Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ
Tập 54, Số 1B (2018): 82-91
88
(10% hộ), và ủi bùn (90% hộ) để cải tạo ao nuôi.
Lượng bùn sau khi ủi sẽ được thải trực tiếp lên khu
chứa bùn hoặc có thể ủi lên bờ để đắp cho bờ cao
hơn (vào mùa nắng). Tại tỉnh Bạc Liêu, chỉ có
6,7% hộ sử dụng biện pháp sên/vét bùn còn đa số
hộ dân đều ủi bùn lên bờ (93,3%) (Hình 3) do
không có khu chứa bùn thải. Riêng tỉnh Cà Mau,
trên thực tế diện tích khu chứa bùn của người nuôi
nhỏ không đủ để chứa hết lượng bùn sên/vét lên,
nên người nuôi có một cách là khi sên/vét bùn vào
khu chứa bùn thì tạo một đường rãnh nhỏ cho
lượng bùn chảy trực tiếp ra sông. Điều này làm ảnh
hưởng đến chất lượng nguồn nước trên sông và làm
tăng quá trình lây lan mầm bệnh cho tôm nuôi do
vật chất hữu cơ, đạm (N), lân (P) tích lũy
trong
nước thải và bùn thải từ ao nuôi. Đánh giá của
Briggs and Funge-Smith (1994) ghi nhận khả năng
sử dụng N, P của tôm thấp, tương ứng chỉ khoảng
21% N và 6% P từ thức ăn cung cấp, còn lại tích
lũy trong bùn (31% N và 84% P), phần còn lại
trong nước. Trong đó, 22% N và 7% P được xả thải
qua quá trình thay đổi nước trong vụ nuôi và 13%
N và 3% P qua quá trình thải nước cuối vụ nuôi.
Qua đó cho thấy bùn đáy ao nuôi là bể tích lũy chủ
yếu lượng N, P từ thức ăn thừa và chất thải của
tôm. Ngoài ra, bùn còn chứa lượng lớn chất hữu cơ
(63%) và chất rắn (93%). Nguyễn Văn Mạnh và
Bùi Thị Nga (2014) đã ghi nhận được một vụ tôm
thâm canh tại Cà Mau, lượng bùn thải là 111-137
m
3
bùn/ha/vụ, trong đó lượng hữu cơ trung bình
1,35-2,2 tấn/ha/vụ; tổng đạm
Kjeldahl trong
khoảng 33-79,8 kg/ha/vụ và lân tổng là 24,7-50,2
kg/ha/vụ. Nếu bùn đáy ao tôm không được quản lý
và xử lý triệt để thì lượng chất hữu cơ, đạm, lân
này sẽ là nguồn gây ô nhiễm môi trường lân cận.
Ngoài ra, dư lượng một số chất kháng sinh như
Trimethoprim, Sulfamethoxazole, Norfloxacin và
Oxolinic acid đều được tìm thấy trong nước và bùn
đáy ở các ao nuôi tôm. Những hóa chất này đi vào
hệ sinh thái rừng ngập mặn ảnh hưởng nghiêm
trọng đến hệ động thực vật tại đây đồng thời gây
mất cân bằng sinh thái và suy thoái khu sinh thái
vùng ven biển. Hơn nữa, việc sử dụng nhiều hóa
chất sẽ tạo ra những dòng vi khuẩn kháng thuốc,
hình thành dịch bệnh khó trị. Như vậy, có thể thấy
việc sử dụng nhiều các loại thuốc, hóa chất, đặc
biệt là các loại thuốc kháng sinh trong nuôi tôm có
thể dẫn đến những tác động tiêu cực không nhỏ cho
môi trường vùng nuôi (Le and Munekage, 2004).
Giữa 3 địa phương khảo sát, người nuôi tôm ở
Bạc Liêu ít quan tâm đến việc xử lý và quản lý
nước thải (Hình 2) và bùn thải (Hình 3) so với 2
tỉnh còn lại. Đây có thể là nguyên nhân làm cho
sản lượng thu được ở các hộ nuôi tỉnh Bạc Liêu
thấp hơn 2 tỉnh còn lại và làm giảm tỉ suất lợi
nhuận của các hộ nuôi ở Bạc Liêu (Bảng 5).
Chia sẻ với bạn bè của bạn: