Hồi Ký Hà Nội 2008


Chương XXII: Dương Thu Hương



tải về 3.53 Mb.
trang20/23
Chuyển đổi dữ liệu01.12.2017
Kích3.53 Mb.
#34905
1   ...   15   16   17   18   19   20   21   22   23

Chương XXII: Dương Thu Hương


Tôi không nhớ rõ đã quen Dương Thu Hương từ bao giờ. Có lẽ từ hồi


chị học trường viết văn Nguyễn Du chăng (1981)?. Tôi được mời dậy trường
này mấy khoá đầu. Dương Thu Hương học khoá một cùng với Ngô Thị Kim
Cúc, Lâm Thị Mỹ Dạ, Lê Thị Mây, Hữu Thỉnh, Chu Lai, Nguyễn Khắc
Trường... Hôm làm lễ bế giảng, chị mặc áo dài trắng, khoác tay tôi cho Hoàng
Kim Đáng chụp. ấy là năm 1982.
Dương Thu Hương là một phụ nữ có tính cách rất dữ dội và ngang
tàng.
Tôi nhớ trong một cuộc họp rất đông văn nghệ sĩ nghe Hoàng Tùng nói
chuyện, ở câu lạc bộ báo chí xế xế Nhà hát lớn. Có lẽ nghe chán quá, nhiều
người bỏ xuống tấng trệt giải khát. Giữa chỗ đông người, Dương Thu Hương
nói lớn: “Trừ anh Hoàng Ngọc Hiến là thày tôi, anh Nguyễn Đăng Mạnh là
người tôi kính trọng, còn tất cả bọn phê bình đều là dòi bọ. Riêng Phan Cự Đệ
là con chó ngao”.
Hồi tôi còn ở nhà B10, khu tập thể Đồng Xa, chị có đến vài lần. Một lần
chị đến với đạo diễn điện ảnh Tiến. Tôi đi vắng. Khi về, thấy có một mảnh giấy
gài ở cửa, ghi mấy chữ: “Em đến anh cùng với Tiến để trao đổi về tác phẩm của
nhà văn trâu bò của chúng ta (tức cuốn Người đàn bà trên chuyến tầu tốc hành
của Nguyễn Minh Châu, chị muốn chuyển thành kịch bản phim). Rất tiếc, anh
đi vắng. Ngày mai em lại đến. Nếu anh không có nhà thì cái trường Đại học Sư
phạm của anh sẽ bị đốt”.
Hồi chị viết Bên kia bờ ảo vọng, ban đầu đưa đến nhà xuất bản Lao
động. Lúc ấy Ma Văn Kháng làm giám đốc. Kháng ngại không in, có lẽ vì sợ
đụng đến Nguyễn Đình Thi. Chị đưa cho nhà xuất bản Phụ nữ và được chấp
nhận. Trên đường đi về, tình cờ chị gặp Ma Văn Kháng và một anh nữa cũng ở
Nhà xuất bản Lao động. Họ đi xe đạp ngược chiều nhau. Dương Thu Hương gọi
hai anh kia đỗ xe lại và nói dõng dạc: “Này hai thằng mặt dày, sách của tao in
rồi!”.
Trong một cuộc hội thảo khoa học kỷ niệm 35 năm văn học cách mạng
(1980), Dương Thu Hương lên diễn đàn, chị phát biểu “Đôi điều suy nghĩ về
nhân cách của người trí thức”, phê phán nhiều văn nghệ sĩ tư cách rất hèn. Chị
cũng phàn nàn về đời sống nhà văn. Chị nói: “Viết một tác phẩm rất khó nhọc
mà nhuận bút thấp. Nếu tôi không say mê văn chương thì tôi đi làm thợ may hay
bán bánh rán còn sống tốt hơn. Cả hội nghị đói, anh nào cũng mặt xanh nanh
vàng cả. Ta có quá nhiều nhà thơ và anh hùng mà thiếu người làm kinh tế...”
Lại nhớ một lần tôi cùng Dương Thu Hương, Hoàng Ngọc Hiến,
Nguyễn Văn Hạnh được trường Đại học Sư phạmViệt Bắc mời nói chuyện.
Hôm Dương Thu Hương đăng đàn diễn thuyết, tôi có đến nghe. Chị vừa nói vừa
đi đi lại lại rất hiên ngang. Tôi nhớ loáng thoáng, mở đầu chị phê phán Hồ Chí
Minh: “Năm điều bác Hồ dạy, không nói yêu cha mẹ nên bây giờ trẻ con hư
hỏng hết.”
Lúc đó có một anh cán bộ giảng dạy đứng lên hỏi, đại khái, có phải tác
phẩm nào đấy của chị là kết quả của chuyến đi thực tế ở đâu đó không? Chị
mắng luôn anh cán bộ nọ: “Lẽ ra tôi không thèm trả lời. Việc gì tôi phải đi thực
tế! Chỉ có bọn cán bộ lãnh đạo quan liêu mới phải đi thực tế chứ! Chính tôi là
thực tế, còn phải đi đâu?”
Có một lần tôi đến Dương Thu Hương lúc chị còn ở Ngô Thì Nhậm.
Chị nói, ông Đỗ Mười có sai một anh thư ký đến mời chị đến gặp. Chị trả lời :
“Ông Đỗ Mười hay Đỗ mười một muốn gặp tôi thì đến đây mà gặp”.
Tôi và Dương Thu Hương có một cuộc dong chơi có thể gọi là một
cuộc “bát phố” Hà Nội rất thú vị. Từ Ngô Thì Nhậm, chị rủ tôi đi bộ. (Dương
Thu Hương rất cảnh giác, không đi xe đạp, không đi xe máy, sợ bị thủ tiêu).
Chúng tôi cứ đi lang thang từ phố này sang phố khác. Thỉnh thoảng chị lại chỉ
nhà này nhà nọ, hỏi tôi: “Anh có biết nhà ai đây không?”. Tôi không biết. Chị
nói: “Cớm đấy!” Theo chị, Trần Quốc Vượng, Phạm Hoàng Gia cũng là cớm.
Đi mãi, mỏi chân, chúng tôi vào ăn ở một cái quán ven đường Trần Quốc Toản
chỗ giáp Trần Bình Trọng. Ăn xong, tôi rủ Dương Thu Hương đến nhà Văn
Tâm chơi. Văn Tâm ở Phan Bội Châu, gần đấy. Hương nói: “Văn Tâm là thằng
khốn nạn, không đến!”. Tôi ngạc nhiên nói, Văn Tâm không phải thế đâu, cũng
là người tử tế. Chị nói: “Thôi được, đã là bạn của anh thì đến cũng được”.
Văn Tâm hôm ấy hơi mệt, vào thấy đang nằm trên giường. Vợ chồng
Văn Tâm thấy Dương Thu Hương đến thì cảm động lắm, vội vàng tiếp đón
niềm nở.
Nhìn thấy bức tranh Lưu Công Nhân vẽVăn Tâm treo trên tường, tôi
nói: “Tranh của Lưu Công Nhân”. Dương Thu Hương nói “Lưu Công Nhân là
thằng khốn nạn!”. Từ Đà Lạt, nó dám viết thư gọi: “Em vào đây với anh –
Thằng khốn nạn!”
Chị Cam, vợ Văn Tâm nói: “Chị uống ca cao nhé!”
Dương Thu Hương : “Không, uống cà phê”
Chị Cam: “Cà phê chúng tôi cũng có nhưng để bị hả mất rồi!”
Dương Thu Hương : “Thì ra ngoài phố uống!”.
Vợ chồng Văn Tâm phải nài khéo chị mới ở lại.
Bỗng Dương Thu Hương chỉ mặt Văn Tâm nói: “Anh là thằng khốn
nạn!”
Văn Tâm ớ người, không hiểu sao.
Dương Thu Hương giải thích: “Anh làm thầy dùi phá đám cuộc tình
của Cao Xuân Hạo và Phương Quỳnh phải không? (Lúc này Dương Thu
Hương còn chơi thân với Phương Quỳnh).
Văn Tâm phân trần: Anh không hề can thiệp gì đến cuộc tình ấy. Thậm
chí anh còn cho đấy là mối tình đầu tiên thật sự là tình yêu của Cao Xuân Hạo.
Chẳng qua là vợ Hạo trong Nam doạ sẽ thuê bọn voi xanh voi đỏ ra phá tan nhà
Phương Quỳnh, vì thế họ phải chia tay.
Dương Thu Hương không nói gì nữa.
Đấy khẩu khí của Dương Thu Hương là như vậy. Thế mà khi đến nhà
tôi, vợ tôi thấy chị có vẻ rất hiền. Cười rất tươi.
Tính cách Dương Thu Hương như vậy, nên viết văn cũng dữ dội lắm.
Hồi ấy tôi viết bài Những phiên toà của Dương Thu Hương (1986) là muốn diễn
tả cái chất văn quyết liệt ấy. Chất văn này mà được phát huy trong thể văn bút
chiến, tranh luận thì phải biết! Sau này quả là chị đã trở thành ngòi bút chính
luận rất sắc sảo. Sắc sảo hơn văn tiểu thuyết. Chính Dương Thu Hương cũng
không đánh giá cao văn tiểu thuyết của mình. Có lần chị nói với tôi: “Văn của
em là văn cải lương, anh đọc làm gì!”. Dương Thu Hương rất có ý thức viết
văn không vì mục đích văn chương mà vì mục đích chính trị, mục đích chiến
đấu cho lợi ích dân tộc, cho chân lý – chị tuyên bố như thế.
Hồi Dương Thu Hương mới ở tù ra, tôi tình cờ gặp ở quán cà phê vỉa
hè chỗ 51Trần Hưng Đạo. Không hiểu sao chị lại ngồi với một nữ trung uý công
an rất xinh xắn (Dương Thu Hương là nữ mà lại mê những cô gái đẹp). Đối với
những người có liên quan đến chị mà phải làm việc với công an khi chị bị tù,
chị nghi ngờ tuốt và khinh tuốt, như Đỗ Đức Hiểu (từng dạy chị tiếng Pháp),
Nguyễn Huy Thiệp, cả Nguyên Ngọc và người bạn gái xinh đẹp và thân thiết
của chị là Phương Quỳnh. Chị hỏi tôi: “Này, có phải Nguyễn Huy Thiệp sợ vãi
đái ra phải không?”.
Dương Thu Hương thích nói năng kiểu dân dã, kể cả nói tục. Thích
giọng đời. Không thích giọng văn chương. Coi nhiệm vụ công dân lúc này là
cao hơn nhiệm vụ làm văn.
Nhân chuyện Hoàng Ngọc Hiến nghe Đỗ Chu nói dối đi hội chen về
mà tưởng thật, và chuyện anh dại dột tham gia vào một đảng nào đấy, Dương
Thu Hương gọi Hiến là đồ ngốc, “nếu là đàn bà thì chửa hoàng hàng tỉ lần”.
ở Dương Thu Hương, dường như nói bạo, nói thô, nói tục là để át đi
một cái gì có thực trong lòng là những tình cảm đằm thắm, là sự nhạy cảm về lý
tưởng, do đó tự thấy là yếu đuối. Con người dữ mà thực ra lành. Đốp chát đấy
mà hay nể người. Rất cảnh giác mà lại cả tin. Dễ bị lừa. Thách thức kẻ thù, hiên
ngang đối mặt với kẻ thù, sẵn sàng cô độc giữa bầy sói, nhưng lại cần tình bạn.
Ôi! Tình bạn vô tư, chân thật sao mà hiếm có trên đời, nhất là đối với một cô
gái xinh xắn trên đất Việt Nam này! Cho nên viết văn là nhu cầu tất yếu, là lẽ
sống, để có thể có người tri kỷ mà không có tình dục xen vào. Văn chương là
người bạn vô tư. Dương Thu Hương hay viết về tình yêu - đúng ra là những vụ
án tình. Nhưng trong truyện của chị, xem ra không hề có tình yêu tốt đẹp, được
ngợi ca như là hạnh phúc đời người. Tình yêu trong tác phẩm Dương Thu
Hương, hoặc chỉ là tình yêu ảo vọng của những cô gái ngây thơ và lãng mạn,
hoặc chỉ là thứ “tình chài gái, lừa gái” của những gã Sở Khanh hiện đại.
Dương Thu Hương tuyên bố thoải mái: “Tôi là con đàn bà lại đực
(Còn Nguyễn Khải là thằng đàn ông lại cái)”. Chị thích chơi với bạn trai nhưng
rất ghét những thằng cứ muốn chuyển sang tình yêu nam nữ, như Lê Đạt, Trần
Đĩnh... Khi nhận thấy có biểu hiện như thế, lập tức chị đuổi luôn. Dương Thu
Hương cũng không thích phiền luỵ đến những gia đình mà do chồng có quan hệ
với chị mà vợ chồng lủng củng. Có lần Dương Thu Hương rủ Nguyễn Duy Tiến
(một tiến sĩ toán có giúp đỡ gì đó đối với con hay cháu của chị) đi nhậu cho vui.
Nhưng khi biết vợ Tiến có ý nghi ngờ, ghen tuông, chị cắt luôn, không chơi với
nữa. Riêng tôi và Hoàng Ngọc Hiến vẫn được chị coi là bạn vô tư. Với chúng
tôi, chị có thể nói như nam giới với nhau về thói dâm ô của người này người
khác, như chuyện Hoàng Tùng nửa trên, nửa dưới như thế nào đó...
Một người có vẻ sắc sảo và luôn cảnh giác như thế mà đã nhiều phen
bị lừa... Chẳng hạn chuyên làm nhà làm cửa gì đấy với Lam Luyến, hay chuyện
mua phải thuốc bổ rởm (làm bằng thuốc tăng trọng lợn) bị phù và lở loét khắp
người.
Tóm lại Dương Thu Hương có vẻ giầu nam tính – tính cách mạnh, ăn
nói ngổ ngáo – nhưng thực chất vẫn là một phụ nữ giầu tình cảm và luôn có
mặc cảm của một cô gái trong xã hội Việt Nam với những thành kiến, những
định kiến về người phụ nữ. Ăn nói tạo tợn dữ dội, bốp chát, ngang tàng, đúng là
một cách để che dấu sự mềm yếu của nữ tính và để đối phó với những định kiến
xã hội nói trên. Cho nên chị mới phải “tự thiến” (Uống thuốc diệt dục). Có ba
điều dễ mắc phải và dễ bị lợi dụng, bị vu khống là danh, lợi, tình dục. Danh lợi
chị không thèm. Nhưng tình dục thì phải “tự thiến”.
Dương Thu Hương đã từng có lúc tưởng chỉ còn vất vào nhà xác (uống
nhầm aspirine bị chảy máu dạ dầy). Hai lần uống thuốc tự tử. Lấy phải thằng
chồng vũ phu, bị nó đánh có thương tích (Nguyễn Văn Hạnh nói, có lần Dương
Thu Hương dùng mưu trả thù: lừa chồng chui đầu vào gầm giường nhặt hộ cái
gì đó, rồi lấy gậy quật thật lực).
Dương Thu Hương không dấu tôi chuyện gì. Hỏi gì cũng nói: Hương
sinh ở Thái Bình (quê nội) được một năm thì nhà chuyển đi Bắc Giang, chỗ
giáp Bắc Ninh (Việt Yên). Nhà bị bom, chuyển vào thị xã Bắc Ninh cho đến hết
kháng chiến chống Pháp. Học trường Hàn Thuyên cho đến 1964. Sau đó học
trường lý luận nghiệp vụ Bộ văn hoá. Từng cắn máu tay viết đơn xin đi tuyến
lửa Quảng Bình (1966- 1975). Chín năm ở tuyến lửa. Khi chiến thắng thì vỡ
mộng: lý tưởng vấp phải thực tế đầy tiêu cực, bị phá sản. Những thần tượng bị
sụp đổ. Tự coi như bị lừa dối, chị từ bỏ thơ, xoay ra viết văn xuôi để lên án
những kẻ đã làm vấy bùn lên lá cờ lý tưởng của mình. Từ nay, tất cả đều phải
cảnh giác, chỉ tin ở mình thôi. Chấp nhận sống cô độc, chấp nhận sống giữa kẻ
thù để chiến đấu.
Nhưng thật ra có tin ở một cái gì mới hăng hái chửi bới, phủ định như
thế chứ! Chín năm ấy dẫn đến sự vỡ mộng, nhưng cũng là chín năm rèn luyện
một niềm tin ở mình và cuộc sống.
Dương Thu Hương kể chuyện với tôi, chị lấy phải một thằng chồng thô
bỉ mà mãi không bỏ được. Ông bố là một sĩ quan quân đội rất phong kiến,
không cho bỏ chồng. Ông bắt con phải kiểm điểm chỉnh huấn theo kiểu Tầu,
học được ở Quế Lâm. Con gái lớn mà bắt đứng úp mặt vào tường. Li dị chồng
rồi vẫn thế (Dương Thu Hương thế mà lại là đứa con ngoan, rất sợ bố).
Mãi sau ông cụ mới hiểu ra. Sáng sớm hôm ấy, ngồi đầu giường con
đang ngủ, hút thuốc lào, nhìn con, thương con, ông hối hận. Giờ ông mới hiểu,
do biết thằng rể thực chất là một thằng đểu. Mười bốn năm sống với nó, còn gì
là đời con gái!.
Có lần Nguyễn Tuân mời Dương Thu Hương đến chơi. Chị từ chối, vì
thấy ông ấy kiêu ngạo quá. Nguyễn Tuân nhắc lại. Chị nói: “Cháu chè, thuốc,
rượu, chả biết”. Vậy là Dương Thu Hương không thích quan hệ trên dưới kiểu
gia trưởng. Con người này sinh ra thích bình đẳng, có máu dân chủ.
Dương Thu Hương đặc biệt căm ghét bọn trí thức hèn nhát, trí thức
quý tộc đi Volga mà hèn. Căm ghét khái niệm “đi thực tế”. Bọn quan lại: đi ôtô,
xa thực tế mới cần đi thực tế. Còn nhà văn là phải sống với thực tế cả đời chứ!
Đâu còn loại nhà văn tháp ngà!
Sau khi đi tù về, Dương Thu Hương ở một căn hộ thuộc một chung cư
ở Trung Tự (A8, B17). Sống một mình. Hai con có chồng có vợ, trưởng thành cả
rồi. Chị hay mời tôi với Hoàng Ngọc Hiến (gần đây thêm Nguyễn Thị Bình) đi
ăn, khi ở nhà hàng Phú Gia, khi ở nhà hàng Vân Nam, thường vào dịp đầu xuân
hay sau một chuyến đi nước ngoài về. Chị không muốn có quan hệ với bạn mới,
sợ liên luỵ đến người ta.
Gần đây, Dương Thu Hương luôn tự nhận mình là giặc, và là một
người đàn bà nhà quê, răng đen, mắt toét, mặc váy. Chị nói, dân tộc Việt Nam
thực ra là một dân tộc nông dân. Chị thích văng tục vì đấy là ngôn ngữ nông
dân. Phải nói bằng ngôn ngữ nông dân mới diễn đạt được đích đáng mọi sự thật.
Nhưng Dương Thu Hương là người rất công bằng. Có lần chị được
mời sang Pháp. Một đám Việt kiều ở một tỉnh nào đó mời đến nói chuyện. Bọn
này muốn chị mạt sát Hồ Chí Minh. Nhưng chị vẫn đánh giá Hồ Chí Minh, dù
sao cũng là một nhân vật vĩ đại. Thế là chúng tức tối, có thằng đến khách sạn
doạ đánh chị. Dân Việt Nam là thế, hay bè phái. Mà bè phái thì bất chấp chân
lý, bất chấp lẽ phải.
Hồi ấy nhiều người cứ tưởng Dương Thu Hương ở lại Pháp không về.
Thực ra đúng thời hạn, chị về ngay.
Gần đây, chị lại sang Pháp. Lần này chị chủ trương ở lại. ở trong nước,
bị quấy nhiễu quá, không làm việc được. Có hồi người ta cắt cả điện thoại của
chị.
Viết truyện, Dương Thu Hương thường hay luận về vấn đề hạnh phúc
của những cô gái trẻ. Những cô gái hợm hĩnh và lãng mạn, chẳng hiểu tình yêu
và hạnh phúc là gì, cứ chạy theo những tình yêu mơ mộng và huyền hoặc, để
cuối cùng đánh rơi mất tình yêu và hạnh phúc thực của mình. Dương Thu
Hương từng luận về hạnh phúc như một người đầy trải nghiệm: nó như quân
xúc sắc trong trò chơi. Cần thì không đến. Không cần lại đến. Nhưng nó đến mà
đánh rơi nó, đánh mất nó như chơi. Hạnh phúc phải do chính mình quyết định.
Là ý thức, là hiểu biết, nhưng nó cũng là sự hồn nhiên, chân thực, thật thà, trước
hết với mình. Đừng có dại nghe ai xúc xiểm – vì hạnh phúc chỉ có cá nhân mình
mới hiểu được.
Không rõ Dương Thu Hương tự thấy đời mình thế nào, còn theo tôi,
chị chưa bao giờ có hạnh phúc. Đời người đàn bà như thế là khổ lắm.
Tôi thật sự khâm phục Dương Thu Hương. Cảm phục sự dũng cảm của
chị – sự dũng cảm đã phải trả giá rất đắt: một người yêu đời, rất cần tình bạn và
sự cảm thông, mà phải sống cô độc, một mình chống chọi với cả một Nhà nước.
Tôi cũng thật sự thương Dương Thu Hương, một người đàn bà như thế là khổ
lắm.
Hiện nay Dương Thu Hương đang ở Pháp.
Nghe nói tiểu thuyết Chốn vắng của chị được dịch và Những thiên
đường mù sắp được chuyển thành kịch bản phim.
Xin chúc mừng chị.
Láng Hạ 01.5.2007.

Chương XXIII: Lưu Công Nhân


Tôi quen Lưu Công Nhân từ hồi cùng học với nhau ở trường Trung


học kháng chiến, đóng tại Đào Giã, Thanh Ba, Phú Thọ (vốn là trường Chu Văn
An ở Hà Nội sơ tán lên từ thời kháng chiến chống Pháp).
Hiệu đoàn học sinh có ra đều kỳ một tờ nội san, viết tay.
Tôi hay vẽ vạch lăng nhăng, nên được cử đi trang trí, minh hoạ cho tờ
nội san này. Tôi gặp Lưu Công Nhân cũng đến làm công việc này.
Tất nhiên, không như tôi, Lưu Công Nhân là một tài năng thực sự. Tôi
nhớ anh thường lấy một mẩu cành cây chỉ bằng ngón tay, dùng dao cắt, gọt mấy
nhát, thành ngay một hình người nhỏ xíu xinh xinh.
Tôi với Lưu Công Nhân học cùng một khoá (1947 – 1950). Anh học
ban sinh ngữ, tôi học ban Toán Lý Hoá. Hình như anh đang học dở dang thì bỏ
đi học hoạ, khoá Tô Ngọc Vân.
Bẵng đi từ đó, tôi không lần nào gặp anh nữa, tuy có xem tranh của anh
ở bảo tàng mỹ thuật và biết anh đã là một hoạ sĩ nổi danh.
Sau 1975, tôi thỉnh thoảng có được mời vào dạy cho mấy trường đại
học ở Sài Gòn và Cần Thơ. Biết anh ở Sài Gòn, tôi tìm đến chơi.
Dưới đây, tôi tường thuật lại cuộc gặp mặt đầu tiên của tôi với Lưu
Công Nhân ở Sài Gòn. Anh nói nhiều, nói liên miên. Nên cuộc trò chuyện giữa
tôi và anh hầu như chỉ là một cuộc độc thoại của Lưu Công Nhân.
Tôi nhớ đấy là một ngày đầu năm 1983.
Lưu Công Nhân lúc này ở đường Tự Đức. Nhà hai tầng, rộng rãi và
khá sang trọng.
Tôi chờ đợi một thái độ lạnh nhạt và xem thường của ông bạn cũ. Vì
nghe nói hắn giầu lắm, danh vọng lắm, khinh người lắm. Điều này thì tôi đã có
kinh nghiệm rồi, nên coi như chuyện thường. Nó khinh mình thì cái giá trị thực
của mình thế nào thì vẫn thế thôi. Mà mình trông bộ dạng nhếch nhác thế này
nó khinh cũng là phải. Tôi cứ gõ cửa. Mình vào cốt để xem tranh của hắn, thế
thôi – tôi rất thích hội hoạ.
Nhưng tôi đã lầm. Lưu Công Nhân nhận ra tôi ngay. Hắn rất nhớ bạn
cũ. Hắn đọc nhiều sách lắm. Sách hội hoạ, điêu khắc của Pháp, đọc cả sách văn
học Việt Nam. Có đọc cả nhiều bài viết của tôi. Và cũng biết tôi có cuốn Nhà
văn, tư tưởng và phong cách và nói đang đi tìm mua. Hắn khen tôi viết về
Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng rất khá.
Lưu Công Nhân quả là một tay kiêu ngạo. Xem thường tuốt. Tự coi
mình là một maitre, cỡ quốc tế. Nhưng nụ cười thì rất tươi, hiền và trẻ cách lạ.
Tôi rất thích nụ cười của Lưu Công Nhân. Hắn người cao to. Cởi trần. Quần
đùi. Lưng gù gù, lòng khòng. Nhưng đẹp trai, ăn nói rất thoải mái, hay văng tục.
Mới gặp nhau đã mày tao luôn. Không ngờ Nhân còn nhớ tôi ngày xưa từ dáng
đi đến cả cái áo mặc thời kháng chiến.
Nhân nhận xét Nguyễn Tuân là hám danh ,nên mất cái hồn nhiên, tự
nhiên – nghệ sĩ chân chính phải tự nhiên như ruồi ấy chứ (Nhân hay nói “tự
nhiên như ruồi”). Đằng này kiểu cách, bộ dạng quá. Vào Sài Gòn tại sao phải
tìm đến Trịnh Công Sơn? Mà Trịnh Công Sơn cũng háo danh nốt, nên lấy làm
tự hào lắm.
Nhân chê Nguyên Hồng hèn. Trước Mười Hương, Nguyễn Đức Thuận,
tại sao lại nói năng có vẻ kính sợ quá, bái phục quá, tự hạ nhân cách nghệ sĩ
trước nhân cách chính trị. Đó là hai loại anh hùng, hai sự dũng cảm khác nhau
chứ!
Lưu Công Nhân nói, từng bỏ biên chế năm 1959, lúc biên chế còn đầy
tiền đồ. Phan Kế An sợ không dám, cho là biên chế còn có giá trị lớn trong
tương lai.
- Mình bỏ biên chế – Nhân nói- Đạp xe từ Thanh Hoá lên tận Nam
Quan, rồi từ Nam Quan về, xem kiến trúc thay đổi thế nào. Vẫn cổng chữ môn,
ngói âm dương, căn bản không khác gì. Thế mà càng lên đến gần biên giới,
càng thấy Tầu hơn. Rất lạ!
- Này nhiều thằng đến đây gạ xem tranh của tao. Tao đuổi. Nhưng cho
mày xem. Nào lên đây.
Hắn đưa tôi lên lầu. Tranh các loại treo la liệt. Hắn lại treo thêm lên
mấy bức nữa cho tôi xem.
Có một bức khá to, vẻ lằng nhằng như lửa lan ra tất cả tấm toan lớn:
“Khi bầy tranh nơi công cộng thì tao nói là bắn máy bay Mỹ. Thực ra là mon
rêve”.
Có bức vẽ thuốc nước, một cô gái chở đò ở một kênh rạch miền Nam.
Đẹp. Có tranh vẽ một thiếu phụ bế con. Mấy lá tre, cành tre lơ thơ. Một bức hoạ
mùa đông. Lá bàng đỏ, lốm đốm một chút xanh. Đỏ đúng màu lá bàng úa,
nhưng không rõ lá cành gì hết.
Nhân nói: “Mẹ tao mất, năm bà 82 tuổi – Hắn chỉ một bức tranh, nói:
“Hommage à ma mère. Bức tranh lệ. Nước mắt”. Nhưng tôi không nhìn ra gì
hết.
Một bức ký hoạ còn trên giá vẽ: nhà bè, kiểu nhà sàn, nơi một cái bến
sông của một vùng Hậu Giang, Tiền Giang gì đó.
Một bức sơn dầu lớn, vẽ cảnh chiều thu. Hơi buồn. Một quán tranh bên
đường, cạnh một cái lô cốt của Pháp thời kháng chiến. Cánh đồng lúa xanh tận
chân trời. Tôi thấy đẹp, rất thích.
Lưu Công Nhân còn lấy ra cho xem một số tranh thuốc nước vẽ đường
làng, cổng làng cổ kính và vắng vẻ của miền Bắc. Một số tranh vẽ bò của Lưu
Công Nhân. Nói chung, tôi rất nhạy cảm với cảnh nông thôn ngày xưa. Đẹp mà
buồn. Mà sao rất thương!
Lưu Công Nhân nói liên miên về lịch sử hội hoạ, về hội họa Việt Nam
và thế giới.
- Tranh lợn gà làng Hồ không phải tranh dân gian. Đấy là những
maitre, những artiste vẽ đấy chứ! Diệp Minh Châu tạc sao nổi tượng Phật
nghìn mắt nghìn tay! Đó là anonyme không phải folklore. Tinh thần anonyme là
truyền thống nghệ thuật Việt Nam.
- Nghệ sĩ nó có một cái gì rất tự nhiên. Ăn uống, nước trà, chơi hoa...
rất tinh tế, sành sỏi. Không phải cố làm ra thế, tự nhiên thế thôi. Các cụ ta là
thế. Bây giờ khác rồi. Không có. Dốt. Không ai dạy... Lo cho thế hệ sau quá!
Muốn học vẽ, không có sách mà học. Ăn phở lại cho mùi tầu vào, khó chịu quá,
không có cái tinh tế nghệ sĩ.
- Hội hoạ rất cần có phê bình. Nghệ sĩ đẻ ra phê bình. Phê bình đẻ ra
nghệ sĩ. Nghệ sĩ sáng tạo, phê bình tổng kết ra trường phái này, trường phái nọ.
Và giữa hội hoạ và văn học có ảnh hưởng lẫn nhau.
- Việt Nam không vẽ chân dung. Kiêng. Cho vẽ thì bị thu mất thần. Tàu
có truyền thống này từ lâu đời. Hiện còn để lại một bức tranh về một hoạ sĩ
đang vẽ một cô công chúa hay hoàng hậu gì đó. Một maitre râu dài ngồi vẽ, các
cung tần mỹ nữ xúm xít đứng xem.
Phương Đông không có réalisme kiểu Tây, nghĩa là vẽ giống
naturalisme. Phương Đông không bao giờ chịu nô lệ sự thật. Không chủ trương
vẽ hình xác, muốn truyền lại linh hồn của tạo vật.
Việt Nam không có dessin, vẽ chì than, ký hoạ. Phương Đông không có
esprit documentaire. Phương tây nó triển lãm dessin riêng của một hoạ sĩ và
coi là đã đủ là một phòng tranh rồi. Phương Đông vẽ là vẽ ngay trên lụa, đục
ngay vào gỗ, vào đá.
Thời Phục Hưng, Tây đã chịu ảnh hưởng phương Đông. Do route de
soie, tranh vẽ Tàu đã sang Tây lâu rồi.
Phục Hưng không hề ảnh hưởng tới Việt nam. Việt Nam chỉ chịu ảnh
hưởng tranh của Tây thế kỉ XIX, XX thôi.
Tính dân tộc là bản chất của nghệ thuật. Thằng Tây sang Tàu học lối
vẽ Tàu, dù thành thạo đủ ngón vẫn không vẽ ra được như tranh Tàu.
- Mỗi hoạ sĩ có một univers của nó. Để thể hiện cái univers ấy, nó cần
vẽ cái này, cái kia, dùng chất liệu này, chất liệu khác... Mình coi sơn mài là
quốc hoạ là vô nghĩa. Phê bình theo sujet là không đúng. Hội hoạ phê bình xã
hội khác. Thời Hitler chiếm đóng, palette của Picasso toàn màu tối, sau giải
phóng palette Picasso màu tươi sáng.
- Việt nam xưa thế mà tinh tế: có cái kiến trúc vui (proportion
heureuse). Có kiến trúc buồn. Có kiến trúc nghiêm trang khắc khổ.
- Vừa rồi nó bảo tao khai thành tích để phong giáo sư, phó giáo sư hay
khen thưởng nghệ sĩ ưu tú... Tao không thèm, gửi trả lại giấy tờ ngay lập tức.
Phó chứ đến giáo sư tao cũng coi ra cái gì. Cho đi nước ngoài, bắt làm hộ
chiếu, tao không thèm. Gọi cả nước Liên Xô sang đây tạo dạy cho, việc gì tao
phải đi học Liên Xô.
- Nghệ sĩ là người sáng tạo theo tài năng, sở trường của mình, không
cần biết giá trị đến đâu, thế nào. Nhưng thằng Critique thì phải làm công việc
đánh giá, xếp hạng theo vị trí của mỗi nghệ sĩ trong lịch sử nghệ thuật. Cần có
một cuốn Nhà văn, tư tưởng và phong cách trong hội hoạ. Mày làm được đấy.
Mày đi vào nghệ thuật hội hoạ đi. Hiện nay trong hội hoạ toàn thằng ngu,
không có chữ.
Mày cứ viết luôn về cái rencontre của mày với Lưu Công Nhân cũng
thành một bài có giá trị đấy. Hai maitre gặp nhau.
Nhân nói đến đó thì có một người đến nhờ vẽ bìa sách. Nhân lấy chì
sáp viết thoắng một chữ , rồi lấy bút lông chấm mực vạch đè lên trên mấy nét.
Xong rồi, nói:
Thế mà người ta khen đẹp đấy và tới tấp đến nhờ tao vẽ bìa.
Thấy đã muộn, tôi đứng lên, đi về. Lưu Công Nhân nói: “Phải có
équipe, có bè, có cánh, có thế. Thí dụ, Hoàng Ngọc Hiến bị đánh thì có Nguyễn
Tuân lên tiếng bênh vực. Và phải có giới thiệu nhau, bình luận sáng tác của
nhau.
Nhớ lại ngày xưa, đã có lúc tôi định xin học hoạ. Nếu học thì cũng
cùng một khoá với Nhân và trở thành đồng nghiệp của hắn. Không biết số phận
sẽ ra sao!.
* *
*
Sau cuộc gặp gỡ đầu tiên ấy, thỉnh thoảng vào Sài Gòn, tôi lại đến Lưu
Công Nhân chơi.
Mấy năm nay hắn yếu đi nhiều. Bị chứng run, gọi là bệnh liệt rung
(parkinson). Chân tay run rẩy, đi đứng khó khăn.
Nhưng hắn vẫn vẽ. Hắn tặng tôi một tập tranh, chỉ đề mấy chữ: vẽ, vẽ,
và vẽ...
Hôm ấy, tôi đến Nhân. Đâu vào đầu năm 2002. Hắn nói, nhiều khi
đứng mãi mà không nhấc chân đi được. Tay run. “Nhưng tao vẫn vẽ. Renoir vẽ
cho đến lúc chết. Lão bị goutte, không vẽ được, người ta phải buộc bút vẽ vào
tay, vào chân để vẽ.
Các thế hệ hoạ sĩ thường kỵ nhau. Renoir nổi tiếng trước Matisse.
Matisse khi nổi danh đem tranh đến cho Renoir xem, Renoir chê không ra gì.
Picasso cũng thế, không chấp nhận thế hệ sau mình.
Mình sang Balan, có một tay hoạ sĩ hỏi, ở Việt Nam có phê bình hội
hoạ không. Tao bảo có rất ít. Tay hoạ sĩ Ba Lan nói, thế là hạnh phúc. ở Ba
Lan, một hoạ sĩ có hàng trăm thằng phê bình. Sợ quá ! Khổ quá! Có ít phê bình
là hạnh phúc đấy!”
Lưu Công Nhân cho dân tộc Việt Nam bao giờ cũng mô phỏng nước
ngoài, xưa là Tầu – kể cả tranh khắc gỗ làng Hồ hay Hàng Trống cũng chịu
ảnh hưởng Tầu (đấy là những maitre vẽ chứ không phải dân gian). Sau này bắt
chước Tây, bắt chước Mỹ. Việt Nam không có création hoàn toàn. Bắt chước
không đạt tới nơi, thì thành bản sắc Việt Nam, thành hồn Việt Nam. Trong đầu
mỗi hoạ sĩ Việt Nam thế nào cũng có một mẫu ngoại quốc. Nhưng khác ngoại
quốc là có cái hồn Việt Nam.
Lịch sử hội hoạ Việt Nam không phải bắt đầu từ khi có trường Mỹ
thuật Đông Dương mà có từ tranh khắc gỗ vẫn gọi là tranh dân gian. Thực ra
đó không phải là dân gian mà là hoạ sĩ hẳn hoi, phải làm bản vẽ ngược lên gỗ
mới khắc được thành bản in chứ.
Tầu nó khắc ngà voi rất nhiều lớp lồng vào nhau rất tinh vi. Ta không
bắt chước được. Còn thì bắt chước tuốt: kiến trúc, chạm gỗ, ngói âm dương,
tượng Kim Cương, phật Quan Âm...
Trẻ con vẽ là hoạ trẻ con. Không nên cho trẻ con vẽ đã là có năng
khiếu. Phải trưởng thành mới biết. Vì vấn đề là mắt, không phải là trí óc như
Văn, Nhạc. Thần đồng không có ở hội hoạ. Lớp trẻ bây giờ không có ngoại ngữ,
không phát triển được. Phải tiếp xúc với nước ngoài mới mở rộng được tầm
mắt...
Lưu Công Nhân nói liên miên. Vả lại tôi có biết gì về hội hoạ đâu mà
nói. Cho nên vẫn chỉ có một thằng độc thoại. Mà hắn thì chỉ cần có một đối
tượng nào đấy để trút ra những suy nghĩ của mình.
* *
*
Mấy năm nay. Tôi không có dịp gặp Lưu Công Nhân lần nào nữa. Hắn
không còn ở Sài Gòn mà đã lên Đà Lạt. Nghe nói ở đấy, hắn có một biệt thự rất
đẹp.
Mùa xuân năm nay, tôi vào Sài Gòn, bỗng được tin Lưu Công Nhân
mất. Buồn vô cùng. Cứ thấy hụt hẫng, trống vắng thế nào!
Nhớ lần gặp gỡ đầu tiên của chúng tôi ở Sài Gòn, Nhân có ý muốn tôi
ghi lại cuộc trò chuyện hôm ấy.
Nguyện vọng đó của Nhân, tôi đang thực hiện đây.
Tiếc rằng Nhân chẳng còn sống để mà đọc!
Quan Hoa, cuối thu năm 2006
Sài Gòn cuối xuân năm 2007.


tải về 3.53 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   15   16   17   18   19   20   21   22   23




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương