CÔNG NGHỆ BÊ TÔNG ĐẦM LĂN- TÌNH HÌNH
SỬ DỤNG TRÊN THẾ GIỚI VÀ TRIỂN VỌNG ỨNG DỤNG Ở VIỆT NAM
ThS. Nguyễn Quang Hiệp, Viện Chuyên ngành Bê tông - Viện KHCN Xây dựng
Mở đầu
Bê tông đầm lăn (BTĐL) là loại bê tông sử dụng các nguyên vật liệu tương tự như bê tông thường. Khác với bê tông thường được đầm chặt bằng thiết bị rung đưa vào trong lòng khối đổ, BTĐL được làm chặt bằng thiết bị rung lèn từ mặt ngoài (lu rung). Công nghệ này thích hợp cho các công trình bê tông khối tích lớn, hình dáng không phức tạp như đập, mặt đường. Việc đầm lèn bê tông bằng lu rung cho phép sử dụng hỗn hợp bê tông khô, ít chất kết dính hơn so với bê tông thường nhờ vậy đối với một số đập và đường bê tông, thi công bằng công nghệ này nhanh hơn và rẻ hơn so với dùng công nghệ đổ bê tông truyền thống. Công nghệ BTĐL thường được áp dụng thích hợp cho thi công đập bê tông trọng lực và mặt đường, sân bãi.
Công nghệ BTĐL áp dụng cho thi công đường giao thông so với công nghệ thi công thông thường có các ưu điểm như: phương pháp thi công không phức tạp, lượng dùng xi măng thấp, có thể sử dụng một số sản phẩm phụ hoặc phế thải công nghiệp giúp hạ giá thành vật liệu so với bê tông xi măng thông thường, tốc độ thi công nhanh.
Công nghệ BTĐL đặc biệt hiệu quả khi áp dụng cho xây dựng đập bê tông trọng lực. Khối lượng bê tông được thi công càng lớn thì hiệu quả áp dụng công nghệ BTĐL càng cao. Việc lựa chọn phương án thi công đập bằng công nghệ BTĐL thường đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn so với đập bê tông thường và đập đất đắp bởi các lí? do sau [3]:
Thi công nhanh: So với đập bê tông thường, đập BTĐL được thi công với tốc độ cao hơn do có thể dùng băng tải để vận chuyển bê tông, dùng máy ủi để san gạt, máy lu rung để đầm lèn và ít phải chờ khối đổ hạ nhiệt. So với đập đất đắp có cùng chiều cao, khối tích của đập BTĐL nhỏ hơn nên thi công nhanh hơn. Công trình đập càng cao, hiệu quả kinh tế của đập BTĐL càng lớn so với đập đất đắp.
Giá thành hạ: Theo các tính toán tổng kết từ các công trình đã xây dựng trên Thế giới, giá thành đập BTĐL rẻ hơn so với đập bê tông thi công bằng công nghệ truyền thống từ 25% đến 40%. Việc hạ giá thành đạt được là do giảm được chi phí cốp pha, giảm chi phí cho công tác vận chuyển, đổ, đầm bê tông.
Giảm chi phí cho các kết cấu phụ trợ: So với đập đắp, chi phí làm cửa tràn của đập BTĐL rẻ hơn (tương tự như đập bê tông thường). Đối với đập thuỷ điện được thiết kế có nhiều cửa nhận nước ở nhiều cao trình khác nhau thì phương án đập BTĐL càng rẻ hơn so với phương án đập đắp. Hơn nữa khi làm đập BTĐL, chiều dài của kênh xả nước ngắn hơn so với kênh xả nước của đập đắp và vì vậy giảm chi phí làm bản đáy và chi phí xử lí? nền đập.
Giảm chi phí cho biện pháp thi công: Việc thi công đập bằng BTĐL có thể giảm chi phí dẫn dòng trong thời gian xây dựng và giảm các thiệt hại, các rủi ro khi nước lũ tràn qua đê quai. Đối với đập BTĐL, đường ống dẫn dòng ngắn hơn ống dẫn dòng của đập đắp. Hơn nữa thời gian thi công đập BTĐL ngắn nên các ống dẫn dòng cho đập BTĐL chỉ cần thiết kế để đáp ứng lưu lượng xả nước lớn nhất theo mùa thay vì lưu lượng lớn nhất theo năm như đối với đập bê tông và đập đắp. Vì vậy đường kính cống dẫn dòng của đập BTĐL nhỏ hơn và chiều cao đê quai cho đập BTĐL cũng thấp hơn so với phương án đập bê tông thường và đập đắp.
1. Tình hình ứng dụng BTĐL trên thế giới
Về xây dựng đập trọng lực, tính đến 2005, toàn thế giới đã xây dựng được trên dưới 300 đập BTĐL với khối lượng tổng cộng khoảng trên 90 triệu m3 BTĐL. Hiện Trung Quốc là quốc gia đang dẫn đầu về số lượng đập BTĐL sau đó là Hoa Kỳ, Nhật Bản và Tây Ban Nha.
Bảng 1. Số lượng đập BTĐL tại một số nước trên thế giới
|
Tên Quốc Gia
|
Số đập đã xây dựng
|
Thể tích BTĐL
(103 m3)
|
Tỷ lệ theo S.lượng %
|
Tỷ lệ theo K.lượng%
|
|
Tên Quốc Gia
|
Số đập đã xây dựng
|
Thể tích BTĐL (103 m3)
|
Tỷ lệ theo S.lượng %
|
Tỷ lệ theo K.lượng %
|
|
Châu á
|
|
Châu Âu
|
|
T.Quốc
|
57
|
28.275
|
20
|
30.50
|
|
Pháp
|
6
|
234
|
2.1
|
0.25
|
|
Nhật Bản
|
43
|
15.465
|
15.09
|
16.68
|
|
Hy Lạp
|
3
|
500
|
0.7
|
0.54
|
|
Kyrgystan
|
1
|
100
|
0.35
|
0.11
|
|
Italy
|
1
|
262
|
0.35
|
0.28
|
|
Thái Lan
|
3
|
5.248
|
1.05
|
5.66
|
|
Nga
|
1
|
1.200
|
0.35
|
1.29
|
|
Inđonesia
|
1
|
528
|
0.35
|
0.57
|
|
T.B. Nha
|
22
|
3.164
|
7.72
|
3.41
|
|
Tổng:___29___6.962'>Tổng:___51___16.014'>Tổng:___35___5.384'>Tổng:___105___49.616'>Tổng:
|
105
|
49.616
|
36.8
|
53.56
|
|
Tổng:
|
35
|
5.384
|
11.9
|
5.81
|
|
Nam Mỹ
|
|
Châu Phi
|
|
Argentina
|
1
|
590
|
0.35
|
0.64
|
|
Algeria
|
2
|
2.760
|
0.7
|
2.98
|
|
Brazil
|
36
|
9.440
|
12.63
|
10.18
|
|
Angola
|
1
|
757
|
0.35
|
0.82
|
|
Chile
|
2
|
2.170
|
0.7
|
2.34
|
|
Eritrea
|
1
|
187
|
0.35
|
|
|
Colombia
|
2
|
2.974
|
0.7
|
3.21
|
|
Ma Rốc
|
11
|
2.044
|
3.86
|
2.20
|
|
Mexico
|
6
|
840
|
2.1
|
0.91
|
|
Nam Phi
|
14
|
1.214
|
4.91
|
1.31
|
|
Tổng:
|
51
|
16.014
|
16.48
|
17.27
|
|
Tổng:
|
29
|
6.962
|
10.17
|
7.51
|
|
Bắc Mỹ
|
|
Châu úc
|
|
Canada
|
2
|
622
|
0.7
|
0.67
|
|
Australia
|
9
|
596
|
3.15
|
0.64
|
|
Hoa Kì
|
37
|
5.081
|
12.98
|
5.48
|
|
Khác
|
17
|
7.534
|
5.96
|
8.13
|
|
Tổng:
|
39
|
5.703
|
13.68
|
6.15
|
|
Tổng trên TG
|
285
|
92.712
|
|
|
Hình 1. Tỷ lệ áp dụng BTĐL theo các hướng khác nhau trên thế giới
|
|
Từ khi ra đời cho đến nay, việc xây dựng đập BTĐL đã và đang phát triển theo các hướng chính [2] :
+ Bê tông đầm lăn nghèo chất kết dính (CKD) (hàm lượng CKD < 99kg/m3) do USACE - Mỹ phát triển dựa trên công nghệ thi công đất đắp;
+ Bê tông đầm lăn có lượng CKD trung bình (hàm lượng CKD từ 100 đến 149 kg/m3);
+ Bê tông đầm lăn giàu CKD: (hàm lượng CKD > 150 kg/m3) được phát triển ở Anh. Việc thiết kế thành phần BTĐL được cải tiến từ bê tông thường và việc thi công dựa vào công nghệ thi công đập đất đắp;
Ngoài ra còn một hướng phát triển BTĐL khác đó là hướng phát triển RCD của Nhật bản (Japannese Roller Compacted Dams), chuyển từ đập trọng lực bê tông thường sang sử dụng BTĐL. Theo hướng này, BTĐL có lượng CKD nằm giữa loại BTĐL có lượng CKD trung bình và loại BTĐL có lượng CKD cao.
Sau hơn 30 năm ứng dụng trên thế giới, công nghệ xây dựng đập BTĐL liên tục được cải tiến cả về vật liệu chế tạo và kỹ thuật thi công. Cho tới nay, đập BTĐL được thi công xây dựng ở nhiều nước thế giới , ở nơi có nhiệt độ môi trường từ rất thấp cho đến rất cao và có thể trong cả những vùng thường xuyên có mưa lớn.
Trước đây, đập BTĐL sử dụng BTĐL nghèo CKD được sử dụng tại một số đập có chiều cao dưới 60m ở Mỹ. Ngày nay, các đập BTĐL được xây dựng trên thế giới chủ yếu sử dụng BTĐL có lượng CKD trung bình và giàu CKD như các nước Tây âu, Trung Quốc, Nhật Bản.
Ngoài việc ứng dụng cho đập, BTĐL cũng được ứng dụng trong xây dựng mặt đường và sân bãi. BTĐL cho mặt đường lần đầu tiên được áp dụng ở Canada vào năm 1976 tại Caycuse trên đảo Vancouver với diện tích tổng cộng 36.000m2. Cho tới nay, hàng chục triệu m2 đường và sân bãi được xây dựng bằng công nghệ BTĐL ở các nước Mỹ, Nhật và một số nước khác. Các công trình mặt đường và sân bãi bằng BTĐL đều cho hiệu quả sử dụng tốt và giảm chi phí bảo dưỡng.
Ngoài việc áp dụng cho xây dựng đập, mặt đường và sân bãi, BTĐL còn được áp dụng được cho các dạng kết cấu khác. Năm 1986 cầu treo lớn nhất thế giới Akashi được khởi công xây dựng tại Nhật Bản. Cây cầu này nối liền đảo Honshu và đảo Shikoku với chiều dài nhịp giữa hai tháp chính 1960m. Đây là công trình đã ứng dụng nhiều công nghệ bê tông tiên tiến như bê tông tự lèn, bê tông đổ trong nước và bê tông đầm lăn. Móng trụ neo cáp của công trình này được thiết kế là bê tông trọng lực khối lớn (hình 4). Để thi công khối móng với khối tích khoảng 200.000m
3 trong thời gian ngắn, công nghệ bê tông đầm lăn đã được lựa chọn áp dụng.
Hình 2. Thi công đập BTĐL bằng xe lu rung
( Beni-Haroun - Algeri)
|
Hình 3. Thi công sân bãi bằng công nghệ BTĐL
|
Hình 4. Cấu tạo trụ neo cáp cầu treo Akashi Kaiyko-Nhật Bản
|
Có thể thấy rằng những dạng kết cấu bê tông có hình dáng không phức tạp và không có cốt thép đều có thể thi công bằng công nghệ bê tông đầm lăn. Khối đổ bê tông càng lớn, áp dụng công nghệ này càng hiệu quả.
|