I .CÁC BÀI TỤNG 1. TỨ HOẰNG THỆ NGUYỆN
Bài kệ này gốm bốn đại thệ của một vị Bồ tát, được đọc tụng rộng rải nhất trong Phật giáo Ðại thừa:
Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn.
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng thệ nguyện hành.
Nội dung của bài kệ này thường gây khó khăn cho các học viên phương Tây, họ đưa ra hai sự phản đối chính. Những người từng là tín đồ Cơ đốc giáo phàn nàn rằng họ đã rời bỏ Thiên chúa giáo và tinh thần truyền giáo của nó, điều cuối cùng họ muốn, trong Thiền, nhiều hơn những gì họ hiểu sai ở lời đầu của bài kệ như "độ " chẳng hạn. Nhiều người hỏi," Làm sao tôi có thể độ hết chúng sanh khi mà tôi chưa có thể tự độ mình? Và nếu tôi độ được mình, thì làm cách nào mà độ cho hết thảy chúng sinh?" Một người có tâm nguyện nghiêm túc viết về nó như sau trong thư:
" Ðiều trở ngại cho tôi về bốn lời thề là tôi không thể thành thật tự cam kết. Theo tôi, phải thêm' chừng nào mà những giới hạn và sự yếu đuối của tôi cho phép', nhưng như vậy nó phá đi sự hữu ích của việc đọc bốn lời thề. Tôi muốn có thể khẳng định những lời thề, nhưng thật sự tôi không thể."
Vấn đề đằng sau cả hai sự phản đối này là việc xem bốn lời thề như một công thức bên ngoài cần phải học và bằng cách nào đó, dù bất lợi và không chấp nhận, cũng phải cư xử theo nó. Câu đầu tiên theo truyền thống được dịch là " cứu" nhưng ở trung tâm Rochester được tụng là" độ". Sự khác nhau về lối diễn đạt này là để tránh cái hàm ý phi Phật giáo, tính đạo lý của sự chuộc tội và phản ánh chân thực hơn tinh thần nguyên thủy. Hiểu một cách đúng đắn, lời thề này là một tuyên ngôn về mục đích và phạm vi tu tập, một sự khẳng định, rằng người toạ thiền không chỉ vì chính mình mà còn vì tất cả chúng sinh. Ba lời thề còn lại phát thảo một tâm thái mà nhờ đó được trao quyền cứu độ chúng sinh trong vô số cỏi.
Nói rằng cứu độ " tất cả chúng sinh" không phải là cường điệu hay ngoa ngữ. Ngộ trong thiền tiết lộ một cách không lầm lẫn là tất cả là một và một là tất cả. Vì bất cứ điều gì xãy ra với một người này chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến mọi người khác. Vì vậy khi một người đắc ngộ, thì cái ngộ đó bao trùm lên trên cả thảy. Ðiều này được thiền sư Ðạo nguyên khẳng định, ," Không giác ngộ cho người khác thì làm gì có sự tự ngộ."
Từ lòng đại từ bi của mình Bồ tát thệ không chấp nhận Niết bàn đến chừng nào mà chúng sinh còn trầm luân trong bể khổ. Ngài tự nhiên coi trọng hạnh phúc của người khác hơn chính mình. Tuy nhiên, Bồ tát tiếp tục tu luyện vì có người nào không tự giúp mình mà lại có thể thành thật giúp kẻ khác. Lời thề nhấn mạnh rằng đã tự hi sinh cho người khác thời sẽ không quay lưng lại khi gặp khó khăn.
Bồ tát nguyện không chỉ là suy nghĩ tích cực mà còn nhiều hơn thế nữa. Cùng một ý nghĩa như vậy, hạt đào trở thành trái đào, quả đấu trở thành cây sồi, trẻ sơ sinh trở thành người lớn, chúng sinh thành Phật. Tứ hoằng thệ nguyện là sự tái khẳng định của lời thề bẩm sinh của chúng ta để trở thành cái mà chúng ta vốn là--tổng thể và trọn vẹn. Nhìn dưới ánh sáng này, các lời thệ nguyện hoàn toàn là tiếng gọi đến với ngộ, đến với giải thoát.
---o0o---
2. BÁT NHÃ TÂM KINH
Kinh Bát Nhã được đọc tụng hàng ngày trong các tu viện, trung tâm Phật giáo trên toàn thế giới và được xem như công thức hiệu nghiệm nhất để xuyên thủng tâm mê. Nó là cốt lỏi của giáo pháp, thông điệp cô đọng tất cả những lời dạy của Ðức Phật. Gọi nó là Tâm kinh vì nó không được nắm bắt bằng cách thông qua tri thức mà bởi kinh nghiệm trực giác sâu nhất của riêng mình. Vì vậy "trí tuệ bát nhã" ở đây có nghĩa là trí siêu việt, và bát nhã cũng là con đường dẫn đến tuệ giác này. Và nội dung của lời dạy đưa đến sự hiểu thấu cặn kẻ về nó.
Trong Tâm kinh, Phật thuyết giảng cho Xá Lợi Phất, một đại đệ tử nổi tiếng thông minh bậc nhất, về cách mà Quán Âm Bồ tát đã ngộ rằng con người, chỉ là sản phẩm của ngũ uẩn--sắc, thọ, tưởng, hành, thức--căn bản của nó là cái không của chân bản thể. Ngài cũng tiết lộ rằng tính ảo giác của mười tám xứ do lục căn, lục trần và lục thức, mười hai nhân duyên nối vào chuổi nhân quả, tứ đế và khái niệm nhị nguyên của Niết bàn và Luân hồi.
Câu thần chú ở cuối bài kinh có thể được dịch là:
Này Bồ đề, đi qua, đi qua,
Qua bờ bên bên kia, qua đến bờ bên kia
Ta-bà-ha
Ta-bà-ha hay "swaha" rất khó dịch sang tiếng Anh, nhưng nó có nghĩa là " thành tựu như sở nguyện."
---o0o---
BÁT NHÃ TÂM KINH
Quán tự tại bồ tát
Hành tham bát nhã ba la mật đa
Thời chiếu kiến ngũ uẫn giai không
Ðộ nhất thiết khổ ách
Xá lợi tử!
Sắc bất dị không
Không bất dị sắc
Sắc tức thị không
Không tức thị sắc
Thọ tưởng hành
Thức diệc phục như thị
Thị chư pháp không tướng
Bất sanh bất diệt
Bất cấu bất tịnh
Bất tăng bất gỉam
Thị cố không trung vô sắc
Vô thọ ,tưởng, hành, thức
Vô nhãn, nhĩ ,tỷ ,thiệt ,thân ,ý
Vô sắc thanh, hương, vị , xúc, pháp
Vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới
Vô vô minh diệc
Vô vô minh tận nãi chí vô lão
Tử diệc vô lão tử tận
Vô khổ, tập , diệt,đạo
Vô trí diệc vô đắc
Dĩ vô sở đắc cố bồ đề
Tát đoả Ba la yết đế
Ba la tăng yết đế
Bồ đề tát bà ha.
Y bát nhã
Ba la mật đa
Cố tâm vô quái ngại
Vô quái ngại cố
Vô hữu khủng bố
Viễn ly điên đảo mộng tưởng
Cứu cánh niết bàn
Tam thế chư phật
Y bát nhã ba la mật đa
Cố đắc nậu đa la
Tam miệu tam bồ đề
Cố tri bát nhã ba la mật đa
Ða thị đại thần chú
Thị đại minh chú
Thị vô thượng chú
Thị vô đẳng đẳng chú
Năng trừ nhứt thiết khổ
Chân thật bất hư
Cố thuyết bát nhã ba la mật chú
Tức thuyết chú viết
Yết đế, yết đế
---o0o---
Khi Bồ Tát Quán Tự tại thực hành Bát Nhã Ba La Mật sâu xa, soi thấy rằng, có năm uẩn và năm uẩn đó không có tự tánh trong chúng.
Này, Xá Lợi Phất, sắc ở đây là Không, Không là sắc, sắc không khác Không, Không không khác sắc, sắc tức thị Không, Không tức thị sắc. Thọ, tưởng, hành, thức cũng vậy.
Này, Xá Lợi Phất, hết thảy các pháp ở đây được biểu thị là Không: chúng không sinh, không diệt, không cấu nhiễm, không không cấu nhiễm, không tăng, không giảm.
Vì vậy, này Xá Lợi Phất, trong Không không có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức, không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, không có nhãn giới cho đến không có ý thức giới, không có minh, không có vô minh, không có minh diệt, không có vô minh diệt, cho đến không có tuổi già và sự chết, không có khổ, tận, diệt, đạo, không có trí, không có đắc và không có chứng…bởi vì không có đắc. Trong tâm của Bồ Tát an trụ trên Bát Nhã Ba La Mật không có những chướng ngại. Và bởi vì không có những chướng ngại trong tâm đó nên không có sợ hãi, và vượt ngoài những tà kiến điên đảo, đạt đến niết bàn. Hết thảy chư Phật trong quá khứ, hiện tại và vị lai, do y theo Bát Nhã Ba La Mật, mà chứng đắc giác ngộ viên mãn tối thượng.
Vì vậy, nên biết Bát Nhã Ba La Mật là đại thần chú, là chú của đại minh huệ, là thần chú cao tuyệt, thần chú vô giá, có thể trừ tiệt hết mọi đau khổ, đó là chân lý vì không sai lầm. Ðây là thần chú được công bố trong kinh Ba la mật. Yết đế, Yết đế. Ba la yết đế. Ba la tăng yết đế . bồ đề tát bà ha.
---o0o---
3. BẠCH ẨN TOẠ THIỀN CA
Một trong những thiền sư nổi tiếng nhất của Phật giáo Nhật bản là ngài Bạch ẩn (1686-1769). Mặc dù giáo lý của ngài đại diện cho truyền thống thiền của Trung hoa. Ngài cũng tu chỉnh lại cho phù hợp với nền văn hoá Nhật bản; tạo ra một loại thiền sống động có thể đến được đối với hàng cư sĩ, cho dù nó vốn bắt rễ trong di sản thuần tuý định hướng tu viện của chính ngài. Có lẽ thiền sư Bạch ẩn nổi tiếng nhất là vì ngài làm tăng sinh khí cho hệ thống công án, và vì các công án tự do ông chế ra mà ngày nay vẫn còn được sử dụng rộng rãi trong giảng dạy:" Âm thanh của một tay là gì?"
Ngay khi còn sinh tiền, Bạch ẩn thiền sư rất được tôn kính và quí mến, đặc biệt là tầng lớp lao động nghèo khổ, họ đến ngài để tìm sự an lạc, khuây khỏa hầu quên đi nổi khổ và bất công trong xã hội phong kiến đầy áp bức của thuở ấy. Ngay cả các quan đại thần và giới quí tộc cũng đến thọ pháp với ngài hoặc họ viết thư nêu những thắc mắc thỉnh cầu ngài giải đáp những nghi tình về pháp. Trong những phúc thư cho họ, người ta thấy ngài công kích mạnh mẽ cái gọi là "thiền hổ lốn" thiền thu thập số đông tu không có chất lượng và lối toạ thiền " ngồi yên lặng như chết."
Mối quan tâm chính của ngài là đào tạo tài tăng và trưởng dưỡng những nhân tố xuất chúng để kế thừa sư nghiệp hoằng pháp của ngài. Trong một bài tự bạch, ngài cho biết có khoảng ít nhất hơn năm trăm môn nhân cả tăng lẫn tục dưới sự huấn luyện của ngài.
Là một con người đa tài đa năng, Bạch ẩn thiền sư còn là một nhà văn một nhà thơ, hoạ sĩ, nhà điêu khắc, thư hoạ. Ngài là tác giả của bài tụng" Bạch Ẩn toạ thiền ca". Bài này được thường xuyên đọc tụng trong các thiền viện ở Nhật, ở trung tâm thiền Rochester và những nơi khác. Có lẽ chúng ta không tìm thấy ở nơi nào khác cái bằng chứng sinh động và sự quyến rủ của năng lực thiền.
---o0o---
BẠCH ẨN TOẠ THIỀN CA
Tất cả chúng sinh bổn lai là Phật
Cũng như băng với nước
Ngoài nước không đâu có băng
Ngoài chúng sinh tìm đâu ra Phật?
Ðạo gần bên mình mà không biết
Bao người tìm kiếm xa vời--đáng thương
Ðó cũng như người nằm trong nước
Gào rát cổ xin cho đở khát
Ðó cũng như con trai vị trưởng giả
Lang thang sống với phường nghèo khó
Nguyên do ta luân hồi trong sáu cỏi
Vì tại ta chìm đắm trong hắc ám vô minh
Mãi lạc xa, xa mãi trong u minh --
Biết bao giờ mới lià sinh tử?
Pháp môn toạ thiền của Ðại thừa
Ta không đủ lời để tán tụng
Những pháp hạnh cao quí như bố thí, trì giới
Như niệm hồng danh Phật, sám hối và khổ hạnh
Và biết bao công đức khác
Tất cả đều là kết quả của tọa thiền
Thậm chí những người chỉ ngồi qua một lần
Cũng diệt trừ được tất cả ác nghiệp
Không đâu tìm thấy ác đạo nữa
Mà tịnh độ vẫn sát kề bên
Xin cung kính nghe nói cái Thực ấy
Dầu chỉ một lần
Hãy tán thán, hãy hoan hỷ ôm choàng lấy
Và sẽ được muôn vàn phước huệ
Ví như những người tự mình phản tỉnh
Chứng vào cái Thực của Tự tánh
Cái thực của Tự tánh là Vô tự tánh
Người ấy thực đã thoát ngoài điên đảo vọng tưởng
Ðã mở ra cánh cửa đồng nhất của nhân và quả
Và thênh thang con đường pháp phi-nhị, phi-tam
Trụ nơi Bất dị giữa những cái dị
Ðầu tới, đầu lui vẫn không bao giờ động
Nắm cái Vô niệm trong cái niệm
Tất cả thanh âm đều là tiếng pháp
Trời Tam muội lồng lộng vô biên
Trăng Từ Trí sáng ngời viên mãn
Ấy là lúc ta thiếu gì đâu?
Ðạo bổn lai thanh tịnh hiện thành
Thế giới này là vùng Tịnh độ
Và thân này là Pháp thân Phật.
---o0o---
4. TÍN TÂM MINH
Tam tổ Tăng Sáng (--606) là một trong những thiền sư nổi tiếng mà thân phận của ngài ít ai biết đến, ngoài việc thừa nhận ngài chính là tác giả của bài" Tín Tâm Minh". Là một du tăng, thiền sư Tăng Sáng chu du khắp đất nước để hành đạo, ngài có tiếng là từ hoà và đạt đến sự cởi bỏ tất cả những ràng buộc và ảo vọng. Khi Phật giáo bị khủng bố, ông cùng hàng ngàn người của Thiền tông trốn vào chốn sơn lâm. Trong cảnh thiếu thốn đó, mọi người sống rất đạm bạc và đơn giản. Chính khả năng thích nghi này giúp thiền phục hồi nhanh chóng từ sau thời kỳ pháp nạn hơn là các tông phái khác. Trước khi tịch, Tổ đã truyền lại bát y cho vị tổ thứ tư là Ðạo Tín (580-651)
Nhiều người tin rằng Tín Tâm Minh là Thiền thư đầu tiên của người Trung hoa. Nó là một trong những tác phẩm được hâm mộ nhất, từ thời xa xưa, các thiền sư đã tự do dẫn bài kệ này, ngay những dòng kệ đầu đã là cơ sở cho nhiều công án trong Bích nham lục. Tác phẩm này cũng nhanh chóng trở nên nổi tiếng ở đất nước này từ khi nó xuất hiện trong cuốn Cái Chào Của Thiền ( zen bow) do trung tâm thiền Rochester xuất bản.
Bản gốc của bài này gồm có 584 từ, 146 dòng không vần điệu, được viết theo lối tứ cú thay vì ngũ cú hay thất cú trong cách hành văn thông hutờng của người Trung Hoa, tạo cho nó sự ngắn gọn-không văn chương hoa mỹ. Tín có nghĩa đức tin sâu mạnh. Không phải là sự tin tưởng thông thường, tín tâm là niềm xác tín lớn lên từ sự trực nhận tánh bất khả phân của tất cả các pháp, dù sự kiện đó chỉ xảy ra trong sát na ngắn ngủi. Tâm là nền móng của tất cả các hiện tượng, cái được coi là quyền thừa kế của mỗi chúng ta.
---o0o---
TÍN TÂM MINH
Chí đạo vô nan - Ðại lớn chẳng gì khó
Duy hiềm giản trạch - Cốt đừng chọn lựa thôi
Ðản mạc tắng ái - Quí hồ không thương ghét
Ðỗng nhiên minh bạch - Thì tự nhiên sáng ngời
Hào li hữu sai - Sai lạc nữa đường tơ
Thiên điạ huyền cách - Ðất trời liền phân cách
Dục đắc hiện tiền - Thì hiện tiền trước mắt
Mạc tồn thuận nghịch - Chớ nghĩ chuyện ngược xuôi
Vi thuận tương tranh - Ðem thuận nghịch chỏi nhau
Thị vi tâm bệnh - Ðó chính là tâm bệnh
Bất thức huyền chỉ - Chẳng năm được mối huyền
Ðồ lao niệm tịnh - Hoài công lo niệm tịnh
Viên đồng thái hư - Tròn đầy tợ thái hư
Vô khiếm vô dư - Không thiếu cũng không dư
Lương do thủ xã - Bởi mảng lo giữ bỏ
Sở dĩ bất như - Nên chẳng được như như
Mạc trục hữu duyên - Ngoài chớ đuổi duyên trần
Vật trụ không nhẫn - Trong đừng ghì không nhẫn
Nhứt chủng bình hoài - Cứ một mực bình tâm
Dẫn nhiên tự tận - Thì tự nhiên dứt tận
Chỉ động qui chỉ - Ngăn động mà cầu tịnh
Chỉ cánh di động - Hết ngăn lại động thêm
Duy trệ lưỡng biên - Càng trệ ở hai bên
Ninh tri nhứt chủng - Thà rõ đâu là mối
Nhứt chủng bất thông - Ðầu mối chẳng rõ thông
Lưỡng xứ thất công - Hai đầu luống uổng công
Khiển hữu một hữu - Ðuổi có liền mất có
Tòng không bối không - Theo không lại phụ không
Ða ngôn đa lự - Nói nhiều thêm lo quẩn
Chuyển bất tương ưng - Loanh quanh mãi chẳng xong
Tuyệt ngôn tuyệt lự - Dứt lời dứt lo quẩn
Vô xứ bất thông - Ðâu đâu chẳng suốt thông
Qui căn đắc chỉ - Trở về nguồn nắm mối
Tuỳ chiếu thất tông - Dõi theo ngọn mất tông
Tu du phản chiếu - Phút giây soi ngược lại
Thắng khước tiền không Trước mắt vượt cảnh không
Tiền không chuyển biến - Cảnh không trò thiên diễn
Giai do vọng kiến - Thảy đều do vọng kiến
Bất dụng cầu chơn - Cứ gì phải cầu chơn
Duy tu tức kiến - Chỉ cần dứt sở kiến
Nhị kiến bất trụ - Hai bên đừng ghé mắt
Thận vật truy tầm - Cẩn thận chớ đuổi tầm
Tài hữu thị phi - Phải trái vừa vướng mắt
Phấn nhiên thất tâm - Là nghiền đốt mất tâm
Nhị do nhất hữu - Hai do một mà có
Nhứt diệc mạc thủ - Một rồi cũng buông tỏ
Nhứt tâm bất sanh - Một tâm ví chẳng sanh
Vạn pháp vô cữu - Muôn pháp tội gì đó
Vô cữu vô pháp - Không tội thì không pháp
Bất sanh bất tâm - Chẳng sanh thì chẳng tâm
Năng tùy cảnh diệt - Tâm theo cảnh mà bặt
Cảnh trục năng trầm - Cảnh theo tâm mà chìm
Cảnh do năng cảnh - Tâm là tâm của cảnh
Năng do cảnh năng - Cảnh là cảnh của tâm
Dục tri lưỡng đoạn - Vì biết hai đằng dứt
Nguyên thị nhứt không Rốt cùng chỉ một không
Nhứt không đồng lưỡng Một không, hai mà một
Tề hàm vạn tượng - Bao gồm hết muôn sai
Bất kiến tinh thô - Chẳng thấy trong thấy đục
Ninh hữu thiên đảng - Lấy gì mà lệch sai
Ðại đạo thể khoan - Ðạo lớn thể khoan dung
Vô dị vô nan - Không dễ mà chẳng khó
Tiểu kiến hồ nghi - Kẻ tiểu kiến lừng khừng
Chuyển cấp chuyển trì - Gấp theo mà bỏ chậm
Chấp chi thất độ - Chấp giữ là nghiêng lệch
Tâm nhập tà lộ - Dấn thân vào nẽo tà
Phóng chi tự nhiên - Cứ tự nhiên buông hết
Thể vô khứ trụ - Bổn thể chẳng lại qua
Nhiệm tánh hiệp đạo - Thuận tánh là hiệp đạo
Tiêu dao tuyệt não - Tiêu dao dứt phiền não
Hệ niệm quai chơn - Càng nghĩ càng trói thêm
Trầm hôn bất hảo - Lẽ đạo chìm mê ảo
Bất hảo lao thần - Mê ảo nhọc tinh thần
Hà dụng sơ thân - Tính gì việc sơ thân
Dục thú nhứt thặng - Muốn thẳng đường nhứt thặng
Vật ố lục trần - Ðừng chán ghét sáu trần
Lục trần bất ác - Sáu trần có xấu chi
Hoàn đồng chánh giác - Vẫn chung về giác ấy
Trí giả vô vi - Bậc trí giữ vô vi
Ngu nhơn tự phược - Người ngu tự buộc lấy
Pháp vô dị pháp - Pháp pháp chẳng khác pháp
Vọng tự ái trước - Do ái trước sanh lầm
Tương tâm dụng tâm - Há chẳng là quấy lắm
Khởi phi đại thác - Sai tâm đi bắt tâm
Mê sanh tịch loạn - Mê sanh động sanh yên
Ngộ vô hảo ác - Ngộ hết xấu hết tốt
Nhứt thiết nhị biên - Nhứt thiết việc hai bên
Vọng tự châm chước - Ðều do vọng châm chước
Mộng huyễn không hoa - Mơ mộng hão không hoa
Hà lao bả tróc - Khéo nhọc lòng đuổi bắt
Ðắc thất thị phi - Chuyện thua được thị phi
Nhứt thời phóng khước - Một lần buông bỏ quách
Nhãn nhược bất thụy - Mắt ví không mê ngủ
Chư mộng tự trừ - Mộng mộng đều tự trừ
Tâm nhược bất dị - Tâm tâm ví chẳng khác
Vạn pháp nhứt như - Thì muôn pháp nhứt như
Nhứt như thể huyền - Nhứt như vốn thể huyền
Ngột nhĩ vọng duyên - Bằn bặc không mảy duyên
Vạn pháp tề quán - Cần quán chung như vậy
Qui phục tự nhiên - Muôn pháp về tự nhiên
Dẫn kì sở dĩ - Ðừng nói vì sao vậy
Bất khả phương tỉ - Thì chuyện hết sai ngoa
Chỉ động vô động - Ngăn động chưa là tịnh
Ðộng chỉ vô chỉ - Ðộng ngăn khác tịnh xa
Lưỡng kí bất thành - Cái hai đà chẳng được
Nhứt hà hữu nhĩ - Cái một lấy chi mà…
Cứu cánh cùng cực - Rốt ráo đến cùng cực
Bất tồn quĩ tắc - Chẳng còn mảy quĩ tắc
Khế tâm bình đẳng - Bình đẳng hiệp đạo tâm
Sở tác cấu tức - Im bặt niềm tạo tác
Hồ nghi tận định - NIềm nghi hoặc lắng dứt
Chánh tín điều trực - Lòng tin hoà lẽ trực
Nhất thiết bất lưu - Mảy bụi cũng chẳng lưu
Vô khả kí ức - Lấy gì mà kí ức
Hư minh tự nhiên - Bổn thể vốn hư minh
Bất lao tâm lực - Tự nhiên nào nhọc sức
Phi tư lượng xứ - Trí nào suy lường được
Thức tình nan trắc - Thức nào cân nhắc ra
Chơn như pháp giới - Cảnh chơn như pháp giới
Vô tha vô tự - Không người cũng không ta
Yếu cấp tương ưng - Cần nhứt hãy tương ưng
Duy ngôn bất nhị - Cùng lẽ đạo bất nhị
Bất nhị giai đồng - Bất nhị thì hoá đồng
Vô bất bao dong - Không gì chẳng bao dong
Thập phương tri giả - Mười phương hàng trí giả
Giai nhập thử tông - Ðều chung nhập một tông
Tông phi xúc diên - Tông này vốn tự tại
Nhứt niệm vạn niên - Khoảnh khắc là vạn niên
Vô tại bất tại - Dầu có không không có
Thập phương mục tiền - Mười phương trước mắt liền
Cực đại đồng tiểu - Cực lớn là cực nhỏ
Bất kiến biên biểu - Ðồng thau chẳng giới biên
Hữu tức thị vô - Cái có là cái không
Vô tức thị hữu - Cái không là cái có
Nhược bất như thị - Nếu chẳng được như vậy
Tất bất tu thủ - Quyết không nên nấn ná
Nhứt tức nhứt thiết - Một tức là tất cả
Nhứt thiết nhứt tức - Tất cả tức là một
Ðản năng như thị - Quí hồ được vậy thôi
Hà lự bất tất - Lo gì chẳng xong tất
Tín tâm bất nhị - Tín tâm chẳng phải hai
Bất nhị tín tâm - Chẳng phải hai tín tâm
Ngôn ngữ đoạn đạo - Lời nói làm đạo dứt
Phi cổ lai kim - Chẳng kim cổ vị lai
---o0o---
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |