Hi-đồng Giáo-hoàng "Công -ý và Hoà-bình"


B- Hướng đến việc giải trừ chống đói



tải về 0.61 Mb.
trang10/15
Chuyển đổi dữ liệu27.02.2022
Kích0.61 Mb.
#51028
1   ...   7   8   9   10   11   12   13   14   15
f 1522850011
SINH 11, DannhapvaoGHXHCG, BLANK, Danh mục tài liệu mới tháng 6 năm 2022
B- Hướng đến việc giải trừ chống đói

Mặc dù vẫn chân nhận có sự đối nghịch về mặt học thuyết, Đức Gioan XXIII đã có công bỏ đi những lối nói xung khắc để mở ra một con đường mới, vượt lên trên mối căng thẳng đối đầu giữa người tín hữu và người chủ trương thuần trần tục đang chia rẽ thế giới Tây phương một cách sâu xa.

Ngài cho rằng có một sự khác biệt giữa giáo thuyết nền tảng Kitô giáo và lối giải thích của thế giới tân kỳ về một số các giá trị; nhưng Ngài không nghĩ là phải để cho sự khác biệt đó chi phối toàn bộ cuộc sống xã hội đến độ mà học thuyết xã hội của Giáo hội chỉ còn là một mớ lý thuyết, không có cơ may nào đưa vào áp dụng cho đời sống chính trị được. Đức Gioan XXIII chủ trương rằng nếu mỗi bên biết chấp nhận hợp tác vì lợi ích chung bằng cách cố gắng kiểm điểm lại những xác quyết của mình và những thái độ bất chấp không cần biết đến những nổi khắc khoải của kẻ khác, thì sự việc trở nên tốt đẹp hơn nhiều.

Thay vì khởi đầu bằng những ý niệm trừu tượng nêu cao chân lý mà mọi người thiện chí phải tuân phục, Ngài đề nghị bắt tay xây dựng một xã hội chính trị của những con người, dựa trên sự kiện mà Đức Phaolô VI lặp lại, là tất cả mọi người hôm nay đều biết mình là một nhân vị không thể nào bị xúc phạm, bình đẳng, có trách nhiệm, khao khát đi tìm chân lý để từ chân lý kiến tạo hoà bình. Đức Gioan XXIII xem nỗi khắc khoải tìm kiếm chân lý đó là luật của lương tâm; vâng theo lương tâm là một bổn phận đòi buộc mỗi người phải thực thi, và vì thế mỗi người phải đòi hỏi xã hội dân sự nhìn nhận quyền được theo tiếng lương tâm, và buộc những người khác tôn trọng các quyết định của mình về phương cách mình chu toàn tiếng nói ấy . Sự hiểu biết về con ngườì và nhân cách của nó do bất kỳ ai có tôn giáo hay không tôn giáo, đều cống hiến được một yếu tố chung nơi mọi người và trong bất cứ một hệ thống, chế độ nào; yếu tố đó là sự hiện hữu của sự tự do có trách nhiệm; và bất cứ một quốc gia nào, dù có thể chọn hình thức điều hành thế nào đi nữa, thì cũng phải cũng cố sự tự do có trách nhiệm nầy.

Quan điểm mới mẻ nầy đã được nêu lên trong Thông điệp Pacem in Terris, nhấn mạnh rằng mọi người đều có được lương tâm và như được sắp xếp để cư xử trong cuộc sống đúng theo điều mà họ cảm nhận là chân lý; đây là một cơ cấu gắn liền với mọi người, và vì cơ cấu đó đã định vị con người như thế, nên nó là căn nguồn của các quyền:

"Mọi người có quyền được tôn trọng, bảo vệ thanh danh, tự do tìm kiếm chân lý, trong việc diễn tả và phổ biến tư tưởng, trong sự sáng tạo nghệ thuật, theo đúng các yêu sách của trật tự đạo đức và lợi ích chung; và cũng có quyền được thông tin khách quan".

Dựa trên nguyên tắc do bẩm sinh của con người như thế, xác quyết về quyền tự do tôn giáo có thể phát biểu như sau:

"Mỗi người có quyền thờ phượng Thiên Chúa theo luật công chính của lương tâm và thực thi công khai tôn giáo mình trong đời sống tư nhân cũng như công cộng".

Như vậy ta thấy nghĩa vụ của cá nhân phải hành động theo chân lý mình biết được là nền tảng của mọi cuộc sống xã hội. Sự kiện đó hàm ngụ hai điều: Không được cưỡng bức cá nhân đi theo một lập trường trái nghịch với ý họ; và "phải tôn trọng sự tự do và tự chủ nầy" (Hồng y Bea).

Người ta có thể chống báng quan điểm nầy sợ rằng nó sẽ lôi kéo xã hội vào tình trạng hỗn loạn, vì lớp người mưu toan cổ suý những ý tưởng chống xã hội không thiếu. Về quan điểm nầy, Bản Tuyên ngôn về nhân phẩm (Dignistatis Humanae) của Công đồng minh định rõ ràng, bằng cách nêu lên rằng mệnh lệnh của lương tâm là một yếu tố cấu thành bản tính con người; tự do chọn lựa không có nghĩa là chướng khí bất chừng, nhưng là trung thành với cơ cấu làm nên toàn bộ bản tính người của mình, nghĩa là một hữu thể có lý trí và tự do. Đức Hồng y Pietro Pavan bình luận về nội dung nầy như sau: "Tự do là phương pháp hành động đặc loại của hữu thể con người xét nó như là một nhân vị". Và từ quan điểm nầy, có thể rút ra hệ luận về bản chất của mối tương quan nối kết một chế độ chấp nhận tự do tôn giáo, và cơ cấu pháp lý của một quốc gia trong hoàn cảnh chế độ đa nguyên hiện nay. Trong việc đưa ra một lối phê phán về giá trị triết học hay tôn giáo nơi các dư luận của người công dân, Nhà nước không có thẩm quyền gì hơn so với việc thẩm định giá trị thẩm mỹ của một tác phẩm điêu khắc hoặc một bản nhạc; nhưng Nhà nước lại có nghĩa vụ phải làm sao để sự tự do phê phán của mỗi người được tôn trọng. Lối đặt vấn đề như thế vượt qua được lối phân chia truyền thống của Tây phương thành quốc gia có tôn giáo riêng và quốc gia chống giáo sĩ trị; đồng thời nó còn tìm được một cơ sở cụ thể để biện minh qua các kinh nghiệm của Nước Hoa Kỳ, một xứ đã từng biết cách tổ chức cuộc sống xã hội - chính trị bên ngoài sự xung đột tôn giáo - trần tục.

Những cuộc thảo luận trong khuôn khổ của các hiệp ước Helsinki đã được thực hiện nhằm tạo lập các nền tảng sống chung giữa các dân tộc có những hệ thống kinh tế và xã hội khác nhau. Bản Tuyên ngôn được gọi là Tuyên ngôn về Tự do Tôn gìáo do Liên Hiệp quốc biểu quyết năm 1981 là một nổ lực đầu tiên của Cộng đồng quốc tế nhằm đề nghị khuôn khổ pháp lý giúp cho các dân tộc có thể tôn trọng những tín ngưỡng của nhau . Tuyên ngôn ấy đánh dấu mức độ mà lương tâm nhân loại trong lãnh vực nầy đã vươn tới được; nó mở ra những chân trời mới.


tải về 0.61 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   7   8   9   10   11   12   13   14   15




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương