, nên y bát dừng ngay đời ngươi. Vì đến đời ngươi, Chánh Pháp càng được phổ biến rộng rãi, nếu còn truyền y bát sẽ sanh sự tranh giành, người nhận y bát mạng như chỉ mành treo chuông. Bây giờ ngươi nên đi ngay, không nên chậm trễ, nên ẩn mặt một thời gian, khi thấy yên sẽ ra hoằng hóa.

– Bạch Thầy, bây giờ con phải đi đâu ?

– Ta sẽ đưa ngươi đến bờ sông. Từ đó ngươi hãy đi về phương nam. Đến Hoài thì dừng, gặp Hội thì ẩn.

Sau khi truyền pháp cho Huệ Năng, Tổ ở luôn trong thất ba hôm liên tiếp. Toàn chúng sanh nghi, vào thất thưa thỉnh. Tổ bảo :

– Pháp của ta đã đi về phương nam rồi. Còn thưa thỉnh gì nữa ?

– Bạch Hòa Thượng, người nào được ?

– Ai năng thì được.

Đồ chúng biết ngay là cư sĩ Huệ Năng. Họ bất bình đuổi theo, nhưng tìm không gặp. Bốn năm sau, năm 675, Tổ gọi đại chúng đến bảo :

– Việc ta đã xong, đến lúc nên đi.

Tổ Hoằng Nhẫn vào thất, ngồi an nhiên thị tịch, thọ 74 tuổi. Đồ chúng xây tháp thờ ở Đông Sơn, huyện Huỳnh Mai. Vua Đường Đại Tông (763-779) sắc phong thụy hiệu là Đại Mãn Thiền Sư, và tháp hiệu là Pháp Võ.

Tác phẩm của ngài : Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn Đại Sư Tối Thượng Thừa Luận (1 quyển).

33. Huệ Năng162 (Hoei Neng), Lục Tổ tại Trung Hoa năm 638 - 713

Tổ Huệ Năng họ Lư, sanh ngày mồng 8 tháng 2 năm Mậu Tuất 638, đời vua Đường Thái Tông, tại huyện Tân Hưng, tỉnh Hải Nam (Quảng Đông). Cha là Hành Thao, mẹ là Lý Thị.



Theo kinh Pháp Bảo Đàn :

“Huệ” có nghĩa là đem pháp Phật bố thí cho chúng sanh; “Năng” có nghĩa là có khả năng làm nên Phật sự. Theo phẩm Hành Do trong kinh, ngài con nhà nghèo, cha mất sớm, thường phải đi đốn củi bán lấy tiền nuôi mẹ. Năm 24 tuổi, một ngày kia, ngài gánh củi đến chợ cho một tiệm ăn. Lúc ra về bỗng nghe tiếng tụng kinh Kim Cang Bát Nhã, ngài đứng lại nghe, lấy làm thích thú. Đến khi người kia tụng kinh xong, ngài đến hỏi :

– Thưa ông, ông tụng kinh gì ? Tụng kinh để làm gì ?

– Tôi tụng kinh Kim Cang. Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn ở chùa Đông Thiền, huyện Huỳnh Mai thường khuyên mọi người nên trì kinh Kim Cang để thấy Tánh, thành Phật.

Nghe xong, ngài tỏ ý muốn tìm đến đó học đạo, song còn mẹ già, chưa biết tính sao ? Có người khách hàng quen, rất hâm mộ đạo Phật, sốt sắng giúp ngài một số tiền để cấp dưỡng bà mẹ có cơ sinh sống. Gặp cơ hội tốt, ngài về xin phép mẹ cho xuất gia, mẹ ngài hoan hỉ bằng lòng. Ngài khăn gói lên đường, độ một tháng sau đến huyện Huỳnh Mai, vào yết kiến Tổ Hoằng Nhẫn. Tổ bảo xuống nhà trù làm công quả. Huệ Năng chuyên bửa củi, giã gạo. Cối gạo to, chày đạp lớn, thân ngài không đủ sức nặng cất được chày đạp, ngài phải cột thêm một cục đá vào lưng để đủ sức giã gạo. Ngài làm công việc nặng nhọc như vậy suốt trên 6 tháng, không hề trễ nải, thối chí hoặc than phiền điều gì.

Một hôm, Tổ Hoằng Nhẫn xuống nhà trù, thấy ngài Huệ Năng mang đá giã gạo, Tổ hỏi :

– Ngươi vì đạo quên mình đến thế ư ? Ta biết ngươi căn tánh lanh lợi, nhưng ngại kẻ khác hại ngươi, nên ta không nói chuyện với ngươi. Ngươi có biết chăng ?

– Bạch Hòa Thượng, con biết.

Hai tháng sau, nhờ làm bài kệ họa vận lại bài kệ của thầy giáo thọ Thần Tú, Huệ Năng được Tổ Hoằng Nhẫn truyền tâm ấn và y bát rồi bảo ngài phải đi về miền nam lánh nạn gắp. Huệ Năng, lúc bấy giờ (năm 663) vẫn còn là cư sĩ, chưa thọ giới xuất gia.

Huệ Năng mang y bát đi được ít hôm, vừa đến Dưu Lãnh thì bị sư Huệ Minh, vốn là một cựu võ quan, đuổi theo kịp. Huệ Năng để y bát trên tảng đá, ẩn mặt trong bụi cây. Huệ Minh đến cầm y bát lên không nổi, hoảng sợ kêu lên :

– Hành giả ! Tôi đến đây vì pháp, chớ không phải vì y bát.

Huệ Năng nghe nói, bước ra, ngồi trên tảng đá, bảo :

– Nếu ông vì pháp, hãy bình tâm lại nghe tôi nói.

Huệ Minh đứng yên lặng chờ nghe. Huệ Năng bảo :

Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái gì là bản lai diện mục của Thượng Tọa Huệ Minh ?

Huệ Minh nghe câu này liền đại ngộ, đảnh lễ Tổ Huệ Năng, rồi lui bước. Trên đường về, gặp nhóm người đuổi theo, sư bảo không gặp.

Lục Tổ Huệ Năng đến miền nam, ở ẩn vùng Tứ Hội và Hoài Tập. Có lúc gặp phải cuộc sống khó khăn trong rừng, Tổ gia nhập vào đoàn thợ săn. Đến bữa ăn, Tổ hái rau luộc nhờ trong nồi thịt, rồi chỉ ăn rau, không ăn thịt. Như vậy, với hình thức cư sĩ, Tổ thường tùy duyên nói pháp cho họ nghe. Như thế suốt gần 15 năm.

Có lần Tổ đến Thiều Châu, kết bạn với cư sĩ Lưu Chí Lược. Chí Lược có người cô là sư cô Vô Tận Tạng thường tụng kinh Niết Bàn. Tổ nghe tụng qua, vì bà giảng nói thâm nghĩa. Sư cô đem quyển kinh ra hỏi. Tổ bảo :

– Chữ thì tôi không biết, còn nghĩa thì tùy sư cô cứ hỏi.

– Chữ còn không biết, thì nghĩa làm sao hiểu nổi ?

– Diệu lý của chư Phật chẳng quan hệ gì đến văn tự.

Sư cô nghe giảng lý thâm sâu, lấy làm kinh ngạc, liền báo tin cho các bậc kỳ lão trong làng hay có bậc đạo sĩ đáng cúng dường. Dân chúng trong làng nghe tin, đua nhau đến lễ Tổ. Họ hợp sức tu bổ lại ngôi chùa cổ hiệu Bảo Lâm, rồi thỉnh Tổ về trụ trì. Hằng ngày tứ chúng bốn phương tụ hội về đông đảo, không bao lâu ngôi chùa Bảo Lâm biến thành một đạo tràng xinh đẹp. Chẳng bao lâu, có người theo dõi, Tổ lại phải tìm nơi ẩn tránh163.

Ngày mồng 8 tháng giêng năm Bính Tý 676, Lục Tổ Huệ Năng đến Quảng Châu, vào xin nghỉ nhờ ngoài hiên chùa Pháp Tánh. Hôm ấy pháp sư Ấn Tông đang giảng kinh Niết Bàn. Trước chùa có treo lá phướn dài, gió thổi phất phơ qua lại. Hai ông đạo ngồi trước chùa lấy đó làm đề tài tranh luận. Người nói phướn động, người bảo gió động; bàn qua cãi lại, ai cũng cho mình đúng lý. Tổ bước đến nói :

– Có thể cho khách cư sĩ này lạm bàn được chăng ?

Hai người đồng ý. Tổ bảo :

– Không phải phướn động, không phải gió động, mà chính tâm các nhơn giả động.

Hai nhà sư nghe qua đều ngạc nhiên, vào báo cho Hòa Thượng Ấn Tông biết. Hôm sau, Ấn Tông mời Tổ vào hỏi về lý “tâm động”. Tổ giải rõ thâm lý. Ấn Tông bất giác đứng dậy thưa :

– Ngài không phải là người thường. Nghe nói pháp y của Ngũ Tổ Huỳnh Mai đã về phương nam, vậy có phải là ngài chăng ?

– Chẳng dám.

Ấn Tông bèn tập họp bốn chúng, yêu cầu Tổ cho xem y bát. Tổ đưa y bát ra cho đại chúng chiêm bái. Ấn Tông xin làm đệ tử, thỉnh cầu Tổ dạy yếu chỉ thiền tông. Đến ngày rằm tháng giêng, Ấn Tông thỉnh các bậc tôn đức đến làm lễ thế phát cho Tổ. Đến ngày mồng 8 tháng 2, Hòa Thượng Trí Quang làm lễ truyền giới cụ túc cho Tổ tại chùa Pháp Tánh. Từ nay Tổ mới có độ điệp (giấy phép) chính thức làm tăng sĩ. Sau đó có quan Thứ Sử Thiều Châu tên Vi Cừ thỉnh Tổ đến chùa Đại Phạm thuyết pháp môn vi diệu và thọ giới vô tướng tâm địa. Quan liêu, sĩ thứ, cư sĩ và người xuất gia đến dự nghe pháp trên ngàn người. Những thời thuyết pháp tại đây được các đệ tử ghi lại đầy đủ trong kinh Pháp Bảo Đàn.

Năm sau, Lục Tổ muốn trở về chùa Bảo Lâm, huyện Tào Khê (Thiều Châu), là chỗ ở ẩn xưa kia. Ấn Tông cùng quan dân hàng ngàn người tiễn đưa Tổ. Về đến chùa Bảo Lâm, Tổ hoằng dương pháp môn đốn ngộ “Trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật” đối lại với pháp môn tiệm ngộ của ngài Thần Tú đề xướng ở phương bắc. Lúc bấy giờ người ta thường nói : nam đốn, bắc tiệm; nam Năng, bắc Tú. Tăng chúng xa gần đua nhau đến tham vấn. Trung bình chư tăng thường có mặt tại chùa không dưới một ngàn người. Lục Tổ Huệ Năng đã dựng lên cây cờ Đại pháp tại Tào Khê (Thiều Châu), bốn phương trông thấy đều hướng về.

Năm 705, vua Trung Tông sai quan Nội thị là Tiết Giản đến thỉnh Tổ về kinh đô, nhưng Tổ cáo bệnh, từ chối. Tiết Giản thưa :

– Các bậc thiền đức nơi kinh thành đều nói “Muốn được đạo cần phải tọa thiền, tập định, nếu không nhơn thiền định mà được giải thoát, là việc chưa từng thấy”. Chưa biết Thầy thường nói pháp dạy người như thế nào?

– Đạo do tâm ngộ, đâu phải do ngồi. Kinh nói “Nếu nói Như Lai hoặc đến, hoặc đi, hoặc nằm, hoặc ngồi là người ấy không hiểu nghĩa ta nói. Vì sao? Vì Như Lai không từ đâu đến, cũng không đi về đâu cả”. Không từ đâu đến tức là không sanh, không đi đâu cả tức là không diệt. Không sanh không diệt là Như Lai thanh tịnh thiền. Các pháp không-tịch (vắng lặng) là Như Lai thanh tịnh tọa164. Đạo tột cùng không thể được, không có chỗ chứng, đâu do ngồi mà được ư ?

– Đệ tử trở về kinh đô ắt Chúa Thượng sẽ hỏi. Cúi xin Hòa Thượng từ bi chỉ cho chỗ thâm yếu, ngõ hầu đối cảnh giải rành, khiến cho những kẻ học giả ở kinh đô hiểu biết tu hành. Ví như thắp một ngọn đèn, mồi được trăm ngàn ngọn đèn, khiến cho chỗ tối tăm được sáng, sáng mãi không cùng.

– Đạo không có tối sáng, tối sáng là nghĩa đối đãi nhau. Dù sáng mãi không cùng cũng là có cùng. Bởi do đối đãi mà lập văn tự, cho nên kinh nói “Pháp không có so sánh vì không có đối đãi”.

– Sáng dụ trí tuệ, tối dụ phiền não. Người tu hành nếu không dùng trí tuệ chiếu phá phiền não, thì làm sao ra khỏi cái sanh tử từ vô thủy ?

– Dùng trí tuệ chiếu phá phiền não là phương pháp của kẻ tiểu căn nhị thừa, là xe dê, xe nai, người đại căn thượng trí không như vậy.

– Thế nào là chỗ kiến giải của Đại thừa ?

– Sáng cùng không sáng, tánh nó chẳng hai. Tánh không hai tức là tánh thật. Tánh thật thì ở phàm phu chẳng bớt, ở hiền thánh chẳng thêm, dừng nơi phiền não mà chẳng loạn, đứng nơi thiền định mà chẳng lặng, chẳng đoạn chẳng thường, chẳng đến chẳng đi, chẳng ở giữa hoặc hai bên, chẳng sanh chẳng diệt, tánh tướng như như, thường trụ không dời đổi, gọi đó là Đạo.

– Hòa thượng nói chẳng sanh chẳng diệt, có khác gì chúng ngoại đạo nói?

– Ngoại đạo nói chẳng sanh chẳng diệt, là đem cái diệt chận cái sanh, lấy cái sanh để bài trừ cái diệt. Diệt mà nói chẳng diệt, sanh mà nói không sanh. Ta nói không sanh không diệt là xưa tự không sanh, nay cũng không diệt, do xưa không sanh nên nay không diệt, đâu phải giống như ngoại đạo nói. Ông muốn rõ được chỗ thâm yếu của Đạo, thì đối với tất cả việc thiện ác đều chớ suy nghĩ, tự nhiên được vào. Tâm thể trong trẻo thường lặng, diệu dụng như Hằng sa.

Tiết Giản nghe qua liền đại ngộ, lễ bái Tổ rồi trở về triều. Ông tâu hết tự sự cho vua nghe. Vua càng thêm cung kính và ngợi khen, ban chiếu chỉ cúng dường cà-sa ma-nạp, bát màu lục, tích-trượng bảo-câu ... Ban sắc lệnh đổi tên chùa Bảo Lâm là Trung Hưng. Năm 707, vua lại ra sắc lệnh cho quan Thứ sử Thiều Châu kiến thiết ngôi chùa Trung Hưng lại và đổi tên là Pháp Tuyền. Trong thời gian đó Tổ lại sáng lập thêm chùa Quốc Ân ở huyện Tân Châu.

Trong một thời pháp, Lục Tổ Huệ Năng dạy :

Này các thiện tri thức, hãy tịnh tâm nghe ta nói pháp yếu. Tất cả các ông nên biết tâm mình là Phật, chớ có hồ nghi. Ngoài tâm ấy không có một pháp có thể dựng lập. Tất cả muôn pháp đều do tâm mình sanh ra. Kinh nói “Tâm sanh thì các pháp sanh, tâm diệt thì các pháp diệt”. Nếu muốn thành tựu nhất thiết chủng trí165, phải đạt nhất tướng tam muội và nhất hạnh tam muội.

Nhất tướng tam muội là gì ? Nếu ở tất cả chỗ mà không trụ tướng, ở trong tướng ấy mà không sanh yêu ghét, chẳng lấy, chẳng bỏ, chẳng nghĩ việc lợi ích, thành bại ..., tâm luôn được an ổn thanh tịnh gọi là nhất tướng tam muội.

Nhất hạnh tam muội là gì ? Nếu ở tất cả thời, trong lúc đi đứng nằm ngồi, ròng một trực tâm, tâm không rời đạo tràng, nơi nào cũng là Tịnh Độ, gọi là nhất hạnh tam muội.

“Người đủ hai tam muội này như thửa đất tốt để nuôi dưỡng thành tựu hoa trái vô sanh. Nay ta nói pháp, ví như khi mưa thấm ướt cả đất. Phật tánh của các ông ví như các hạt giống, vừa gặp đất ướt liền nẩy mầm. Giữ đúng lời ta quyết được Bồ-đề, đúng theo ta dạy mà thực hành nhất định chứng quả Phật.


Đến năm 712, Tổ gọi đồ chúng đến bảo :

– Ta ở chỗ Tổ Hoằng Nhẫn thọ pháp yếu cùng y bát. Nay tuy truyền pháp mà không truyền y bát, bởi vì lòng tin của các thầy đã thuần thục, không còn nghi ngờ. Nghe ta nói kệ :

Tâm địa hàm chư chủng,

Phổ vũ tất giai manh.

Đốn ngộ hoa tình dĩ,

Bồ-đề quả tự thành.166

Tổ lại bảo :

– Pháp ấy không hai, tâm ấy cũng vậy. Đạo kia thanh tịnh, không có các tướng. Các thầy nên dè dặt, chớ quán tịnh, chớ quán không. Tâm này đã sẵn tịnh, sẵn không, các thầy chỉ cần để tâm thênh thang tự tại, không dính mắc bất cứ điều gì (không dính mắc vào sáu trần), đấy là chơn giải thoát.

Năm 712, Tổ bảo đệ tử xây tháp ở chùa Quốc Ân, huyện Tân Châu. Đến ngày mồng 6 tháng 6 năm 713, Tổ lại sai người đến đốc thúc làm nhanh. Đến ngày mồng 1 tháng 7 năm 713, Tổ gọi môn đồ đến bảo :

– Ta muốn trở về Tân Châu, các thầy hãy lo sửa soạn thuyền.

Đồ chúng nghe nói đều buồn bã, thỉnh Tổ ở nán lại. Tổ bảo :

– Chư Phật ra đời vẫn thị hiện vào niết bàn. Có đến ắt có đi, đó là việc thường. Thân hình hài của ta về ắt có chỗ.

– Hôm nay Thầy đi, bao giờ trở lại ?

– Lá rụng về cội, trở lại không hẹn.

– Chánh Pháp Nhãn Tạng, Thầy sẽ trao cho người nào ?

– Có đạo thì được, vô tâm thì thông167.

– Xin Thầy để lại di chúc xem có tai nạn gì không ?

– Ta diệt độ khoảng 9 năm ắt có người đến lấy đầu ta. Nghe ta nói kệ :

Đầu thượng dưỡng thân,

Khẩu lý tu xan.

Ngộ Mãn chi nạn,

Dương Liễu vi quan.168

Sau khi ta diệt độ khoảng 70 năm, có hai vị Bồ tát từ phương đông đến, một tại gia, một xuất gia, chung nhau chấn hưng Phật pháp, sửa lại các ngôi già lam, nâng đỡ tông chỉ của ta.

Lục Tổ Huệ Năng về đến huyện Tân Châu, vào chùa Quốc Ân, tắm gội xong, ngồi kiết già, an nhiên thị tịch. Khi ấy có mùi hương lạ xông ra, mống trắng vòng chí đất. Lúc bấy giờ nhằm ngày mồng 2 tháng 8 năm Quí Sửu 713. Tổ thọ 76 tuổi. Bấy giờ môn đồ ở Thiều Châu (Tào Khê) và Tân Châu đều muốn đem di thể Lục Tổ về huyện mình để thờ. Đồ chúng bèn thắp hương khấn nguyện ý Tổ, khói hương bay thẳng về hướng Tào Khê. Thế là nhục thân Tổ được đưa về nhập tháp tại chùa Nam Hoa, bên bờ khe Tào Hầu, huyện Thiều Châu, ngày 13 tháng 11 năm Quí Sửu 713. Ngày 25 tháng 7 năm Giáp Dần 714, đồ chúng tổ chức lễ nhập tháp nhục thân Lục Tổ. Những bảo vật như y bát của Tổ Bodhidharma truyền lại, y ma-nạp và bát thủy tinh của vua Trung Tông ban, đều giao cho thị giả của Lục Tổ giữ tại chùa Bảo Lâm. Đến nay nhục thân Lục Tổ Huệ Năng vẫn còn.

Đêm mồng 3 tháng 8 năm Nhâm Tuất (722), thình lình nghe trong tháp như có tiếng kéo dây sắt. Chúng tăng giựt mình thức dậy thấy bóng một người mặc đồ đại tang từ trong tháp chạy ra. Vào tháp thấy có vết thương nơi cổ Lục Tổ. Môn đồ đem chuyện ấy trình quan. Quan huyện Dương Khản và Thứ sử Liễu Vô Thiễm nhận được đơn, truy lùng kẻ phạm tội. Sau 5 ngày, bắt được tên Trương Tịnh Mãn, người huyện Lương thuộc Nhữ Châu, ở chùa Khai Nguyên xứ Hồng Châu, nhận do thầy Sải Kim Đại Bi nước Hàn (Triều Tiên) mướn lấy đầu Tổ để đem về xứ Hải Đông cúng dường.

Vua Đường Hiến Tông (806-821) ban thụy hiệu là Đại Giám Thiền Sư, tháp hiệu là Linh Chiếu. Vua Thái Tổ nhà Tống (976-983) lại ban thụy hiệu là Chân Không Thiền Sư. Vua Tống Nhân Tông (1023-1064) lại ban thụy hiệu là Phổ Giác Thiền Sư. Vua Tống Thần Tông (1068-1086) lại ban thụy hiệu là Viên Minh Thiền Sư.

Trong 43 vị đệ tử nối pháp của Lục Tổ, các vị nổi danh nhất là : Thần Hội ở Hà Trạch, Huệ Trung ở Nam Dương, Huyền Giác ở Vĩnh Gia, Hành Tư ở Thanh Nguyên, Hoài Nhượng ở Nam Nhạc. Ngoài ra còn các vị Pháp Hải, Huệ Trung, Bổn Tịnh, Huyền Sách, Tam Tạng Quật Đa, v.v...

Lục Tổ rất có tài biện luận. Những bài pháp của ngài được các đệ tử sưu tập thành hai tác phẩm chính : Lục Tổ Pháp Bảo Đàn Kinh, Kim Cang Kinh Khẩu Quyết.



Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang169 (Hiuen Tsang) năm 602 - 664

Ngài Huyền Trang là cao tăng Trung Quốc, đời Đường, họ Trần, tên Huy, người huyện Câu Thị, tỉnh Lạc Châu (nay là huyện Yển Sư, tỉnh Hà Nam). Ngài là con út trong một gia đình có 4 người con trai. Cha ngài làm quan đất Giang Lăng. Thuở nhỏ, ngài thông minh xuất chúng, tướng mạo khôi ngô, học sách Bách gia chư tử (Khổng Mạnh) và thường đến chùa Tịnh Độ ở Lạc Dương thăm anh là sư Trường Tiệp, và nghe giảng kinh Phật. Dần dần ngài có khuynh hướng chuyên tâm nghiên cứu Phật pháp.

Năm 612, quan nhà Tùy là Trịnh Thiện Quả, khi tuyển chọn người làm tăng ở Lạc Dương, thấy ngài tuy tuổi nhỏ nhưng có khí phách, tướng mạo khác thường, đối đáp trôi chảy, liền đặc cách cho phép ngài làm tăng. Sau khi được cấp độ điệp, ngài ở lại chùa Tịnh Độ, cùng anh học kinh Niết Bàn với ngài Huệ Cảnh và học Luận Đại Thừa với Pháp sư Trí Nghiêm.

Khi nhà Tùy mất, đất Lạc Dương loạn lạc, ngài cùng anh đi khắp nơi như Cam Túc, Tứ Xuyên, Kinh Châu, Triệu Châu, tham yết các bậc Tôn túc. Ngài học Nhiếp Luận, Tỳ Đàm với ngài Đạo Cơ và Bảo Thiêm, nghe Phát Trí Luận với Pháp sư Chấn. Năm 622 đời Đường, ngài thọ giới cụ túc, học Luật bộ. Sau đó học Luận Thành Thật với ngài Đạo Thâm, học Luận Câu Xá với ngài Đạo Nhạc, học Nhiếp Đại Thừa Luận với ngài Pháp Thường và Tăng Biện.

Nhưng ngài thường than rằng, các sư giảng không đồng nhất, xem trong các Thánh điển cũng có những chỗ khác nhau, cho nên sinh ra nhiều mối nghi ngờ, không biết nương vào đâu để làm căn bản. Do đó ngài mới phát nguyện đến Thiên Trúc (Ấn Độ) tìm học kinh sách Phật giáo để giải quyết mối nghi.

Năm 629, ngài khởi hành đi theo "con đường tơ lụa" của các thương gia, trải qua nhiều gian nan nguy hiểm, vượt qua các vùng Tần, Lương, Cao Xương...,đến miền bắc Ấn. Sau đó, ngài đi về hướng nam, lần lượt chiêm bái các thánh tích như vườn Cấp Cô Độc, thành Ca Tỳ La Vệ, vườn Lâm Tỳ Ni, rừng Sa-la, vườn Lộc Uyển, Bồ-đề đạo tràng, Trúc Lâm, Vương Xá.

Năm 631, ngài đến xin nhập học tại Viện Đại Học Phật Giáo Nàlandà, lễ Đại sư Giới Hiền (Sìlabhadra) làm thầy. Ngài ở đây 5 năm, nghe đại sư Giới Hiền giảng Luận Du Già Sư Địa, Lục Túc Luận, Hiển Dương, Bà Sa, Câu Xá, Thuận Chánh Lý, Đối Pháp, Nhân Minh, Thanh Minh, Tập Lượng, Trung Luận, Bách Luận... Sau đó, ngài rời đại học Nàlandà, đi tham học với các bậc danh sư và sưu tập các bản kinh tiếng Phạn trên khắp vùng Ấn Độ suốt 2 năm. Khi trở về đại học Nàlandà, ngài Giới Hiền giao cho ngài giảng Luận Nhiếp Đại Thừa, Luận Duy Thức Quyết Trạch.

Lúc bấy giờ, trong số đệ tử của ngài Giới Hiền có Sư Tử Quang thấy ngài Huyền Trang được trọng đãi, có ý không phục, nên dùng Trung Luận và Bách Luận để phá nghĩa lý Du Già. Nhưng ngài Huyền Trang vốn hội thông cả Trung Luận, Bách Luận và Du Già, nên làm 3.000 bài tụng lấy tên là “Hội Tông Luận”, giảng rõ đại nghĩa trình lên ngài Giới Hiền và đại chúng, mọi người xem qua đều khâm phục. Về sau ngài lại soạn 1.600 bài tụng đả phá bộ “Phá Đại Thừa Luận” của luận sư nước Ô Đồ170 (Odra). Từ đó danh tiếng của ngài vang dội khắp xứ Ấn Độ. Vua nước Ô Đồ là Cưu Ma La (Kumàra) sai sứ đến thỉnh ngài về nước mình để giảng đạo.

Năm 641, vua Giới Nhật (Sìladitya, Harsa Vardhana) và vua Cưu Ma La (Kumàra) mở đại hội ở thủ đô Khúc Nữ (Kanyakubja) xứ Magadha để ngài Huyền Trang tuyên dương Giáo lý Đại thừa cùng tranh luận với các giáo phái khác. Đây là một đại hội văn hóa lớn nhất trong lịch sử Ấn Độ, với sự tham dự của các Quốc vương 18 nước Ngũ Thiên Trúc, quy tụ hơn 7.000 tăng sĩ thuộc các giáo phái. Tại đây, ngài Huyền Trang đã thuyết trình “Chân Duy Thức Luận” để làm nội dung cho cuộc tranh luận. Vua Sìladitya còn ghi chú dưới bài thuyết trình “Nếu ai nhận thấy một chữ sai lầm, trẫm xin cắt đầu tạ lễ”. Nhưng qua 18 ngày, không có ai dám đứng ra tranh luận. Sau khi hội nghị bế mạc, hằng ngàn người trở về với Giáo Pháp đại thừa. Từ đó tiếng tăm ngài Huyền Trang càng thêm vang dội, các vị quốc vương càng thêm kính phục.

Năm 643, ngài Huyền Trang khởi hành về Trung Quốc. Vua Sìladitya (Giới Nhật) trao tặng rất nhiều lễ vật và truyền lệnh cho quan quân hộ tống ngài đến biên giới Ấn- Hoa.

Đến tháng giêng năm 645, ngài về đến Trường An. Vua Đường Thái Tông sắc lệnh cho trăm quan văn võ như Lương Quốc Công, Phòng Huyền Linh...tổ chức đại lễ đón rước ngài cùng với kinh sách, tượng, xá-lợi, trong đó có 657 bộ kinh tiếng Phạn.

Sau khi về nước, ngài được vua Thái Tông và vua Cao Tông vô cùng kính trọng, tổ chức lễ cúng dường trong đại nội và ban hiệu là Tam Tạng Pháp Sư. Vua Thái Tông hai lần khuyên ngài hoàn tục để giúp việc nước, ngài đều từ chối với nguyện vọng suốt đời hành đạo để báo quốc ân. Vua cũng phải thuận theo và hết lòng giúp đỡ ngài trong công việc phiên dịch kinh điển.

Ngài Huyền Trang lần lượt trụ trì chùa Hoằng Phước, chùa Đại Từ Ân, cung Ngọc Hoa. Trong 19 năm, dịch được 75 bộ, gần 1.335 quyển Kinh, Luật, Luận. Trong số đó có kinh Đại Bát Nhã 600 quyển, Luận Du Già Sư Địa 100 quyển, Luận Đại Tỳ Bà Sa 200 quyển, Luận Câu Xá, Luận Thành Duy Thức, Luận Nhiếp Đại Thừa...

Ngài bài xích phương pháp dịch ý của ngài Cưu Ma La Thập (Kumàrajiva), chủ trương trung thành với nguyên tác và dịch xác nghĩa từng chữ. Phương pháp này đã trở thành chuẩn mực cho việc phiên dịch đời sau. Do đó các kinh được dịch trước thời ngài Huyền Trang gọi là cựu dịch, từ ngài Huyền Trang trở về sau gọi là tân dịch.

Ngoài ra, ngài còn soạn bộ Đại Đường Tây Vực Ký 12 quyển, tường thuật lại cuộc Tây Du cầu pháp của ngài trong 17 năm, xuyên qua 138 nước, một cách rất tường tận. Những điều ngài đã thấy nghe, học hỏi về lịch sử, địa lý, văn hóa, kinh tế, xã hội đều được ghi chép rành rẽ. Bộ sách này hiện nay đã trở thành một tài liệu quan trọng cho các nhà khảo cổ về các nước Trung Á và Ấn Độ vào thế kỷ thứ 7. Vì thế các nước Nga, Nhật, Anh, Đức, Pháp ... đều có phiên dịch ra tiếng nước họ.

Ngài Huyền Trang tịch vào ngày mồng 5 tháng 2 năm Giáp Tý 664, tại cung Ngọc Hoa, thọ 63 tuổi. Nghe tin ngài tịch, vua Đường Cao Tông không cầm được nước mắt, bãi triều ba ngày và nói với các quan rằng “Trẫm nay mất một quốc bảo”. Vua ban thụy hiệu cho ngài là Đại Biến Giác và ra lệnh xây tháp thờ ngài trên ngọn đồi phía bắc Phiền Xuyên. Về sau, loạn Hoàng Sào nổi dậy, linh cốt ngài được thỉnh về Nam Kinh. Thời Thái Bình Thiên Quốc, tháp bị hư hoại, đến khi yên định thì linh cốt ngài bị vùi lấp, không còn ai biết ở đâu. Thời kháng chiến chống Nhật (1937-1945), Nhật Bản đến Nam Kinh sửa đường, đào đất, phát hiện được linh cốt của ngài, bèn thỉnh về thờ ở nước họ. Về sau, chính phủ Nhật trả một phần xương đảnh cho Trung Quốc, hiện nay được thờ tại chùa Huyền Trang ở đầm Nhật Nguyệt, huyện Nam Đầu, tỉnh Đài Loan.




tải về 1.04 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   13   14   15   16   17   18   19   20   21




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương