LỜi cam đoan tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nghiên cứu nêu trong luận án này là trung thực, khách quan và chưa được ai bảo vệ ở bất kỳ học vị nào



tải về 1.06 Mb.
trang5/12
Chuyển đổi dữ liệu19.07.2016
Kích1.06 Mb.
#2056
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   12

Chương 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

3.1. HUẤN LUYỆN VÀ KHAI THÁC TINH TRÂU VIỆT NAM

Đối với gia súc nói chung và trâu nói riêng, phương pháp khai thác tinh dịch bằng âm đạo giả là phương pháp được sử dụng phổ biến nhất hiện nay. Để thực hiện được phương pháp này, gia súc cần có quá trình huấn luyện tạo phản xạ có điều kiện trong việc nhảy giá và xuất tinh vào âm đạo giả. Kết quả huấn luyện và khai thác tinh trâu Việt Nam theo phương pháp sử dụng âm đạo giả với tần suất 3 lần/tuần (mỗi lần là một buổi sáng và được tính như là 1 ngày) được trình bày ở bảng 3.1.

Bảng 3.1. Khoảng thời gian huấn luyện và khai thác tinh trâu Việt Nam


Số hiệu

Thời điểm bắt đầu đưa vào huấn luyện

Khoảng thời gian huấn luyện

khai thác tinh



Thời điểm bắt đầu

đưa vào khai thác



Tháng tuổi (tháng)

Khối lượng (kg)

Làm quen (ngày)

Huấn luyện nhảy giá (ngày)

Tổng (ngày)

Tháng tuổi (tháng)

Khối lượng (kg)

301

31,00

562,00

3,00

3,00

6,00

31,50

571,00

302

31,00

514,00

4,00

5,00

9,00

32,00

537,00

304

26,00

469,00

10,00

18,00

28,00

28,50

515,00

305

26,00

423,00

11,00

22,00

33,00

29,00

508,00

306

25,00

413,00

15,00

30,00

45,00

28,50

486,00

307

25,00

407,00

20,00

39,00

59,00

29,50

494,00

Mean

SD


27,33

2,88


464,67

62,70


10,50

6,47


19,50

14,01


30,00

20,47


29,83

1,54


518,50

31,20


Kết quả huấn luyện các trâu đực giống Việt Nam cho thấy, khoảng thời gian làm quen trung bình là 10,50 ngày, trong đó trâu đực 301 có thời gian làm quen ngắn nhất là 3 ngày, trâu 307 có thời gian làm quen dài nhất là 20 ngày. Thời gian huấn luyện nhảy giá trung bình là 19,5 ngày, ngắn nhất là 3 ngày (trâu dực số hiệu 301) và dài nhất là 39 ngày (trâu đực số hiệu 307). Như vậy trung bình tổng thời gian huấn luyện khai thác tinh các trâu đực giống Việt Nam trong nghiên cứu này là 30 ngày, trong đó trâu đực số hiệu 301 chỉ cần 6 ngày để có phản xạ nhảy giá khai thác tinh bằng âm đạo giả, còn trâu đực số hiệu 307 phải mất tới 59 ngày mới có phản xạ nhảy giá khai thác tinh bằng âm đạo giả. Nguyên nhân do giữa các trâu đực giống Việt Nam có sự khác nhau về độ tuổi và khối lượng. Ở thời điểm bắt đầu đưa vào huấn luyện khai thác tinh, độ tuổi trung bình của các trâu Việt Nam đạt 27,33 tháng tuổi, dao động từ 25 tháng tuổi (trâu dực số hiệu 306 và 307) đến 31 tháng tuổi (trâu đực số hiệu 301 và 302). Kết thúc quá trình huấn luyện khai thác tinh, các trâu đực được đưa vào khai thác tinh chính thức, thời điểm bắt đầu đưa vào khai thác tinh, các trâu đực có độ tuổi trung bình là 29,83 tháng tuổi (dao động từ 28,5 tháng tuổi đến 32 tháng tuổi).

Kết quả độ tuổi bắt đầu đưa vào khai thác của các trâu đực giống Việt Nam trong nghiên cứu này khá tương đồng với kết quả nghiên cứu của Nordin và cs. (1985), tác giả cho biết không khai thác được tinh dịch của trâu đầm lầy có độ tuổi nhỏ hơn 29 tháng tuổi, mặc dù đã sử dụng cả phương pháp dùng âm đạo giả và dùng dụng cụ khai thác tinh bằng điện. Do vậy, thời gian huấn luyện các trâu đực giống Việt Nam dài hay ngắn phụ thuộc vào độ tuổi của trâu, các trâu đực số hiệu 301, 302 có thời gian học tập phản xạ có điều kiện nhảy giá khai thác tinh bằng âm đạo giả ngắn nhất do có tuổi cao nhất (31 tháng tuổi). Các trâu đực giống khác có thời gian huấn luyện khai thác tinh dài hơn do có độ tuổi trẻ ở thời điểm bắt đầu đưa vào huấn luyện khai thác tinh.

Cả 6 trâu đực giống Việt Nam đều có phản xạ nhảy giá và khai thác được tinh dịch bằng âm đạo giả khi đạt độ tuổi thành thục về khả năng sản xuất tinh. Kết quả này phù hợp với kết quả nghiên cứu của Kilgour (1987) khi nghiên cứu về khả năng học tập các phản xạ có điều kiện của vật nuôi trong trang trại, tác giả thấy rằng, gia súc là nhóm vật nuôi có tốc độ học tập nhanh nhất so với các nhóm vật nuôi khác.

Ở thời điểm bắt đầu đưa vào huấn luyện khai thác tinh, khối lượng trung bình đạt 464,67kg, dao động từ 407,00kg (trâu đực số hiệu 307) đến 562,00kg (trâu đực số hiệu 301). Đến thời điểm bắt đầu đưa vào khai thác tinh, các trâu đực có khối lượng trung bình đạt 518,50kg (dao động từ 486,00kg đến 571,00kg). Các trâu đực giống Việt Nam trong nghiên cứu cứu này có khối lượng cơ thể cao hơn so với kết quả nghiên cứu của các tác giả Mai Văn Sánh (2005) và Nguyễn Công Định (2012).

Tại Ba Vì, Hà Tây cũ (nay là Hà Nội), khối lượng trâu đực 24 tháng tuổi đạt 229 kg, khối lượng trâu đực trưởng thành đạt 357 kg (Mai Văn Sánh, 2005).

Nguyễn Công Định (2012) cho biết, kết quả điều tra đàn trâu địa phương ở 3 tỉnh thành Hà Nội, Hưng Yên và Nghệ An cho thấy, trâu đực ở 24 tháng tuổi có khối lượng trung bình đạt 234,79kg, ở 36 tháng tuổi có khối lượng trung bình đạt 301,43kg và trâu đực trưởng thành có khối lượng trung bình đạt 385,52kg. Tác giả sử dụng trâu đực khối lượng lớn phối với trâu cái tơ đã được cải tạo qua 2 thế hệ, kết quả cho thấy trâu đực thế hệ 2 có khối lượng trung bình đạt 271,68kg ở 24 tháng tuổi và 346,79kg ở 36 tháng tuổi.

Như vậy, các trâu đực giống Việt Nam trong nghiên cứu này đều có khối lượng lớn, có phản xạ nhảy giá tốt để khai thác tinh dịch bằng âm đạo giả.
3.2. ẢNH HƯỞNG CỦA CÁ THỂ VÀ MÙA VỤ ĐẾN MỘT SỐ CHỈ TIÊU SỐ LƯỢNG, CHẤT LƯỢNG TINH TRÂU VIỆT NAM

3.2.1. Ảnh hưởng của cá thể đến một số chỉ tiêu số lượng và chất lượng tinh trâu Việt Nam

Khả năng sinh sản của con đực nói chung và của trâu đực giống nói riêng được thể hiện chủ yếu qua số lượng, chất lượng tinh dịch như lượng xuất tinh, nồng độ tinh trùng, hoạt lực tinh trùng, pH, tỷ lệ tinh trùng kỳ hình, tỷ lệ tinh trùng sống … (Blom, 1983). Các chỉ tiêu này có ý nghĩa trong việc phát hiện các trường hợp sinh sản yếu hoặc vô sinh ở gia súc (Rodriguez - Martinez, 1998). Nếu tinh dịch có số lượng, chất lượng tốt thì sản xuất được tinh đông lạnh có chất lượng tốt, khả năng thụ thai cao và ngược lại, nguyên nhân do các chỉ tiêu này có mối tương quan khá chặt chẽ với nhau (Shukla và Misra, 2005; Sajjad và cs., 2007; Da Luz và cs., 2013). Do vậy, trong công tác TTNT việc đánh giá số lượng, chất lượng tinh dịch của các cá thể đực giống có tầm quan trọng đặc biệt (Koonjaenak, 2006; Vale, 2010). Kết quả nghiên cứu một số chỉ tiêu số lượng, chất lượng tinh dịch của 06 trâu đực giống Việt Nam cụ thể như sau:

3.2.1.1. Lượng xuất tinh

Lượng xuất tinh là chỉ tiêu đầu tiên đánh giá tinh dịch gia súc, chỉ tiêu này chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố như giống, lứa tuổi, chế độ chăm sóc nuôi dưỡng, quản lý... (Sansone và cs., 2000; Javed và cs., 2000; Singh và cs., 2001; Elrabie và cs., 2008; Bhakat và cs., 2009; Mahmoud và cs., 2013). Đây là một chỉ tiêu quan trọng nhằm xác định được lượng môi trường và số liều tinh dự kiến sẽ sản xuất được trong một lần khai thác tinh (Phùng Thế Hải, 2013). Kết quả nghiên cứu lượng xuất tinh của trâu Việt Nam được thể hiện qua bảng 3.2.



Bảng 3.2. Lượng xuất tinh của từng cá thể trâu Việt Nam

Số hiệu trâu đực giống

Số lần khai thác tinh (lần)

Lượng xuất tinh (ml)

Mean

SD

301

120

4,07b

0,30

302

120

4,50a

0,32

304

120

4,41a

0,27

305

120

3,81c

0,29

306

120

3,16e

0,27

307

120

3,42d

0,32

Trung bình

720

3,89

0,57

Ghi chú: Trong cùng một cột, các giá trị Mean có chữ cái khác nhau là có sự sai khác có ý nghĩa thống kê (P<0,05).

Qua bảng 3.2 cho thấy, lượng xuất tinh trung bình của các trâu Việt Nam đạt 3,89 ml. Trong đó trâu đực giống số hiệu 302 có lượng xuất tinh cao nhất đạt 4,50ml, tiếp theo là các trâu đực giống số hiệu 304 (4,41ml), 301 (4,07ml), 305 (4,81ml), 307 (3,42ml) và thấp nhất là trâu đực giống số hiệu 306, lượng xuất tinh chỉ đạt 3,16ml (P<0,05). Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương đồng với kết quả của các tác giả Shukla và Misra (2005), Khawaskar và cs. (2012) và Mahmoud và cs. (2013), có sự khác nhau về lượng xuất tinh giữa các cá thể trâu (P<0,05). Nguyên nhân do có thể có sự khác biệt giữa các cá thể về khối lượng cơ thể và chu vi dịch hoàn giữa các cá thể trâu đực, đây là các chỉ tiêu có tương quan chặt chẽ tới nồng độ testosteron, sự hưng phấn sinh dục (Sajjad và cs. 2007; Da Luz và cs., 2013), từ đó ảnh hưởng tới lượng xuất tinh.

Trâu Việt Nam có lượng xuất tinh tương đương với trâu Malaysia, trâu Thái Lan, trâu Nili-Ravi. Theo Nordin và cs. (1990), trâu đầm lầy Malaysia ở độ tuổi từ 54-65 tháng tuổi có lượng xuất tinh trung bình đạt 3,5ml. Còn trâu đầm lầy phục vụ công tác TTNT ở Thái Lan giai đoạn từ năm 2004 đến năm 2005 có lượng xuất tinh đạt 3,6ml (Koonjaenak và cs., 2006). Tác giả Sajjad và cs. (2007) cho biết, lượng xuất tinh của trâu Nili-Ravi đạt 3,59ml.

Tuy nhiên có nhiều báo cáo công bố các kết quả khác với kết quả nghiên cứu của chúng tôi. Trâu đầm lầy Indonesia có lượng xuất tinh đạt 1,88ml (Herdis và cs., 1999), trâu Murrah ở Ấn Độ có lượng xuất tinh đạt 2,58ml (Bhakat và cs., 2011), trâu Ai Cập có lượng xuất tinh đạt 2,9ml (Mahmoud và cs., 2013), trâu Azarbaijani thấy có lượng xuất tinh đạt 4ml (Alavi-Shoushtari và Babazadeh-Habashi, 2006). Sự khác nhau về lượng xuất tinh trong các báo cáo có thể do sự khác biệt về giống, tình trạng sức khỏe, tuổi, tần suất khai thác tinh, dinh dưỡng, mùa và quản lý (Nazir, 1988). Nordin và cs. (1990) và Younis (1996) cho biết, lượng xuất tinh của trâu trẻ cao hơn trâu già. Javed và cs. (2000) cho rằng, lượng xuất tinh khác nhau còn có thể do kỹ năng khai thác tinh của kỹ thuật viên và nhiệt độ của âm đạo giả. 



3.2.1.2. Hoạt lực tinh trùng

Hoạt lực tinh trùng thể hiện số lượng tinh trùng hoạt động tiến thẳng trong tinh dịch và được đánh giá ước tính tỷ lệ phần trăm thông qua việc quan sát mức độ chuyển động của tinh trùng trên kính hiển vi phản pha có gắn với màn hình (Agnieszka và cs., 2012). Hoạt lực tinh trùng là chỉ tiêu rất quan trọng trong việc đánh giá chất lượng tinh dịch vì nó có tương quan chặt chẽ với các chỉ tiêu số lượng, chất lượng khác của tinh dịch (Shelke và Dhami, 2001; Shukla và Misra, 2005). Hoạt lực tinh trùng cũng chịu ảnh hưởng bởi rất nhiều yếu tố nội tại, ngoại cảnh như giống, cá thể, mùa vụ, chăm sóc nuôi dưỡng, kỹ thuật khai thác, đánh giá chất lượng tinh dịch (Vale, 1997; Mandal và cs., 2000; Khawaskar và cs., 2012; Mahmoud và cs., 2013). Kết quả đánh giá hoạt lực tinh trùng của các trâu Việt Nam được thể hiện ở bảng 3.3.



Bảng 3.3. Hoạt lực tinh trùng của từng cá thể trâu Việt Nam

Số hiệu trâu đực giống

Số lần khai thác tinh (lần)

Hoạt lực tinh trùng (%)

Mean

SD

301

120

75,20bc

4,22

302

120

73,52c

4,05

304

120

78,26b

4,38

305

120

81,50a

4,95

306

120

71,24cd

3,87

307

120

70,08d

3,62

Trung bình

720

75,08

4,51

Ghi chú: Trong cùng một cột, các giá trị Mean có chữ cái khác nhau là có sự sai khác có ý nghĩa thống kê (P<0,05).

Kết quả nghiên cứu cho thấy, hoạt lực tinh trùng trung bình của các trâu Việt Nam đạt 75,08%. Trâu đực số hiệu 305 có hoạt lực tinh trùng đạt cao nhất (81,50%), tiếp theo là các trâu đực số hiệu 304 (78,25%), 301 (75,20%), 302 (73,52%), 306 (71,24%) và hoạt lực tinh trùng thấp nhất là ở trâu đực số hiệu 307 (70,08%) (P<0,05). Nguyên nhân giữa các trâu Việt Nam có sự khác nhau về hoạt lực tinh trùng có thể do giữa các cá thể có sự khác nhau về thể trạng cơ thể, tình trạng sức khỏe sinh sản do yếu tố di truyền. Theo Veeramachaneni và cs. (1986) và Settergen (1994), gia súc có hoạt lực tinh trùng thấp hơn do có sự bất thường về sức khỏe sinh sản hoặc do cấu tạo tinh hoàn khác nhau. Javed và cs. (2000) cho biết, giữa nhóm trâu đực Nili-Ravi khác nhau về sức khỏe sinh sản có sự khác nhau về hoạt lực tinh trùng (P<0,05).

Hoạt lực tinh trùng của trâu Việt Nam tương đương với một số kết quả nghiên cứu về trâu Malaysia, trâu Thái Lan, trâu Murrah và trâu Azarbaijani của các tác giả khác. Nghiên cứu trên trâu đầm lầy Malaysia, tác giả Nordin và cs. (1990) cho biết hoạt lực tinh trùng đạt 75,4% ở giai đoạn trên 65 tháng tuổi, còn tác giả Nair và cs. (2012) thấy rằng hoạt lực tinh trùng trâu đạt 77,5%. Shukla và Misra (2005) cho biết, hoạt lực tinh trùng của trâu Murrah đạt 77,92%. Nghiên cứu trên đối tượng trâu Azarbaijani, Alavi-Shoushtari và Babazadeh-Habashi (2006) thấy hoạt lực tinh trùng đạt 75,85%. Theo Koonjaenak và cs. (2006), trâu đầm lầy phục vụ công tác TTNT ở Thái Lan giai đoạn từ năm 2004 đến năm 2005 có hoạt lực tinh trùng đạt 73,4%.

Một số nghiên cứu có kết quả khác như trâu đầm lầy ở Indonesia có hoạt lực tinh trùng đạt 70% (Herdis và cs., 1999). Nghiên cứu trên đối tượng trâu Nili-Ravi cũng có nhiều báo cáo kết quả khác nhau, Javed và cs. (2000) thông báo hoạt lực tinh trùng đạt 56,89%, Kanwal và cs. (2000) cho biết hoạt lực tinh trùng đạt 68,33%, Sajjad và cs. (2007) công bố hoạt lực tinh trùng chỉ đạt 51,53%, nhưng tác giả Gunarajasingam và cs. (1995) lại thấy rằng hoạt lực tinh trùng rất cao, đạt 86,3% và dao động từ 70% đến 90%. El-Sisy và cs. (2010) cho biết, trâu Ai Cập có hoạt lực tinh trùng dao động từ 80% đến 84%. Nguyên nhân có sự khác biệt về giá trị hoạt lực tinh trùng trong các báo cáo là do sự khác nhau về các điều kiện nghiên cứu như giống, độ tuổi, mùa vụ ... và còn có thể do sự đánh giá trực quan của các chuyên gia khác nhau. Theo Younis (1996), nhìn chung hoạt lực tinh trùng của trâu già thường kém hơn so với trâu trẻ.



3.2.1.3. Nồng độ tinh trùng

Nồng độ tinh trùng được tính là số lượng tinh trùng có trong một ml tinh dịch. Việc sử dụng máy đo quang phổ để đo nồng độ tinh trùng đã mang lại độ chính xác cao hơn, thời gian nhanh và giảm được lỗi kỹ thuật do con người so với các phương pháp sử dụng buồng đếm hồng cầu, buồng đếm Neubauer hoặc buồng đếm Makler (Anzar và cs., 2009; Atiq và cs., 2011). Cũng như các chỉ tiêu số lượng, chất lượng khác của tinh dịch, nồng độ tinh trùng của gia súc cũng chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khác nhau như giống, mùa vụ, lứa tuổi …. (Javed và cs., 2000; Phùng Thế Hải, 2013, Lê Bá Quế, 2013). Kết quả nghiên cứu nồng động tinh trùng của các trâu Việt Nam được thể hiện ở bảng 3.4.



Bảng 3.4. Nồng độ tinh trùng của từng cá thể trâu Việt Nam

Số hiệu trâu đực giống

Số lần khai thác tinh (lần)

Nồng độ tinh trùng (tỷ/ml)

Mean

SD

301

120

1,04d

0,09

302

120

1,20b

0,09

304

120

1,11c

0,10

305

120

1,14c

0,10

306

120

1,44a

0,11

307

120

0,93e

0,09

Trung bình

720

1,14

0,18

Ghi chú: Trong cùng một cột, các giá trị Mean có chữ cái khác nhau là có sự sai khác có ý nghĩa thống kê (P<0,05).

Nồng độ tinh trùng đạt cao nhất ở trâu Việt Nam số hiệu 306 (1,44 tỷ/ml), tiếp theo là các trâu đực số hiệu 302, 305, 304, 301 có nồng độ tinh trùng đạt lần lượt là 1,20 tỷ/ml, 1,14 tỷ/ml, 1,11 tỷ/ml, 1,04 tỷ/ml và thấp nhất là nồng độ tinh trùng của trâu đực số hiệu 307, chỉ đạt 0,93 tỷ/ml (P < 0,05). Kết quả nghiên cứu cho thấy, giữa các cá thể trâu Việt Nam có sự khác nhau về nồng độ tinh trùng. Kết quả này tương đồng với một số nghiên cứu trên trâu Murrah, trâu Toda và trâu Ai Cập. Shukla và Misra (2005) cho biết, các trâu Murrah có nồng độ tinh trùng dao động từ 0,92 tỷ/ml đến 1,24 tỷ/ml (P<0,05). Anilkumar và cs. (2011) thấy rằng, giữa các cá thể trâu Toda có nồng độ tinh trùng khác nhau và dao động từ 0,96 tỷ/ml đến 1,75 tỷ/ml (P<0,05). Các cá thể trâu Ai Cập trong nghiên cứu của Mahmoud và cs. (2013) có nồng độ tinh trùng dao động từ 1,03 tỷ/ml đến 1,17 tỷ/ml (P<0,05). Theo McCool và Entwistle (1989), các cá thể trâu có sự khác biệt giữa về chu vi dịch hoàn do đặc điểm di truyền, đây có thể là nguyên nhân dẫn đến sự sai khác về nồng độ tinh trùng giữa các cá thể.

Trâu Việt Nam có nồng độ tinh trùng trung bình là 1,14 tỷ/ml, tương đương với trâu ở nhiều nước trên thế giới. Trâu đầm lầy ở Malaysia có nồng độ tinh trùng đạt 1,06 tỷ/ml (Jainudeen và cs., 1982). Nồng độ tinh trùng trâu đầm lầy Indonesia đạt 1,18 tỷ/ml (Herdis và cs., 1999). Tác giả Kanwal và cs. (2000) cho biết, trâu Nili-Ravi ở Pakistan có nồng độ tinh trùng đạt 1,14 tỷ/ml. Trâu Murrah ở Ấn Độ có nồng độ tinh trùng đạt 1,05 tỷ/ml (Shukla và Misra, 2005). Trâu đầm lầy phục vụ công tác TTNT ở Thái Lan giai đoạn từ năm 2004 đến năm 2005 có nồng độ tinh trùng đạt 1,1 tỷ/ml (Koonjaenak và cs., 2006). Theo Mahmoud và cs. (2013), trâu Ai Cập có nồng độ tinh trùng đạt 1,08 tỷ/ml.

Tuy nhiên, cũng có một số báo cáo có kết quả khác với kết quả nghiên cứu của chúng tôi về nồng độ tinh trùng trâu. Theo Capitan và cs. (1990), trâu Irắc có nồng độ tinh trùng đạt 0,69 tỷ/ml. Tác giả Gunarajasingam và cs. (1995) cho biết, trâu Nili-Ravi ở Sri Lanka có nồng độ tinh trùng đạt 1,39 tỷ/ml (dao động từ 0,44 tỷ/ml đến 2,92 tỷ/ml). Trâu Azarbaijani ở Iran có nồng độ tinh trùng đạt 1,24 tỷ/ml (Alavi-Shoushtari và Babazadeh-Habashi, 2006). Nguyên nhân có thể do có sự khác nhau về bản chất di truyền giống của đối tượng nghiên cứu và các điều kiện nghiên cứu khác như chăm sóc, nuôi dưỡng, quản lý …



3.2.1.4. Tổng số tinh trùng tiến thẳng

Tổng số tinh trùng sống tiến thẳng là chỉ tiêu tổng hợp của 3 chỉ tiêu lượng xuất tinh, hoạt lực tinh trùng và nồng độ tinh trùng (V x A x C). Qua chỉ tiêu tổng số tinh trùng sống tiến thẳng có thể đánh giá được số lượng tinh đông lạnh sản xuất của gia súc (Phùng Thế Hải, 2013; Lê Bá Quế, 2013). Do là tích của 3 chỉ tiêu lượng xuất tinh, hoạt lực tinh trùng và nồng độ tinh trùng nên chỉ tiêu tổng số tinh trùng tiến thẳng có mối tương quan chặt chẽ với cả 3 chỉ tiêu này và đồng thời cũng chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố như giống, mùa vụ, độ tuổi … tương tự như các chỉ tiêu số lượng, chất lượng khác của tinh dịch (Phùng Thế Hải, 2013). Kết quả nghiên cứu tổng số tinh trùng tiến thẳng của trâu Việt Nam được thể hiện qua bảng 3.5.

Tổng số tinh trùng tiến thẳng trung bình của trâu Việt Nam đạt 3,34 tỷ/lần khai thác. Trâu đực số hiệu 302 và 304 có tổng số tinh trùng tiến thẳng đạt cao nhất là 3,98 tỷ/lần khai thác và 3,81 tỷ/lần khai thác, tiếp theo là các trâu đực số hiệu 305 (3,53 tỷ/lần khai thác), 306 (3,24 tỷ/lần khai thác), 301 (3,2 tỷ/lần khai thác) và thấp nhất là trâu đực số hiệu 307 có tổng số tinh trùng tiến thẳng đạt 2,25 tỷ/lần khai thác (P<0,05). Giữa các cá thể trâu Việt Nam có sự khác nhau về tổng số tinh trùng tiến thẳng là do các chỉ tiêu lượng xuất tinh, hoạt lực tinh trùng và nồng độ tinh trùng của từng các thể trâu Việt Nam có sự khác nhau (P<0,05).


Каталог: uploads -> files
files -> VIỆn chăn nuôi trịnh hồng sơn khả NĂng sản xuất và giá trị giống của dòng lợN ĐỰc vcn03 luậN Án tiến sĩ NÔng nghiệp hà NỘI 2014
files -> Btl bộ ĐỘi biên phòng phòng tài chíNH
files -> Bch đOÀn tỉnh đIỆn biên số: 60 -hd/TĐtn-tg đOÀn tncs hồ chí minh
files -> BỘ NÔng nghiệP
files -> PHỤ LỤC 13 MẪU ĐƠN ĐỀ nghị HỌC, SÁt hạch đỂ CẤp giấy phép lái xe (Ban hành kèm theo Thông tư số 46/2012/tt-bgtvt ngày 07 tháng 11 năm 2012 của Bộ trưởng Bộ gtvt) CỘng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc
files -> TRƯỜng cao đẲng kinh tế KỸ thuật phú LÂm cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam
files -> CHƯƠng trình hoạT ĐỘng lễ HỘi trưỜng yên năM 2016 Từ ngày 14 17/04/2016
files -> Nghị định số 79/2006/NĐ-cp, ngày 09/8/2006 của Chính phủ Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Dược
files -> MỤc lục mở ĐẦU 1 phần I. ĐIỀu kiện tự nhiêN, kinh tế, XÃ HỘI 5
files -> BẢng tóm tắt quyền lợI, phạm VI, CÁC ĐIỂm loại trừ VÀ HƯỚng dẫn thanh toán bảo hiểm của hợP ĐỒng nguyên tắc tập thể ngưỜi thân cbcnv vsp

tải về 1.06 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   12




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương