Chuyện phiếM ĐẠO ĐỜi tập VI nhà xuất bản hội nhà VĂn cùng một tác giả


“Năm xưa, khi tôi bước chân ra đi,”



tải về 2.12 Mb.
trang2/25
Chuyển đổi dữ liệu23.08.2016
Kích2.12 Mb.
#26243
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   25

3. “Năm xưa, khi tôi bước chân ra đi,”

Đôi ta cùng đứng bên hàng tường vi.



Em nói rằng em sẽ chờ đợi tôi,

Đừng nói tiếng phân ly.”

(Hoàng Quý – Cô Láng Giềng)


(1Cr 6: 19)

Lại nói thêm một lần nữa, “Em” đây vẫn không là “Em” của tôi, khi em nói: “Em sẽ chờ”. Và tôi đây, cũng chẳng là đấng bầy “tôi” hôm nay, đâu đấy nhé! Bởi giờ đây, hôm nay, “tôi” đây cũng đã khác nhiều. Khác, là bởi vì: bây giờ tôi đã biết. Biết rằng:


“Tan mơ, trời xuân đôi môi thắm.

Đôi mắt nhung đen màu hạt huyền.

Làn tóc mây chiều cùng gió ngàn, dâng sóng.

Tan vỡ cuộc tình duyên.”

(Hoàng Quý – bđd)
Một lần nữa, lại thêm câu nói: đôi mắt của tôi đây, vẫn cứ “nhung đen mầu hạt huyền”, thật rất đúng. Thật hơn nữa, cả vào lúc: “tan mơ, trời xuân đôi môi thắm”. Cả vào khi “tan vỡ cuộc tình duyên.” Tình của tôi. Của em. Của mọi người, rày có vỡ tan/tan vỡ vì toàn thân tôi/thân em, nay cũng khác. Khác xưa, rất nhiều. Khác, cả một nỗi: người người vẫn nhìn tôi/nhìn em suốt nhiều hồi, cũng đâu nhận ra. Bởi, tôi và em, nay xem ra thế nào ấy. Bởi, toàn thân em/thân tôi bây giờ cứ lủng lẳng những khoen vàng vòng xanh trắng. Có “vân cẩu” vần vũ, với trăng sao. Bởi, mình tôi/mình em và mình người trẻ bây giờ, những đeo mang đủ mọi hình thù, khiến người nghệ sĩ khi xưa lại hát thêm:
“Hôm nay, trời xuân bao tuơi thắm,

Dừng gót, phiêu linh về thăm nhà.

Chân bước, trên đường đầy hoa đào rơi.

Tôi đã, hình dung nét ai đang cười.”

(Hoàng Quý – bđd)
Nét ai đang cười. Người có cười, đâu phải vì họ muốn hân hoan, chào đón một ai đó. Dù người đó, có là em. Mọi người cười, có thể vì vẫn nghĩ: tôi và em, nay như thể từ hành tinh nọ chợt bay đến. Mọi người cười, có thể vì hôm nay, vẫn nghe hát:
“Cô láng giềng ơi!

Nay mối duyên thơ đành đã lỡ rồi.

Chân bước xa xa dần, miền quê.

Ai biết cho bao giờ, tôi về...”

(Hoàng Quý – bđd)
Vâng. “Nét ai đang cười” mà tôi “hình dung (được)”, có thể là nét của em. Của, cô láng giềng ngày xưa ấy, cũng rất quen. Có thể là, của cộng đoàn buổi xa xưa thời tôi sống, nay mỗi người mỗi vẻ, vẫn cứ nhìn tôi/nhìn em bằng dáng vẻ xót xa. Cách biệt. Dị kỳ. Dị và kỳ, đến độ bạn bè gặp lại ai cũng hỏi. Cũng đưa ra một nhận định, như bạn Đạo nọ đã thẳng thắn phát biểu một cách công khai, như sau:
“Mấy năm gần đây, tôi thấy nhiều người lạ cũng như quen, dám cả gan vi phạm chốn “đền Chúa Thánh Thần”, rất trân trọng. Điều tôi muốn nói, là: ý chừng thiên hạ nay chẳng còn coi truyền thống đạo đức ra trò trống gì hết. Cái gì mà: trên mình họ, cứ “tòong teng” đủ mọi thứ. Nhìn thật kỹ, lại thấy có người còn vẽ đủ mọi hình thù xanh/đỏ, coi rất chướng. Vẽ thế rồi, lại còn phô trương khu vực kín đáo của thân mình có hình thù kỳ dị cho mọi người coi, thế có chết không. Hỏi ra mới biết, đó là nét “xâm mình” mà họ cho là tuyệt phẩm nghệ thuật, ở trên người. Thú thật, bản tôi cứ phải kêu lên: nghệ thuật đâu không biết, riêng tôi vẫn nghĩ là: các vị này vô hình chung đã đụng chạm vào truyền thống đạo đức nhân vị, của con người. Mà, một khi đụng chạm như thế, trước sau gì cũng sẽ bị Trời Phật quở mắng/trách phạt, cho coi. Vậy, ai có con có cháu vẫn đua đòi theo kiểu Tây/kiểu Mỹ, hãy coi chừng kẻo chúng sẽ xa rời lẽ Đạo.” (Phát biểu của một chị đạo đức rất Vêrônica trong buổi họp bàn chuyện nhân gian, sau giờ kinh tối lần hạt chung)
Là buổi họp mặt góp ý sau kinh tối, nên các vị nói ở đây có nhiều thứ để kể cho nhau nghe. Có vị nọ, có dáng dấp rất trí thức, đã xin mọi người quay về giòng lịch sử xưa cũ để xem xét những chuyện dễ có khunh hướng chạm vào truyền thống đạo đức của Đạo mình, ngõ hầu mọi người được yên tâm. Vị ấy bảo rằng:

“Tập tục vẽ hình trên thân thể, người xưa gọi là “xâm mình”, có từ thời cổ sử. Tôi nhớ, vào năm 1991 người dân ở nước Ý và Áo Quốc gì đó đã tìm ra một xác đông lạnh nằm trên núi tuyết có lịch sử lâu đời đến 3,300 năm trước Công nguyên. Trên thân xác người này, các nhà khảo cổ tìm thấy những hình xâm vân cẩu, rất lạ kỳ. Ở giữa hình, có cây thập tự với 6 đường cắt ngang. Có đường, dài tới 15cm.


Nhiều nhà khảo cổ khác cũng đã tìm ra ở Ai Cập, một số xác ướp có niên đại lên tới cả 2000 năm trước công nguyên, nữa. Ngay ở Ai Cập vào thời cổ sử, người ta cũng tìm ra xác của những người bị giam giữ có khắc tên của vị thần hoặc chữ Pha-ra-ô mà họ sùng bái.
Người Do thái cũng có một số tập tục liên quan đến chuyện sùng bái phụng thờ ngẫu thần của ngoại giáo. Cũng có tập tục rất lạ, không theo tập tục hoặc đạo đức của Do thái giáo. Vào thời Môsê, luật Do thái ngăn cấm chuyện vẽ hình lên thân xác con người nữa. Bản tôi có người bạn theo Tin Lành, một hôm, trong lúc đề cập đến chuyện này, anh ta nói với tôi là anh đọc sách Lêvi thấy có đoạn viết như sau: “Ngươi không được phép để những dấu cắt trên da thịt người chết hoặc có hình vẽ khó coi, trên thân xác của ngươi. Ta là Giavê Thiên Chúa nói với người điều đó.” (x. Lv 19: 28)
Chả là, câu chuyện bàn về những điều lạ trong thói quen giữ Đạo ngày hôm nay, nên bà con trong cuộc xem ra thấy quá hấp dẫn, bèn góp giọng cho vui, như sau:
“Theo tôi, con người được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa. Bởi thế, nên không ai được phép vẽ hình gì, dù chỉ một thánh giá nhỏ trên thân xác của mình hết. Nói cách khác, không chỉ mỗi hồn người được Chúa tạo dựng giống hình ảnh của Ngài thôi, mà cả thân xác mình nữa. Nếu con người là hình ảnh của Thiên Chúa, thì bọn mình lại càng phải tôn kính hình ảnh lành thánh ấy nữa chứ!”
Nghe chuyện, một nữ lưu ra chiều am hiểu nhiều truyện được viết trong Kinh thánh, đã tham gia ý kiến, như sau:
“Đọc Sách thánh, tôi nhớ một đoạn trong đó thánh Phaolô viết cho bổn đạo của ngài rằng: Anh em có biết rằng thân xác của anh em là đền thờ Chúa Thánh Thần ngự, hay không? Và anh em có được thân xác này, là do ân huệ Chúa ban không? Nếu vậy, anh em phải làm sáng danh Chúa bằng thân xác rất đáng kính trọng của mình chứ!”
Tham dự buổi đọc kinh tối hôm ấy, bần đạo chẳng dám đưa ra ý kiến nào hết, sợ mọi người cho rằng mình chẳng biết gì mà cũng thưa thốt, bởi thế nên hôm ấy thắng bé cứ là “dựa cột mà nghe”, thôi. Hẹn rằng, khi về nhà sẽ nghiên cứu thêm cho rõ, rồi sẽ hạ hồi tính lại. Nay nghiên cứu tuy chưa kỹ, bần đạo cũng đã biết, rằng: ở một số nước, tục lệ cắt da/xỏ thịt trên tai hoặc trên môi; hoặc tục vẽ lên thân người mình, là cách làm cho thân xác mình đẹp hơn lên. Có thể là, với nền văn hoá khác, những thứ ấy là để nói lên chức vụ/địa vị của người xâm/xỏ trong xã hội nhỏ của mình, mà thôi.

Đằng khác, nhiều nơi cũng có y hệt một tập tục giống như thế. Họ làm thế, là cốt ý chống đối chuyện gì đó vẫn có, trong phong tục/tập quán của dân tộc. Nhiều nơi, nhiều bộ tộc, vẫn giữ tục lệ cắt da/xỏ thịt, để chứng tỏ cho mọi người biết lòng can đảm của họ. Hoặc, người ấy chỉ muốn thề nguyền sẽ tuân thủ điều gì đó, trước mặt thần linh mà họ sùng bái. Có người làm vậy, là do tật bạo dâm/khổ dâm, thôi. Nói cách khác, đó cũng chỉ là thói tục rất khác người, và khác đời, ít khi thấy.


Có người còn duy trì phong tục/tập quán của bộ tộc, cứ thích vẽ lên người những hình thù quái đản, ghê rợn như hình quỷ hình ma, đầu lâu thần chết, hoặc cả đến hình thù Satan quỷ dữ, nữa. Nhất nhất, chỉ để chứng tỏ rằng họ không chịu thuần phục Thượng Đế hoặc vị thần dân tộc, mà bộ tộc cứ muốn du nhập vào xã hội.
Nhiều tập tục của Tây phương còn tiến bộ đến độ xâm/xỏ nhiều nơi trên mặt trên mũi, trên mí mắt/miệng lưỡi, thậm chí cả những nơi thầm kín trên thân xác mình nữa. Có người lại cho đó là cung cách để phô bày nét độc đáo, mới lạ của mình. Họ muốn những gì thật khác người, dù hình thù ấy có dị hợm lạ kỳ đi nữa, cũng chẳng sao! Có vị lại muốn tỏ ra là mình có tự do. Vẫn làm chủ thân xác mình. Như muốn bảo với mọi người rằng: tôi muốn làm gì thì tôi làm. Làm, trên thân tôi chứ có xâm phạm thân mình của ai khác đâu mà sao cứ thắc mắc. Ai không thích, xin đi chỗ khác chơi, nhờ bạn tí!
Đành rằng, mỗi người mỗi ý. Nhưng nói cho cùng, cũng nên quan tâm đến sức khoẻ của mình và của người chứ! Có loại xâm/xỏ trên mặt/mũi hoặc bộ phận nào khác trên thân xác, dễ gây nguy hiểm cho sức khoẻ. Đâu phải cứ xâm/xỏ cho thoả thích, để rồi khi nào chán sẽ bôi bỏ, cũng dễ thôi. Có trường hợp, chủ nhân muốn bôi bỏ hình thù xâm/xỏ đã chết dí trên thân mình, lúc đó có không thích nữa, cũng quá trễ. Bởi có bôi bỏ cách nào đi nữa, cũng sẽ để lại vết sẹo hoặc phản ứng phụ, rất khó coi.
Thật ra thì vấn đề này, cho đến nay, không thấy sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo nhắc nhở gì đến chuyện ấy. Tuy nhiên, truyền thống trong Đạo, cũng tuỳ trường hợp, hoặc hoàn cảnh riêng biệt mà giải quyết. Thành thử, cuối cùng vấn đề vẫn là: chuyện mình làm, dù chỉ ảnh hưởng lên thân xác của riêng mình thôi, cũng liên quan đến người khác, trong nhóm hội cộng đoàn mình chung sống.
Để vấn đề không trở nên bi quan, phức tạp cũng nên đi vào truyện kể nhè nhẹ, sau đây:
“Truyện rằng:
Đệ tử nọ, một hôm cảm thấy đau khổ vì cha mẹ, bạn bè cứ chỉ tríchkhích bác những chuyện anh lỡ lầm vẽ vài hình trên thân xác của anh, lại coi đó như chuyện tày trời. Đổ sụp. Anh rất khổ, đến độ anh không bỏ được nỗi oán hờn, thù ghét cả bạn bè, lẫn người thân. Anh bèn tìm đến vị linh hướng lâu nay là người hiểu biết nhiều sự, vẫn giúp anh giải quyết chuyện riêng tư, theo cung cách dễ dàng. Nhẹ nhàng. Có tịnh tâm, suy nghĩ. Anh hỏi vị linh hướng một câu cũng nhẹ nhàng không kém:
-Thế, thày khuyên con phải làm gì bây giờ? Rũ bỏ nỗi ghen ghét, oán thù chăng?
Bậc thày linh hướng đáp:
-Anh hãy ngồi xuống mà tịnh tâm, và tha thứ cho những người ấy.
Ít hôm sau, đệ tử khổ đau tâm can, trở lại vấn kế một lần nữa. Anh thưa với thày:
-Dạ thưa thày, con đã thứ tha hết mọi người rồi. Kể như xong.
Nghe vậy, vị linh hướng lại nói tiếp:
-Như thế vẫn chưa xong đâu. Anh hãy về mà tịnh tâm. Mở lòng mình ra mà yêu thương hết mọi người. Cả những người đả kích/khích bác anh nữa.
-Thưa thày. Tha thứ thôi, đã là chuyện khó. Nay con phải thương yêu họ nữa sao? Thôi được, cứ để con cố gắng.
Tuần lễ sau, người đệ tử lại đến với bậc thày để vấn kế. Hôm ấy, anh tươi tỉnh khoe với thày mình là anh đã làm được việc thương yêu những người đối xử không phải phép với anh. Vị thày nghe vậy, bèn gật gù bảo:
-Như thế rất tốt. Giờ thì, anh hãy về cố gắng mà tịnh tâm, tri ân họ. Bởi, nếu họ không làm thế, thì anh đâu có cơ hội tiến bước trên con đường tâm linh với tâm tịnh.
Lần sau đó, người đệ tử trở lại với thày mình, lòng những tin rằng: lần này mình học được nhiều điều từ vị linh hướng rất biết điều, nên đã biết ơn mọi người, cả đến bạn bè người thân hoặc kẻ thù không ưa thích mình, và anh học được bài học tha thứ, lẫn yêu thương. Bậc thày linh hướng nghe anh kể, bỗng cười nhẹ nói:
-Vậy, anh hãy về mà tịnh tâm hơn nữa. Bởi, những người từng trách móc, chê bai hay ghét anh vì những việc anh làm, là họ đóng đúng vai trò của họ chứ có lầm lỗi gì đâu mà anh phải tha với thứ…”
Thôi thì, tha thứ hay bỏ qua những chỉ trích của mọi người về việc mình hành xử khi lầm lỡ hoặc xâm/xỏ có cố ý hay không, cũng cứ nên về với tâm tình của người nghệ sĩ trên mà ngâm nga ba câu cuối, để rồi sẽ nhớ đến mình, đến người. Dù, người đó là cô/là cậu láng giềng này khác, vẫn cứ hát:
“Cô láng giềng ơi!

Thôi thế không còn nhớ đến tôi.

Đến phút êm đềm ngày xưa kia.

Khi còn ngây thơ.


Cô láng giềng ơi!

Tuy cách xa phương trời tôi không hề,

Quên bóng ai bên bờ đường quê.

Đôi mắt đăm đăm tìm phương về.”

(Hoàng Quý – bđd)
Hát rồi, này bạn hãy cùng tôi, ta trở về với vị linh hướng/hướng linh hồn nào khác trong nhà Đạo, cũng nhẹ nhàng, trầm tĩnh, rất thiết tha, khi thánh nhân nói:
“Anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em

là Đền Thờ của Thánh Thần sao?

Mà Thánh Thần đang ngự trong anh em

là Thánh Thần chính Thiên Chúa ban cho anh em.

Như thế, anh em đâu còn thuộc về mình nữa,

vì Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy anh em.

Vậy anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác anh em.”

(1 Cr 6: 19-20)


Vậy thì, một lần nữa, hỡi tôi và hỡi bạn, ta cứ bình tâm mà suy nghĩ về những lời của thánh nhân hôm trước, để rồi sẽ nhẹ nhàng nghe theo lời khuyên của các đấng bậc linh hướng rất chí thân, và cũng rất hiền. Để rồi, mọi người sẽ đối xử với nhau cũng nhẹ nhàng tình thân như xưa. Dù, người này người nọ, có làm những chuyện khó coi, như xâm/xỏ. Rất lạ kỳ. Dị hợm.
Dù gì đi nữa. Tình thân thương của người anh/người chị trong cộng đoàn Nước Trời, ở trần thế, vẫn quan trọng hơn việc vẽ voi những hình thù dị hợm, của riêng ai. Nhận định như thế xong, bần đạo lại sẽ mời bạn mời tôi, ta hãy hát câu ca ý nhị của nghệ sĩ trên, hát rằng:
“Cô láng giềng ơi!

Tuy cách xa phương trời, tôi không hề.

Quên bóng ai bên bờ đường quê.

Đôi mắt đăm đăm chờ tôi về…”

(Hoàng Quý – bđd)
Đúng thế. Hãy chờ tôi về. Dù, tôi mang hình thù thế nào đi nữa. Vẫn nhớ rằng:
“Em nói rằng em sẽ chờ đợi tôi.

Đừng nói đến phân ly.”

(Hoàng Quý – bđd)

Phân ly hay chia cách, vẫn không là ý hướng của người anh/người chị chúng ta, nơi nhà Đạo.


Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn xin mọi người

đừng nói tiếng phân ly,

cả vào khi tôi, khi bạn

đã lỡ lầm làm những chuyện xấu xa, lạ kỳ.

Rất dị hợm.

_______________________________________________________________

4. “Kể từ em, đem cô đơn mọc lên phố vắng”

Khi em mang nụ cười khỏi đời.



Từng chiều rơi nghe như cõi lòng mình tê tái

Ngỡ như đời còn gọi tên nhau.”

(Từ Công Phụng – Tuổi Xa Người)

(Ga 12: 32)

Đặt đầu đề cho nhạc bản mình vừa viết, mà tác giả lại gọi là “Tuổi Xa Người”, có quá đáng không? Bởi, tuổi người đâu có là linh hồn mà bảo xa với gần. Hoặc, tác giả đây muốn nói đến tình huống “cô đơn”, “tê tái”, một cõi lòng. Rồi lại bảo: “phố vắng”, “nụ cười”, “từng chiều rơi”, vv và vv.. Nếu là nhà Đạo, hẳn tác giả sẽ gán ghép tư tưởng ấy vào buổi nguyện cầu ngày Chay thánh, rất lễ tro?


Thế nhưng, ngay sau đó, tác giả lại đã hát:
“Ngày đó khi một lần, một lần tiếng hát

Đồng lõa đưa em vào vùng trời lấp lánh

Bằng những cánh sao trời đầy đôi mắt ngước trìu mến.

Em, em xa dần ngàn đời hoang vắng

tôi đi về buồn chưng kẽ tóc

bước chân này còn trọn kiếp hoang vu.”

(Từ Công Phụng – bđd)
À thì ra, tiếng em ca hát, nhiều lắm cũng chỉ là: “đồng loã đưa em vào vùng trời lấp lánh”, với “cánh sao trời đầy đôi mắt ngước trìu mến.” Để rồi, em “xa dần ngàn đời hoang vắng”, và “bước chân này còn trọn kiếp hoang vu…” Ôi thôi là lời lẽ, những âm nhạc. Ấy đấy, là ý tưởng với hồn thơ.
Mấy ngày nay, bần đạo cũng đi vào chốn “ngàn đời hoang vắng” có suy tư về những kiêng khem/tự kiểm, của mùa Chay. Gọi suy tư, là nói về những tư lự, rất suy và cũng nghĩ. Suy tư hay suy nghĩ về trạng huống chay kiêng, một tình tự cũng bôn ba, vương vấn, vẫn là tâm tư người nhà Đạo, như bầy tôi đây, lúc này. May thay, nhờ ơn Trên soi sáng, bần đạo nhặt nhạnh được đoạn chú giải của bậc thày đàn anh đã từng viết về động thái đúng đắn cần có vào chay mùa, như sau:
“Ngày nay phụng vụ Mùa Chay cũng không ngừng loan báo Tin Mừng. “Mầu nhiệm Vượt Qua”, “hình ảnh Con Chúa Phục Sinh” (lời nguyện làm phép tro). “Trên núi thánh, bày tỏ vinh quang Ngài (…) Ngài đã cho các môn đệ hiểu rằng phải trải qua đau khổ mới có thể đạt tới vinh quang Phục Sinh” (Tiền tụng Chúa Nhật II Mùa Chay) “dịp thanh tẩy tâm hồn và hân hoan đón mừng các mầu nhiệm Vượt Qua” (Tiền tụng Mùa Chay I); “Sức mạnh của thập giá chứng tỏ rằng thế gian đã bị lên án và quyền lực của Đấng bị đóng đinh nay được sáng ngời” (Tiền tụng Thương Khó I). “Đã gần tới những ngày Đức Kitô chịu khổ hình để cứu độ và sống lại vinh quang…” (Tiền tụng Thương khó II). Mùa Chay, hay lúc nào khác trong năm, thì Phụng vụ vẫn là xum họp quanh Chúa Kitô đã sống lại, “không còn chết nữa” (Rm 6: 4): người tín hữu không bao giờ còn phải ”đi tìm Đấng Sống giữa những người chết” (Lc 24: 5). Cách thức Vượt Qua, Vọng Phục Sinh mới cốt cách, tinh thần của cả Mùa Chay. (x. Nguyễn Ngọc Lan, Chủ Nhật Hồng Giữa Mùa Tím, Cơ Sở Hy Vọng 2002, tr. 156)”
Hiểu được tinh thần của Mùa Chay theo chiều hướng ấy, hẳn bạn và tôi, ta sẽ hát:

“Một chiều êm tay đan tay dìu nhau trên lối

Đưa em đi nhè nhẹ vào đời.

Bằng vòng tay tôi nâng niu mùa thu thức giấc

Đưa em vào ngày tháng vỗ về”

(Từ Công Phụng – bđd)

Vỗ về nhiều ngày tháng, hỡi bạn và tôi, ta hãy cứ “tay đan tay” dìu nhau mà đi. Đi vào đời, để thấy rằng đời mình/đời người, ai cũng gặp được ở đâu đó, những ý tưởng/ý hướng rất “trí lớn gặp nhau”, như sau:

“Mùa Chay là thời gian dài đằng đẵng để mọi người chuẩn bị cho lễ hội lớn lao nhất trong năm Phụng vụ: Lễ hội Phục Sinh rất quang vinh của Đức Chúa. Lễ Hội Phục Sinh, đến lượt mình, chấm dứt Tam Nhật Vượt Qua, trong đó Hội thánh cử hành tưởng nhớ nỗi niềm khổ đau đến chết của Đức Kitô, để mang đến cho loài người, ơn cứu độ.


Vào mùa chiêm niệm rất Chay, hôm nay, ta tháp tùng Chúa qua đoạn đường khổ ải để cùng Ngài Sống Lại. Có làm thế, ta mới sống thực lời Ngài gọi mời ở Tin Mừng: "Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.” (Mt 16: 24)
Mùa Chay, là thời gian để ta quan tâm tự hỏi: mình nên làm gì hơn thêm? hơn là tự nhủ “hãy nên từ bỏ những gì”. Nếu ta sống thực những điều như thế cho thật tốt, thì có lẽ cũng chẳng cần chờ đến Phục Sinh mới hưởng được niềm vui Chúa tặng ban.
Hiểu mùa Chay theo ý nghĩa đích thực là như thế, thì rồi đối với ta, mỗi ngày trong đời sẽ là Lễ Hội Phục Sinh kéo dài để ta càng gần gũi Đức Kitô hơn qua việc từ bỏ chính mình, bằng những nguyện cầu và động thái mến thương người đồng loại.” (x. Lm John Flader, The Catholic Weekly 28/2/2011, tr. 10)
“Tay đan tay, đi vào đời”, để rồi sẽ lại gặp giòng chảy khác, cũng ưu tư không kém về ý nghĩa của chay kiêng/nguyện cầu, rất như sau:
“Trong những ngày qua, tôi thường nghe những câu đại loại như: mùa chay này, ta nên từ bỏ hay hy sinh điều gì đây? Hoặc: ta sẽ làm gì để Mùa Chay này mang nhiều ý nghĩa? Người thì quyết tâm bỏ thuốc lá. Kẻ thì cố gắng bỏ uống bia. Người khác có ý định bỏ ăn đồ ngọt, vv. Nói chung, những ý ngay lành nói trên và những ước muốn hy sinh tương tự, cũng đều tốt. Tuy nhiên, các lực sĩ hay nhà thể thao không chỉ thực hiện những điều ấy trong mùa chay, thôi. Họ tập luyện và từ bỏ những gì cấm kỵ trong suốt đời mình. Vậy, ta phải làm gì cho xứng với yêu cầu của Mùa Chay?...
Thay vì đi tìm lời đáp cho câu hỏi: ta nên hy sinh/từ bỏ điều gì trong mùa Chay này, tôi nghĩ đến điều tích cực hơn, là: tự vấn xem mình sẽ làm thêm điều gì.

Nói đến việc chúng ta cần từ bỏ điều gì, vẫn có thể hiểu ngầm là ta có quyền trên điều đó. Rồi vì hy sinh, nên ta mới từ bỏ nó… Nhưng thật ra, ta có quyền gì đâu? Những gì ta có, đều do Trên ban. Trong các trình thuật kể về việc Chúa Giêsu tìm ẩn dật trong hoang địa, sa mạc không thấy nói đến việc Chúa từ bỏ. Tất cả những gì Chúa làm, là Ngài làm cho Thiên Chúa, Cha Ngài. Và từ đó, mối quan hệ giữa Ngài và Cha càng mật thiết hơn. Cả Hai như một vậy.


Từ bỏ thói hư tật xấu, là những việc làm đáng cổ võ, khích lệ. Nhưng, như thế vẫn chưa đủ. Vì, như nhành nho, chúng không chỉ bị tỉa mà còn phải đơm hoa kết trái nữa. Và, chỉ có ở trong Tình yêu và sự cộng tác của Thiên Chúa thì hoa trái mới sinh ra và tồn tại mãi.” (x. Lm Giuse Mai Văn Thịnh, CSsR, Chay Mùa Đã Đến, www.giadinhanphong.blogspot.com 10/3/2011)
Nói thế, là nói khác người nghệ sĩ cũng từng đi. Nghệ sĩ đi, không nhất thiết phải “tay đan tay” đi vào cuộc tình có những điều cần thêm hay bớt. Mà là: đi vào cuộc tình có thi ca/âm nhạc, lời chưa vui:
“Một mình đi, lang thang trong mùa đông rét mướt

nghe bơ vơ hồn mình, lạc loài

Buồn dậy lên, trên dung nhan gầy xanh của tuổi

trên tháng ngày hằn vết đời mình.


Trời mùa Đông, hong khô đi niềm tin sỏi đá

trên đôi tay này mình còn gì.

Và giòng sông, trôi đi vô tình mang tất cả

cuộc đời này, của người hay tôi.”

(Từ Công Phụng – bđd)
Ở giòng sông cuộc đời, vào trời Đông, tuy “hong khô niềm tin sỏi đá”, nhưng đâu nào đã vô tình “trôi đi”, “mang tất cả, của người hay tôi”, được. Bởi, cả khi Ngài sắp sửa ra đi, Chúa vẫn quả quyết rằng:

“Và Ta,


một khi Ta được giương cao khỏi đất,

Ta sẽ kéo mọi người lại với Ta.”

(Ga 12: 32)
Xem thế thì, khi được “giương cao khỏi đất” rất Chay kiêng, là lôi kéo cuốn hút mọi người về lại với Ngài. Về với Tình yêu thương, như Chúa nói. “Giương cao khỏi đất”, để hiểu rõ hơn ý nghĩa của chay kiêng/nguyện cầu, rất đợi “Giờ”. Đợi “Giờ”, là ý nghĩa khác nữa của Chay kiêng rất thánh thiêng như nhận định của bậc thày đàn anh, từng bày tỏ:
“Mùa Chay là mùa Vọng Phục Sinh. Mùa đợi “Giờ”. Không lạ gì ngày Thứ Sáu Thánh, ngay sau khi công bố tường thuật thương khó, Hội thánh tôn vinh thập giá và với lòng tin cậy hứng khởi, lạc quan tràn trề. Hội thánh dâng lời cầu nguyện cho từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài, cho khắp bàn dân thiên hạ, không trừ một ai. Ngay trên thập giá hạt giống đang sai hoa lắm quả và Chúa Kitô đang kéo mọi người lại với Ngài.” (x. Nguyễn Ngọc Lan, Chủ Nhật Hồng Giữa Mùa Tím, Cơ Sở Hy Vọng 2002, tr. 171)
Đợi “Giờ” đây, là đợi chờ “Giờ” cứu độ từ Chúa, rất Phục Sinh. Nếu Chúa không Phục Sinh, thì cũng chẳng ai cần đợi đến thế. Chẳng có gì, để phải chờ như vậy. Đợi “Giờ” đây, là đợi chờ để có được một biến đổi. Biến đổi, từ tro bụi thành tình huống có sự sống mới. Sự sống đã phục hồi nhờ vào lửa Phục Sinh của Chúa. Biến đổi, từ trạng thái vỡ đổ/tàn lụi, thành tình huống biết dựng xây. Bồi đắp. Từ trạng thái nô lệ đoạ đày sang tình huống có tự do con cái Chúa. Từ suy sụp/gãy đổ sang hoà giải/đỡ nâng. Từ tình trạng chết chóc cảnh huống sinh động. Sinh động, có lửa cháy bừng bừng sức sống, Chúa đỡ nâng.
Độ dài mùa Chay kiêng là một biến đổi rất kéo dài. Dài, những 40 ngày. 40 ngày, của đại hồng thủy. Của, lưu lạc nơi sa mạc. Của, thời gian dân Do thái cầu mong Môsê tiếp xúc với Giavê Thiên Chúa để rồi Ngài sẽ đỡ nâng. 40 ngày dài, khiến ngôn sứ Êlya cứ phải lang thang đây đó. 40 ngày dài/năm tháng, là thời gian chính Giôna đã loan báo việc Ninivê bị hủy diệt. 40 ngày dài, là thời gian Chúa chấp nhận thử thách/cám dỗ nơi sa mạc. Và, 40 ngày dài, là thời gian để mọi người thay đổi chính con người mình, tận thâm căn. Biến đổi, để tái sinh. Sống lại. Biến đổi thành người mới, Chúa ở cùng.
Và, dù gì nữa, 40 ngày Chay kiêng biến đổi, sẽ không làm mọi người khô khan, chán nản. Sơ cứng. Nhưng vẫn kiên trì đủ như lời ca của nghệ sĩ từng hát:
“Ngày đó khi một lần, một lần tiếng hát

Đồng lõa đưa em vào vùng trời lấp lánh

Bằng những cánh sao trời đầy đôi mắt ngước trìu mến…”

(Từ Công Phụng – bđd)


Cuối cùng thì, 40 ngày chay kiêng/biến đổi là tháng ngày đưa ta về với “cánh sao trời”. Với, “đôi mắt ngước trìu mến” của mẹ hiền, là Đức Kitô. Tháng ngày ấy, phút giây này, vẫn cứ là buổi chay kiêng rất tâm tịnh; ở đó, có ánh sáng vui tươi nhè nhẹ như truyện kể, để thư giãn, rất như sau:
“Alexander là vị vua vĩ đại. Trên đường khải hoàn sau khi chinh phạt nhiều nước, ông ngã bệnh. Thời khắc ấy, những vùng ông chiếm được, quân đội hùng mạnh, thanh gươm sắc bén và giàu sang không còn mang ý nghĩa gì với ông nữa. Ông nhận ra rằng: cái chết sắp sửa đến; và ông sẽ không về kịp với mảnh đất quê hương mình.
Ông bảo các sĩ quan dưới trướng rằng:
-Ta sắp sửa rời bỏ thế gian này. Ta có ba nguyện ước. Các ngươi phải thực hiện những gì ta bảo. Các vị tướng tuân lệnh trong nước mắt dầm dề.

-Nguyện ước đầu tiên của ta, là: hãy bảo thầy thuốc mang hòm rỗng của ta về một mình.

Sau khi cố hít thở một hơi, Alexander lại nói tiếp:

-Ước nguyện thứ hai của ta, là: hãy rải vàng bạc châu báu trong kho của ta suốt dọc đường đến tận nấm mồ của ta khi các ngươi mang quan tài ta ra nghĩa địa”.


Sau khi quấn mình trong áo khoác và nghỉ ngơi một lúc, ông nói tiếp:
-Nguyện ước cuối cùng của ta, là: hãy đặt 2 bàn tay ta ra ngoài cỗ quan tài.
Mọi người quanh ông đều tò mò, nhưng không ai dám hỏi lý do tại sao thế. Vị cận tướng của Alexander hôn đôi bàn tay ông rồi hỏi:
-Tâu đức Vua, hạ thần sẽ làm theo mệnh lệnh của Ngài. Nhưng xin Ngài có thể cho hạ thần biết tại sao Ngài lại muốn bề tôi làm như vậy?
Sau khi gắng thở một hơi dài, Alexander trả lời:
-Ta muốn mọi người hiểu được ba bài học mà ta học được. Nguyện ước thứ nhất cốt để thầy thuốc đưa cỗ quan tài về một mình, là cho người ta nhận ra rằng các thầy thuốc không thể nào thực sự chữa bệnh cho con người được. Chí ít, là khi con người đối diện với cái chết, thầy thuốc đều bất lực. Ta hy vọng mọi người sẽ học ra được bài học này, là: biết trân quý sự sống của chính họ. Nguyện ước thứ hai của ta, là để nhắn mọi người rằng: không nên bắt chước ta theo đuổi giấc mộng làm giàu. Nếu ta bỏ cả một đời chạy theo sự giàu sang phú quý, ta sẽ lãng phí hầu hết thời gian quý báu của chính con người. Nguyện ước thứ ba của ta, là để người đời hiểu rằng: ta đến thế gian này với hai bàn tay trắng và ta sẽ rời thế gian này cũng với hai bàn tay trắng, mà thôi. Nói xong ông nhắm mắt trút hơi thở cuối cùng, ra đi rất thanh thản.”

Thế ấy, là kinh nghiệm của vua quan/lãnh chúa, về cuộc đời có nỗi chết. Thế ấy, là lời bàn rất “Mao Tôn Cương” của người kể để nói về những tháng ngày ròng rã khổ đau. Âu sầu. Buồn bã. Những tháng ngày dài của cuộc sống, rất đời thường. Những 40 ngày đêm chuyên chăm nguyện cầu. Những ngày tháng có cuộc sống rất bức bách. Luôn tự vấn về những hành xử của chính mình, suốt cuộc sống, dưới ánh sáng của Phục Sinh, quang vinh.


Cuối cùng thì, sống đời người cho có nghĩa, sẽ làm bạn làm tôi biết hy vọng vào những ngày vui. Vui, như Phục sinh mới. Vui, vì đã tìm ra cứu cánh cuộc đời, dù vẫn còn chìm đắm trong thương đau. Phiền muộn. Bởi, đau thương/phiền muộn rồi cũng sẽ qua đi. Sẽ, chẳng bao giờ kéo dài mãi, đến thiên thu. Bởi, Đức Chúa đã khẳng định với những kẻ quyết đi vào trầm lặng, rất Chay kiêng, rằng:
“Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất;

còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này,

sẽ giữ được sự sống đời đời.”

(Ga 12: 25)

Bởi thế nên, hỡi bạn và hỡi tôi, ta cứ nên hy vọng và tin vào lời Chúa hứa. Hãy cứ thực hiện Lời Ngài, mỗi ngày trong đời. Cứ sống niềm vui Phục Sinh, giữa Mùa Chay kiêng, để rồi, tự khắc sẽ thụ hưởng tương lai mai ngày, rất ngời sáng.
Trần Ngọc Mười Hai

Tự thấy nên nhắc nhở mình

nhắc nhở người,

về lời hứa của Chúa.

Như Ngài từng dặn dò

bấy lâu nay.

______________________________________________________________



tải về 2.12 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   25




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương