Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ
Tập 54, Số 1B (2018): 82-91
85
Bên cạnh việc quan tâm đến môi trường ao nuôi
thì người nuôi tôm ở tỉnh Cà Mau cũng đầu tư
trang thiết bị cho ao nuôi nhiều hơn, cụ thể số giàn
quạt nước/ha cao hơn 2 tỉnh còn lại (
p< 0,05; Bảng
1). Đây có thể là một trong những lý do góp phần
dẫn đến tổng sản lượng tôm các hộ nuôi ở Cà Mau
đạt cao nhất (29 tấn/ha/năm) > Sóc Trăng (11,6
tấn/ha/năm) ≥ Bạc Liêu (10,1 tấn/ha/năm) (
p<
0,05; Bảng 5). Ngoài ra, người nuôi đa số sử dụng
máy bơm để chủ động hơn trong việc cung cấp
nước và thay nước cho ao nuôi, trung bình người
nuôi trang bị 2,9 máy/ha. Số máy bơm người nuôi
đầu tư cho ao nuôi ở tỉnh Sóc Trăng thấp hơn (
p<
0,05) so với tỉnh Bạc Liêu và khác biệt không có ý
nghĩa so với Cà Mau (
p> 0,05; Bảng 1).
3.2 Quá trình nuôi và quản lý ao tôm
3.2.1 Thông tin con giống và mùa vụ nuôi
Lựa chọn con giống là một khâu quan trọng
quyết định thành công của một vụ nuôi tôm nên
được người dân quan tâm và chọn lựa cẩn thận.
Người nuôi ở Sóc Trăng còn sử dụng con giống từ
các tỉnh miền Trung chủ yếu là tỉnh Ninh Thuận
(chiếm 63,6% hộ phỏng vấn), trong khi chỉ có
21,2% chọn mua tại tỉnh Sóc Trăng, 15,2% người
dân chọn mua tại các cơ sở sản xuất tại các tỉnh
thuộc ĐBSCL. Riêng tại Bạc Liêu, 100% hộ dân
phỏng vấn sử dụng nguồn giống tôm trong tỉnh.
Trong khi người dân ở Cà Mau có xu hướng lựa
chọn nguồn gốc con giống như tỉnh Sóc Trăng.
Theo người nuôi tại đây cho biết con giống ở miền
Trung có giá thấp hơn dao động khoảng 90 – 100
đồng/con (phổ biến nhất là 95 đồng/con) trong khi
đó con giống ở các tỉnh ĐBSCL dao động khoảng
85 – 119 đồng/con. Ngoài ra, con giống ở miền
Trung có chất lượng cao, tỷ lệ sống và năng suất
cao. Ngoài con giống ở miền Trung thì con giống ở
ĐBSCL cụ thể là ở Nhà Mát (Bạc Liêu) cũng là
một lựa chọn.
Tôm thẻ chân trắng là đối tượng có thể nuôi
quanh năm, thông thường người dân thả nuôi từ 1-
3 vụ/năm, phổ biến là 2 vụ/năm nếu thuận lợi thì
nuôi 3 vụ/năm (Bảng 2). Thời gian nuôi tôm trung
bình của 3 tỉnh là 87 ngày/vụ (Bảng 2) đều ngắn
hơn so với thời gian nuôi tôm sú, trung bình 136
ngày (Võ Nam Sơn
và ctv., 2014). Hiện nay, người
dân thường thả nuôi PL
8
-PL
17
, phổ biến là PL
12
.
Theo QCVN 02-19:2014/BNNPTNT, cỡ giống
TTCT thả nuôi tối thiểu PL
12
tương đương 9-11
mm, do nếu thả tôm nhỏ hơn thì chưa đạt tiêu
chuẩn để thả và nếu có sự chênh lệch lớn về kích
cỡ tôm giống thì có thể tôm bị bệnh, bị đói và chất
lượng kém làm ảnh hưởng đến sự thành công của
vụ nuôi. Chính vì thế, 100% người nuôi ở 3 vùng
nghiên cứu thực hiện theo đúng quy định về kích
cỡ tôm giống (Bảng 2). Kết quả ghi nhận về số vụ
nuôi, thời gian nuôi và kích cỡ con giống tương tự
với ghi nhận của Nguyễn Thanh Long và Huỳnh
Văn Hiền (2015).
Chia sẻ với bạn bè của bạn: