ChuyêN ĐỀ 6 NỀn kinh tế thị trưỜng đỊnh hưỚng xhcn, toàn cầu hoá VÀ HỘi nhập quốc tế CỦa việt nam


Giai đoạn từ Đại hội VI (1986) đến hết Đại hội VIII (2001)



tải về 422.11 Kb.
trang2/5
Chuyển đổi dữ liệu05.08.2016
Kích422.11 Kb.
#13857
1   2   3   4   5

2. Giai đoạn từ Đại hội VI (1986) đến hết Đại hội VIII (2001)

Đổi mới toàn diện cả cấu trúc và cơ chế vận hành nền kinh tế với nội dung chính là từ bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng XHCN.

- Đại hội VI đột phá mạnh và căn bản trong tư duy lý luận bằng việc đề ra đường lối đổi mới, trong đó, phê phán và từ bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, coi sản xuất hàng hoá và kinh tế hàng hoá không phải là sản phẩm riêng có của CNTB, thừa nhận sự tồn tại khách quan của “nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước” trên con đường đi lên CNXH (Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH được thông qua tại Hội nghị giữa kỳ Đại hội VII).

- Khẳng định các yếu tố cấu thành cơ bản của nền kinh tế hàng hoá trong giai đoạn quá độ đi lên CNXH ở Việt Nam:

+ Các thành phần kinh tế với các loại hình sở hữu khác nhau, cùng tồn tại lâu dài, trong đó, sở hữu toàn dân và tập thể là nền tảng, kinh tế quốc doanh đóng vai trò chủ đạo.

+ Đổi mới khu vực DNNN theo hướng tăng quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm tài chính, chịu sự điều tiết ngày càng nhiều của thị trường.

+ Tạo điều kiện và khuyến khích sự phát triển của các DN thuộc mọi thành phần kinh tế phi nhà nước; đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài trực tiếp và tăng cường hoạt động của các doanh nghiệp nước ngoài ở Việt Nam.

+ Thừa nhận cơ chế một giá do thị trường định đoạt đối với đại bộ phận hàng hoá và dịch vụ. Từng bước áp dụng chế độ lãi suất và tỷ giá thị trường;

+ Thừa nhận cạnh tranh bình đẳng, giảm độc quyền và đặc quyền trong kinh doanh. Xoá bỏ ngăn sông cấm chợ, cho phép tự do giao lưu hàng hoá, thống nhất thị trường cả nước.

+ Chấp nhận tính chất chính đáng của động cơ lợi nhuận trong kinh doanh; thừa nhận tính hợp pháp của thu nhập từ các quyền tài sản trong khi vẫn coi thu nhập từ lao động là nguyên tắc chủ yếu.

+ Giới hạn vai trò trực tiếp phân bổ nguồn lực thông qua đầu tư từ NSNN; tạo điều kiện để thị trường trở thành công cụ chủ yếu phân bổ các nguồn lực.

- Mở cửa kinh tế và từng bước hội nhập kinh tế quốc tế, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ với thế giới, chủ trương làm bạn với tất cả các nước, biến nền kinh tế nước ta thành một bộ phận của nền kinh tế thế giới và khu vực.

- Mở rộng cơ hội phát triển cho đông đảo nhân dân thuộc tất cả các tầng lớp trên cả nước. Lợi ích do đổi mới mang lại được phân phối rộng khắp và tương đối bình đẳng trong xã hội. Nhân dân ngày càng có nhiều cơ hội việc làm, tiếp thu tri thức mới và nâng cao trình độ văn hoá và năng lực hành động. Quá trình đổi mới giúp nhận thức đầy đủ hơn, đi đến khẳng định quan điểm: "phát triển kinh tế phải đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường"; thực hiện mục tiêu hành động: "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh".

- Nhờ đổi mới, đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội; nền kinh tế tăng trưởng khá nhanh và vững chắc, tạo nên những chuyển biến cơ bản trong phát triển kinh tế - xã hội; giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng; giữ vững độc lập chủ quyền và an ninh quốc gia, tạo chuyển biến mạnh trong quá trình CNH, HĐH đất nước, cải thiện đáng kể đời sống các tầng lớp nhân dân, đạt thành tích có ấn tượng về xoá đói giảm nghèo và phát triển con người.



* Các mốc đổi mới chủ yếu của giai đoạn 1986-2001

a)1986-1987: đổi mới tư duy, chuẩn bị về mặt tư tưởng và đường lối đổi mới và tiến hành đổi mới trên thực tế ở một số lĩnh vực.

- Đại hội Đảng VI: đề ra đường lối đổi mới, trong đó, nhấn mạnh yêu cầu đổi mới tư duy. Tư tưởng coi việc “sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hoá - tiền tệ là đặc trưng thứ hai của cơ chế mới về quản lý” (sau tính kế hoạch), đòi hỏi “sản xuất phải gắn với thị trường, mọi hoạt động kinh tế phải so sánh chi phí với hiệu quả, các tổ chức và đơn vị kinh tế phải tự bù đắp chi phí và có lãi để tái sản xuất mở rộng”, v.v. được ghi trong Báo cáo Chính trị của Đại hội là đột phá quan trọng về tư tưởng và đường lối phát triển kinh tế của thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta.

- 1987: Sửa đổi Luật Đất đai, ban hành Luật Đầu tư nước ngoài trực tiếp, một đạo luật được coi là rất thông thoáng. Chuyển sang chính sách tỷ giá sát với tỷ giá thị trường. Mở cửa cho xuất khẩu các loại nông sản, đặc biệt là gạo.

Thực trạng: nền kinh tế trong giai đoạn lạm phát phi mã, khủng hoảng nặng nề. Tình hình này tạo áp lực phải tiến hành đổi mới trên thực tế một cách mạnh mẽ và quyết liệt. Một số đổi mới thực tế ban đầu theo hướng thị trường và mở cửa đã tạo ra những chuyển biến có sức thuyết phục, tăng thêm quyết tâm đổi mới hệ thống, đồng bộ và mạnh mẽ.

b) 1988 - 1990: tiến hành đổi mới một cách có hệ thống, tương đối đồng bộ và triệt để trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế:

- Khoán 10 trong nông nghiệp; thiết lập hệ thống ngân hàng hai cấp.

- Xoá bỏ chế độ hai giá, áp dụng hệ thống giá thị trường, thống nhất hệ thống tỷ giá và thực hiện chế độ lãi suất dương để chống lạm phát;

- Thông qua Pháp lệnh về NHNN, Pháp lệnh về các NHTM và các Tổ chức tín dụng;

- Sửa đổi Luật Đầu tư nước ngoài;

- Ban hành Luật Công ty;

- Cho phép các công ty tư nhân trực tiếp xuất, nhập khẩu.

Kết quả: Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo thứ 3 thế giới; lạm phát phi mã được kiềm chế và kiểm soát. Năm 1990, GDP tăng trưởng 8,3%. Vốn FDI đăng ký đạt hơn 1 tỷ USD; khai thác được hơn 2 triệu tấn dầu thô.

c) 1991-1996: Tiếp tục đẩy mạnh đổi mới thể chế và định hình khung cấu trúc thể chế của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.

- 1991: Đại hội Đảng VII, thông qua “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH”. Cương lĩnh khẳng định đường lối “Phát triển một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN. Kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo... Xoá bỏ triệt để cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp, hình thành cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác.”

- Năm 1992, thông qua Hiến pháp mới, chính thức thừa nhận nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần;

- Thí điểm cổ phần hoá DNNN (1992), bắt đầu triển khai rộng từ năm 1996.

- Sửa đổi Luật Đất đai, ban hành Luật Phá sản; Luật DNNN;

- Lệnh cấm vận của Mỹ được tháo bỏ (1993); Năm 1995, Việt Nam trở thành thành viên ASEAN và bình thường hoá quan hệ với Mỹ.

- Bãi bỏ nhiều loại giấy phép xuất khẩu và chế độ quản lý bằng hạn ngạch.

Kết quả: Nhờ các biến đổi thể chế được tiến hành đồng bộ và nhất quán, nền kinh tế đã đạt được những kết quả tăng trưởng và phát triển “ngoạn mục”: ngoại thương tăng trưởng 25-40%/năm; GDP tăng trưởng đạt kỷ lục năm 1995: 9,54%. FDI đăng ký đạt 10 tỷ USD năm 1994 và 27 tỷ USD năm 1996. Đà tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế mạnh được xác lập. Tỷ lệ người nghèo giảm nhanh.

d) 1996-2000: nhịp đổi mới thể chế có phần chững lại, nền kinh tế chịu tác động tiêu cực mạnh mẽ của cuộc khủng hoảng TC - tiền tệ khu vực.

- Đại hội Đảng VI (1996) tổng kết 10 năm đổi mới, nhận định nước ta đã thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội, bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, đặt mục tiêu đến năm 2020, đưa nước ta "về cơ bản trở thành nước công nghiệp". ĐH xác nhận những thành tựu phát triển to lớn do đổi mới mang lại, khẳng định con đường đổi mới, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, theo định hướng XHCN có sự quản lý của nhà nước là đúng đắn.

- HNTƯ 4 (khoá VIII, tháng 12/1997) phân tích xu hướng chững lại của quá trình đổi mới và tăng trưởng kinh tế một cách nghiêm khắc và toàn diện, cảnh báo những nguy cơ và thách thức lớn do các điểm yếu nghiêm trọng bên trong gây ra.

Từ nửa cuối năm 1997, nền kinh tế nước ta chịu tác động tiêu cực từ cuộc khủng hoảng khu vực và tình hình thị trường thế giới bất lợi (giá nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như gạo, cà phê, dầu lửa bị giảm mạnh hoặc bất ổn định), cộng hưởng với tác động do các yếu kém bên trong gây ra, làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế bị suy giảm kéo dài, nền kinh tế có nguy cơ lâm vào tình trạng trì trệ. Dòng đầu tư nước ngoài trực tiếp bị sụt giảm mạnh và liên tục trong khi dòng ODA vẫn được duy trì và tăng lên. Cho đến năm 2002, tốc độ tăng trưởng vẫn chưa khôi phục lại được mức của giai đoạn 1994-1996.

- Từ năm 1998, Chính phủ áp dụng chính sách "kích cầu đầu tư" nhằm khắc phục xu hướng suy giảm tốc độ tăng trưởng và tình trạng trì trệ trong nền kinh tế. Chính sách này có tác động vực dậy nền kinh tế, song cũng gây ra một số hậu quả tiêu cực, phục hồi các yếu tố của cơ chế cũ (bao cấp, xin cho, bảo hộ nhà nước, độc quyền DNNN), làm giảm hiệu lực của chương trình điều chỉnh cơ cấu nhằm thúc đẩy quá trình đổi mới theo hướng thị trường - mở cửa.

- Luật Doanh nghiệp được áp dụng từ năm 2000, giúp khu vực tư nhân thoát khỏi nhiều ràng buộc thủ tục hành chính bất hợp lý, tạo ra sự bùng nổ phát triển trong nền kinh tế. Tuy nhiên, do vẫn gặp một số lực cản nên môi trường kinh doanh chỉ mới thực sự thông thoáng ở khâu gia nhập thị trường. Do đó, sức khuyến khích phát triển của Luật vẫn có phần bị hạn chế.

- Quá trình CPH DNNN diễn ra chậm hơn kế hoạch của Chính phủ. Nguyên nhân: quan điểm tư tưởng chưa hoàn toàn thông suốt; quan hệ lợi ích giữa nền kinh tế, khu vực kinh tế nhà nước, DNNN, cán bộ và người lao động chưa có cơ chế giải quyết thoả đáng; chương trình và các giải pháp CPH chưa được thiết kế phù hợp; quyết tâm CPH chưa thực sự cao.

- Tuy gặp nhiều khó khăn, Chính phủ vẫn thực hiện có kết quả các Chương trình xoá đói giảm nghèo. Cùng với hiệu ứng việc làm - thu nhập từ sự bùng nổ của khu vực tư nhân, các chương trình này bảo đảm duy trì thành tích xoá đói giảm nghèo ngoạn mục của Việt Nam, khẳng định sự lựa chọn định hướng XHCN của sự phát triển kinh tế thị trường là đúng đắn.



Hệ quả: Tốc độ tăng trưởng kinh tế, tuy vẫn "dương", song bị sụt giảm kéo dài. Nền kinh tế thiếu ổn định vững chắc. Nhịp đổi mới cơ chế, thể chế kinh tế theo hướng thị trường - mở cửa chậm lại. Chất lượng tăng trưởng và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế chậm được cải thiện. Nhiều điểm yếu cơ cấu và cơ chế nghiêm trọng bộc lộ ngày càng rõ. Xu hướng cơ cấu ngành hướng nội, sử dụng nhiều vốn, thiếu năng lực cạnh tranh gia tăng; hệ thống thể chế kinh tế thị trường thiếu đồng bộ.

e) Những giới hạn nhận thức về nền kinh tế trong giai đoạn xây dựng XHCN (đến năm 2000):

- Vẫn coi thị trường chỉ là một cơ chế để điều tiết nền kinh tế chứ chưa phải là một chỉnh thể hoàn chỉnh, bao gồm cả cấu trúc nội tại lẫn thiết chế vận hành, chưa tiến tới quan niệm xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Về thực chất, chưa coi kinh tế thị trường là cơ sở kinh tế của xã hội tiến lên CNXH.

- Chưa làm sáng tỏ vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường do chưa phân định rõ chức năng nhà nước - thị trường. Nhà nước vẫn ôm đồm, bao biện nhiều chức năng mà thị trường đảm nhiệm hiệu quả hơn (phân phối vốn; quản trị DN) trong khi chưa chú ý đúng mức đến những chức năng mà nhà nước phải hoàn thành (xây dựng và thực thi khung khổ quản lý nhà nước 'khung khổ hành chính - pháp lý', cung cấp hàng hoá và dịch vụ công, hỗ trợ phát triển, v.v.).

- Tư tưởng bảo hộ khu vực DNNN vẫn còn nặng. Nhận thức về vai trò của hệ thống giá cả thị trường và cạnh tranh tự do trong nền kinh tế thị trường không rõ ràng, thể hiện qua thái độ đối với tình trạng độc quyền của nhiều DNNN.

- Chưa nhận thức thật rõ vấn đề thế nào là định hướng XHCN trong nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.

- Chưa xác định rõ thế nào là "kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo", cần phải làm gì để "kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể dần dần trở thành nền tảng" mà không vi phạm các nguyên tắc cơ bản của thị trường.

- Chưa định rõ khái niệm "bóc lột", do đó, còn lúng túng trong thái độ đối với kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản tư nhân.

- Khuôn khổ pháp lý - hành chính cho kinh doanh thị trường không đầy đủ, thiếu đồng bộ, mâu thuẫn và khó dự báo.

- Chưa hiểu rõ yêu cầu và nguyên tắc xây dựng đồng bộ các yếu tố thị trường trong một lộ trình hợp lý.

- Thừa nhận mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế là tất yếu và phải chủ động tham gia nhưng lại chưa xây dựng được quan niệm về nền kinh tế độc lập tự chủ phù hợp với các điều kiện phát triển mới của thế giới và đất nước.



2.3. Giai đoạn thực hiện các mục tiêu của Đại hội IX (2001-2006)

Chuyển từ nhận thức thị trường như một công cụ, một cơ chế quản lý kinh tế sang nhận thức thị trường là một chỉnh thể, là cơ sở kinh tế của xã hội trong giai đoạn tiến lên CNXH. Đặt vấn đề xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.

Đại hội IX khái quát mô hình nền kinh tế thị trường thể hiện sự phát triển tư duy hệ thống về mô hình tổng quát của Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên CNXH. “Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN, đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN3.

- Xác định một loạt yếu tố bảo đảm định hướng XHCN của sự phát triển kinh tế thị trường:

+ Bổ sung “dân chủ” vào hệ mục tiêu phát triển tổng quát: “độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, dân giàu, nước mạnh, XH công bằng, dân chủ, văn minh”.

+ Xác nhận chiến lược CNH, HĐH rút ngắn trong môi trường hội nhập kinh tế quốc tế.

+ Coi “từng bước phát triển kinh tế tri thức” là một nội dung của chiến lược phát triển kinh tế.

+ Kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước (nhà nước XHCN).

+ "Thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế; đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác … Tăng trưởng kinh tế gắn liền và bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển", "đi đôi với phát triển văn hóa và giáo dục".

- Chọn ba mũi đột phá chiến lược trong phát triển kinh tế - xã hội là:

+ Xây dựng đồng bộ hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN mà trọng tâm là đổi mới cơ chế, chính sách nhằm giải pháp triệt để lực lượng sản xuất, mở rộng thị trường trong và ngoài nước;

+ Tạo bước chuyển mạnh về phát triển nguồn nhân lực, trọng tâm là giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ;

+ Đổi mới bộ máy và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, trọng tâm là cải cách hành chính, xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh..

Với sự xác định như vậy, Đại hội IX đã tiến một bước dài trong việc cụ thể hoá mô hình phát triển kinh tế theo định hướng XHCN của Việt Nam.

- Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ (12-2001) phát huy tác dụng tích cực, mở ra nhiều cơ hội phát triển to lớn cho nền kinh tế và các doanh nghiệp Việt Nam. Nó chứng tỏ việc giải phóng thể chế mang lại sức thúc đẩy phát triển mạnh mẽ.

- Luật Doanh nghiệp tiếp tục phát huy tác dụng, với sức lan toả mạnh, tạo nên làn sóng phát triển mới trong khu vực tư nhân.

- Quá trình mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế được đẩy mạnh (thực hiện AFTA, đẩy mạnh quá trình liên kết kinh tế ASEAN theo hướng xây dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN; tham gia ASEM, ký Hiệp định bảo bộ đầu tư với Nhật Bản; thúc đẩy quá trình gia nhập WTO, v.v.).

Kết quả: Nền kinh tế khôi phục lại nhịp tăng trưởng đi lên; giữ vững được ổn định. Tuy nhiên, từ sau Đại hội IX, đã nẩy sinh thêm nhiều vấn đề mới trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Nền kinh tế hội nhập sâu và nhanh hơn vào nền kinh tế thế giới; song các vấn đề về chất lượng tăng trưởng (các vấn đề cơ cấu, thể chế, sức cạnh tranh) là rất nghiêm trọng. Nền kinh tế vẫn trong tình trạng tụt hậu xa hơn. Tăng trưởng vẫn thấp hơn mức tiềm năng. Một số vấn đề cơ bản trong nhận thức lý luận, quan điểm, tư tưởng và chính sách về nền kinh tế thị trường định hướng XHCN - vấn đề về sở hữu, về cơ cấu thành phần, về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, vai trò của nhà nước, về quan hệ giữa tăng trưởng và đói nghèo, giữa các yếu tố kinh tế - xã hội và kiến trúc thượng tầng, v.v. - đòi hỏi phải được giải quyết triệt để để định hình khung lý luận cho nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.

2.4. Giai đoạn từ Đại hội X tới nay

Nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng trong thập kỷ gần đây. Điều đó đã được đánh giá và khẳng định trong các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X và XI.

Đại hội X - Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Đất nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp CNH, HĐH, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN được đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt(4).

Đánh giá việc thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010, Đại hội XI - Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Chúng ta đã tranh thủ thời cơ, thuận lợi, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, nhất là những tác động tiêu cực của hai cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực và toàn cầu, đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng, đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Nhiều mục tiêu chủ yếu của Chiến lược 2001-2010 đã được thực hiện, đạt bước phát triển mới cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất. Kinh tế tăng trưởng nhanh, đạt tốc độ bình quân 7,26%/năm.



Năm 2010, tổng sản phẩm trong nước bình quân đầu người đạt 1.168 USD. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội đạt thành tựu quan trọng trên nhiều mặt, nhất là xóa đói, giảm nghèo. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt; dân chủ trong xã hội tiếp tục được mở rộng. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ vững. Công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế được triển khai sâu rộng và hiệu quả, góp phần tạo môi trường hòa bình, ổn định và tăng thêm nguồn lực cho phát triển đất nước”(5).

Có thể khái quát các thành tựu mà nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam đạt được như sau:



Một là: Đưa đất nước thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế, tăng trưởng kinh tế nhanh và ổn định.

Hai là: Tạo dựng được những tiền đề cần thiết cho sự phát triển kinh tế thị trường và sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; cải thiện một bước kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế và đời sống nhân dân; hệ thống giáo dục, khoa học công nghệ phát triển khá, thể chế kinh tế thị trường đã từng bước được hình thành và phát triển.

Ba là: Cơ cấu kinh tế có sự chuyển biến tích cực để phát huy tiềm năng của từng ngành, từng vùng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Bốn là: Kinh tế đối ngoại được mở rộng và phát triển, khả năng hội nhập khu vực và thế giới được tăng cường.

Năm là: Thành quả của xã hội về xoá đói giảm nghèo.

Việc đạt được những thành tựu nêu trên là nhờ: “Phát huy được sức mạnh của toàn dân tộc, sự nỗ lực phấn đấu vượt bậc, năng động, sáng tạo của toàn dân, toàn quân, cộng đồng doanh nghiệp và của cả hệ thống chính trị, sự quản lý điều hành có hiệu quả của Nhà nước dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng(6).

Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp thực tiễn Việt Nam.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu nói trên, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam còn có một số mặt hạn chế: hệ thống thị trường chưa đồng bộ; môi trường kinh tế (gồm cả vĩ mô và vi mô) chưa được hoàn thiện và chưa thực sự hiệu quả, năng lực quản lý nhà nước và cơ chế chính sách chưa theo kịp thực tiễn; nguồn nhân lực chưa đáp ứng được với kinh tế thị trường trong bối cảnh hội nhập.

Đại hội X - Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận định: “Cho đến nay nước ta vẫn trong tình trạng kém phát triển. Kinh tế còn lạc hậu so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Các lĩnh vực văn hoá, xã hội, xây dựng hệ thống chính trị, còn nhiều yếu kém. Lý luận chưa giải đáp được một số vấn đề của thực tiễn đổi mới và xây dựng CNXH ở nước ta, đặc biệt là trong việc giải quyết các mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng và chất lượng phát triển7.

Đại hội XI cũng đã chỉ rõ: Những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng. Kinh tế phát triển chưa bền vững. Chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp, các cân đối kinh tế vĩ mô chưa vững chắc, cung ứng điện chưa đáp ứng yêu cầu. Công tác quy hoạch, kế hoạch và việc huy động, sử dụng các nguồn lực còn hạn chế, kém hiệu quả, đầu tư còn dàn trải; quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nói chung còn nhiều yếu kém, việc thực hiện chức năng chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước còn bất cập. Tăng trưởng kinh tế vẫn dựa nhiều vào các yếu tố phát triển theo chiều rộng, chậm chuyển sang phát triển theo chiều sâu. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội có một số mặt yếu kém chậm được khắc phục, nhất là về giáo dục, đào tạo và y tế; đạo đức, lối sống trong một bộ phận xã hội xuống cấp. Môi trường ở nhiều nơi đang bị ô nhiễm nặng; tài nguyên, đất đai chưa được quản lý tốt, khai thác và sử dụng kém hiệu quả, chính sách đất đai có mặt chưa phù hợp. Thể chế kinh tế thị trường, chất lượng nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng vẫn là những điểm nghẽn cản trở sự phát triển. Nền tảng để Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại chưa được hình thành đầy đủ. Vẫn đang tiềm ẩn những yếu tố gây mất ổn định chính trị - xã hội và đe dọa chủ quyền quốc gia”(8).

Nguyên nhân của thực trạng nói trên: “Có phần do nguyên nhân khách quan, trong đó có những vấn đề mới chưa có tiền lệ trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng nguyên nhân chủ quan là chủ yếu: Tư duy phát triển kinh tế - xã hội và phương thức lãnh đạo của Đảng chậm đổi mới, chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển đất nước; bệnh thành tích còn nặng; hệ thống pháp luật còn nhiều bất cập, việc thực thi chưa nghiêm; quản lý nhà nước còn nhiều yếu kém; tổ chức bộ máy cồng kềnh, một bộ phận cán bộ, công chức yếu cả về năng lực và phẩm chất; tổ chức thực hiện kém hiệu quả, nhiều việc nói chưa đi đôi với làm; chưa tạo được chuyển biến mạnh trong việc giải quyết những khâu đột phá, then chốt và những vấn đề xã hội bức xúc; quyền làm chủ của nhân dân chưa được phát huy đầy đủ; kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm; tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng, chưa được đẩy lùi(9).

Đại Hội XI đã thông qua Cương xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển). Đây là văn kiện quan trọng xác định đặc điểm thời đại và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam trong những thập kỷ tiếp theo. “Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là các nước với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia và dân tộc10.

Cương lĩnh khẳng định: “xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới11.

Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020 xác định 3 đột phá quan trọng nhằm thay đổi mô hình tăng trưởng mở rộng theo chiều sâu và hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế toàn cầu. Cụ thể 3 đột phá chiến lược:

(1). Hoàn thiện thế chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính.

(2). Phát triển nhanh nguồn nhân lực, đặc biệt nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ.

(3). Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số công trình hiện đại, tập trung vào hệ thống giao đông và hạ tầng đô thị lớn.

3. CÁC ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN CỦA VIỆT NAM

Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là tiền đề quan trọng thúc đẩy quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô, là một trong ba đột phá chiến lược trong 10 năm tới.




tải về 422.11 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương