BÁo cáo nghiên cứu khả năng cạnh tranh của các mặt hàng nông sản chính của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập afta


Hình 4.13. Thị phần nhập khẩu thịt lợn của Philipines 2003



tải về 1.25 Mb.
trang6/10
Chuyển đổi dữ liệu20.07.2016
Kích1.25 Mb.
#2098
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10

Hình 4.13. Thị phần nhập khẩu thịt lợn của Philipines 2003



Nguồn: USDA

Philipines chủ yếu nhập khẩu ở các nước Trung Quốc, Nam Triều Tiên, Pháp và Mỹ. Một nửa số thịt lợn nhập khẩu (25000 tấn năm 2003) gồm thịt lợn chế biến, chủ yếu là từ Trung Quốc.

Một trong những yếu tố khiến cho nhập khẩu thịt lợn tươi sống ở mức thấp là do người Philipines thích thịt lợn tươi sống. Có tới 90% thịt được bán tươi tại chợ bán lẻ, chỉ có 10% hiện được bán tại siêu thị. Thịt lợn tiêu thụ trong nước được giết mổ trong đêm và chở ngay đến chợ. Thịt đông lạnh chỉ chiếm khoảng 10%. Tuy nhiên, những cải cách gần đây trong khu vực bán lẻ, đặc biệt là tự do hoá thị trường và phát triển siêu thị hiện đại đang dần thay đổi xu hướng tiêu thụ và cách lựa chọn đồ ăn của người Philipines. Ngoài ra, ngành nông nghiệp và kinh tế tăng trưởng ổn định và dân số đạt 84 triệu năm 2004 là những yếu tố kích thích tiêu thụ nông sản, đặc biệt là thịt lợn

Lượng nhập khẩu tối thiểu năm 2004 có tăng đôi chút do giá bán lẻ thịt lợn nội địa vẫn tăng cao. Chính phủ Philipines cũng triển khai chương trình giảm thuế nhập khẩu ngắn hạn để giảm giá. Đây sẽ là động lực giúp tăng lượng nhập khẩu thịt lợn.

Người Philipines thích thịt lợn hơn là thịt gà và bò. Dân số Philipines tăng với tốc độ 2,36%/năm, vì vậy một trong những thách thức của ngành sản xuất thịt lợn trong 2 thập kỷ tới là phải tăng gấp 3 lần sản lượng thịt lợn để đáp ứng cầu.

D




Nguồn: USDA

ự kiến cầu sản phẩm thịt chế biến vẫn tiếp tục tăng. Người Philipines vẫn thích thực phẩm đóng hộp. Mặc dù trong những năm gần đây sản phẩm đóng hộp không còn được ưa chuộng nhiều như trước do nhận thức về dinh dưỡng và sức khoẻ của dân ngày càng cao nhưng các công ty cung cấp hiện đang thực hiện chiến dịch rất mạnh nhằm kích thích lại nhu cầu các sản phẩm này. Do thu nhập đầu người Philipines vẫn thấp nên cầu các sản phẩm đông lạnh vẫn rất nhạy cảm với biến động giá.

Hình 4.14. Tỉ lệ tiêu thụ lương thực Philipines (%)

Cầu lương thực chế biến nhập khẩu vẫn mạnh do các yếu tố sau: xu hướng thích tiêu thụ đồ ăn kiểu tây, thu nhập tăng và xuất hiện nhiều sản phẩm chế biến thương hiệu nổi tiếng. Ngoài ra, xu thế đô thị hoá cũng là một yếu tố kích thích tiêu thụ sản phẩm này.


    1. Dứa

      1. Tình hình sản xuất

Thị trường dứa thế giới rất sôi động. Dứa có một vị trí quan trọng trong nền kinh tế của nhiều nước. Theo FAO, trung bình hơn 80 nước trên thế giới sản xuất gần 14 triệu tấn dứa. Thái Lan (2,3 triệu tấn), Philipines (1,5 triệu tấn), Brazil (1,4 triệu tấn), Trung Quốc (1,4 triệu tấn) và Ấn Độ (1 triệu tấn) là 5 nước sản xuất dứa chính trên thế giới.

Trong khu vực Đông Nam Á, Thái Lan, Indonesia, Philipines và Việt Nam là 4 nước có diện tích trồng dứa lớn ở khu vực Đông Nam Á. Tuy nhiên, trong số 4 nước này, chỉ có Thái Lan và Philipines có sản lượng tương đối lớn, đặc biệt là Thái Lan (nước xuất khẩu dứa đóng hộp lớn trên thế giới). Điều này cho thấy năng suất trồng dứa ở Indonesia và Việt Nam thấp hơn Thái Lan và đặc biệt là Philipines.


H

Nguồn: FAO (2004)

ình 4.15. Diện tích trồng dứa một số nước ASEAN


Hình 4.16. Sản lượng dứa một số nước ASEAN (tấn)




Nguồn: FAO (2004)

Sản lượng dứa của Thái Lan bị ảnh hưởng mạnh bởi biến động giá. Năm 1992-1993, giá dứa thế giới tăng mạnh đã kích thích nông dân Thái Lan đầu tư lớn vào sản xuất dứa. Kết quả là cuối năm 1993, nước này ở trong tình trạng dư thừa dứa, khiến cho giá lại giảm xuống. Tuy nhiên, năm 1994, do sản lượng thế giới giảm, Thái Lan lại tiêu thụ được hầu hết lượng dứa dư thừa, chiếm tới 46% lượng nhập khẩu vào Mỹ, đạt giá trị hơn 79 triệu baht. Theo Phòng Kinh tế Nông nghiệp, diện tích trồng dứa của Thái Lan giảm từ 610.552 rai năm 2000/01 xuống còn 552.456 rai năm 2001/02, tương đương với 9,5%. Năm 2002/03, diện tích thậm chí còn tiếp tục giảm 10,2% xuống còn 496.482 rai.


H



Nguồn: Phòng Kinh tế Nông nghiệp Thái Lan

ình 4.17. Giá dứa công ty của Thái Lan (baht/kg)

Do diện tích giảm nên tổng sản lượng dứa năm 2001/02 đạt 1,9 triệu tấn, giảm 300.000 tấn so với năm 2000/01. Năm 2002, sản lượng dứa tươi của Thái Lan lại hạn chế do lượng dứa tươi dư thừa năm 2001, khiến cho giá dứa năm 2002 tăng mạnh tới 2,02 baht/kg, so với mức 1,32 baht/kg của tháng 3/2001.

Ngoài yếu tố giá cả, thời tiết cũng là yếu tố quyết định lượng dứa tươi sản xuất tại nước này.
Indonesia và Philipines là hai đối thủ chính của Thái Lan trong ngành sản xuất dứa tươi và dứa đóng hộp ở châu Á. Cả hai đối thủ cạnh tranh này hiện đang cố gắng tăng năng suất và phát huy tiềm năng của ngành. Số lượng nhà máy sản xuất dứa ở nước này đều nhiều hơn so với Thái Lan. Hai nước này cùng cung cấp mặt hàng dứa tươi, trong khi đó hầu hết các nhà máy Thái Lan vẫn đang phải thu mua nguyên liệu thô từ những nước này. Thời tiết và chất lượng sản phẩm cũng là những thách thức lớn đối với ngành sản xuất dứa của Thái Lan.
Theo Phòng Thống kế Nông nghiệp Philipippines, hiện nay, Philipines chiếm khoảng 17% tổng lượng sản xuất dứa thế giới. Diện tích trồng dứa giảm đôi chút từ 43.663 ha năm 1995 xuống còn 40.233 ha năm 1998, song lại tăng 43.256 ha năm 1999 và 44.042 ha năm 2001. Sản lượng dứa của Philipines tăng liên tục do mở rộng diện tích. Năm 1998, sản lượng dứa của nước này đạt 1,5 triệu tấn, năm 1999-2000 tăng lên 1,6 triệu tấn.


      1. Tình hình thị trường


Xuất khẩu

Hình 4.18. Xuất khẩu dứa các nước ASEAN 2002 (tấn)



Nguồn: FAO (2004)


Thái Lan, Philipines và Indonesia chiếm tới 80% lượng xuất khẩu dứa đóng hộp thế giới.

Thái Lan là nước xuất khẩu dứa lớn nhất trong khu vực ASEAN, chiếm 52% tổng xuất khẩu dứa khu vực Đông Nam Á và 25% thị phần thế giới trong năm 2002. Sản phẩm dứa xuất khẩu của Thái Lan chủ yếu là dứa đóng hộp.

Philipines không chỉ tăng sản lượng dứa mà còn là một trong những nhà xuất khẩu hàng đầu, mặc dù ban đầu gặp phải những khó khăn nhất định khi thâm nhập thị trường Úc. Tổng lượng xuất khẩu dứa tháng 1 và tháng 6 năm 2002 của nước này đạt trị giá khoảng 16 triệu USD, bao gồm 9,4 triệu USD dứa đóng hộp, 1,3 triệu USD nước ép dứa và 2,8 triệu USD dứa cô đặc. Sắp tới, tình hình xuất khẩu dứa của nước này còn tiếp tục được cải thiện nếu người trồng và công ty chế biến tiếp tục nâng cao năng suất và chất lượng.

Hiện nay, thị trường dứa đang trong thời kỳ khó khăn. Dự trữ dứa đóng hộp trong suốt thời kỳ giá giảm (2000-2001) được sử dụng để đáp ứng một phần nhu cầu. Việc thị trường dứa thế giới rơi vào tình trạng khó khăn này cũng là hiện tượng mang tính chất chu kỳ. Mức giá thấp năm 2000-01 khiến cho nhiều nông dân, đặc biệt là ở Thái Lan bỏ đất trồng dứa, khiến các nhà máy chế biến thiếu nguyên liệu trầm trọng. Năm 2002, ngành sản xuất nước quả của Thái Lan chỉ hoạt động khoảng 50% công suất. Kết quả là giá dứa tăng mạnh, khoảng 5 baht/kg, so với mức 1,5 baht/kg năm 2000. Giá nước dứa cô đặc cũng tăng mạnh, đạt tới 1350 USD/tấn năm 2002. Xu thế tương tự cũng diễn ra đối với dứa đóng hộp với mức giá tăng từ 6,15 USD đến 8 USD. Đầu năm 2003, thời tiết thuận lợi và giá cao lại khuyến khích nông dân quay trở lại sản xuất, làm giá giảm được đôi chút xuống còn 6 USD/tấn.

Tiêu thụ quả (dứa) trong nước

Indonesia

Là một nước đông dân thứ 4 trên thế giới, thị trường tiêu thụ quả của Indonesia ngày càng lớn mạnh, đặc biệt là mặt hàng táo và bưởi. Tiêu thụ bình quân quả đầu người của Indonesia năm 2001 là khoảng 42 kg/năm.

Với dân số hơn 216 triệu dân với 62% là dân số trẻ từ 10-49 tuổi. Gần 60% dân số sống ở đảo Java, tiêu thụ 60-65% lượng quả. Khoảng 15% dân số thuộc nhóm thu nhập trung bình và cao, hầu hết sống ở khu vực thành thị Jakarta, Surabaya, Yogyakarta, Bandung, Medan, Makassar và Manado.

Người tiêu dùng Indonesia rất nhạy cảm với sự tăng giảm giá và thay đổi trong thu nhập, đặc biệt là các hộ gia đình thu nhập thấp. Trong ngày nghỉ, lễ tết, chi tiêu cho quả tăng mạnh, đặc biệt là cho các loại quả tươi nhập khẩu. Người tiêu dùng Indonesia ngày càng có xu hướng tiêu thụ sản phẩm có lợi cho sức khoẻ và dinh dưỡng cao. Người Indonesia đặc biệt thích các loại quả ngọt. Đây là tiêu chí chọn lựa cơ bản của người Indonesia.

Thuế nhập khẩu quả hiện nay là 5%. Ngoài 5% thuế, Indonesia còn áp dụng 10% thuế giá trị gia tăng và 2,5% thuế doanh thu. Ngoài ra, người buôn bán còn phải đóng phí kiểm dịch.

Malaysia

Tổng lượng tiêu thụ thực phẩm tươi của Malaysia tăng từ 2,3 triệu tấn năm 1999 đến 2,5 triệu tấn năm 2001 và dự kiến tăng đến 2,7 triệu tấn năm 2004. Tiêu thụ bình quân đầu người thực phẩm tươi đạt khoảng 100 kg năm 1999 (1/2 là rau và 1/2 là quả). Với mức tăng thu nhập như đã đề cập ở trên, tiêu thụ đầu người tăng tới 104 kg năm 2001 và khoảng 109 kg năm 2004. Khi thu nhập tăng, người tiêu dùng Malaysia không chỉ tiêu thụ các sản phẩm tươi mà nhiều loại khác nữa. Điều này buộc Malaysia phải nhập khẩu với tỉ lệ nhập khẩu trong tổng tiêu thụ tăng từ 32% năm 1999 đến 38% năm 2001.

Tiêu thụ đầu người quả tươi của Malaysia tăng từ 50kg năm 1999 đến 52kg năm 2001 và 55kg năm 1994. Tỉ lệ quả tươi nhập khẩu trong tổng tiêu thụ tăng từ 18% năm 1999 đến 23% năm 2001 và 28% năm 2004. Người Malaysia ở cả nông thôn và thành thị đều thích các loại quả nhập khẩu như táo, cam, quýt...


    1. Tiêu

      1. Tình hình sản xuất

Trong khu vực Đông Nam Á, Indonesia, Việt Nam và Malaysia là 3 nước sản xuất và xuất khẩu tiêu lớn nhất, trong đó, Indonesia và Việt Nam là những nước sản xuất lớn nhất nhì thế giới. Trong giai đoạn 1991-2002, tốc độ tăng trưởng sản lượng trung bình của Việt Nam đạt cao nhất: 18%, trong khi đó tỉ lệ này ở Malaysia và Indonesia chỉ đạt 1,4 và 0,6%. Tuy nhiên, tính theo giá trị tuyệt đối, năm 2002, sản xuất tiêu của Indonesia vẫn cao hơn Việt Nam 16000 tấn.
Hình 4.19. Sản lượng tiêu một số nước ASEAN (tấn)




Nguồn: FAO (2004)


Sản xuất tiêu của Indonesia biến động lớn. Mặc dù tốc độ tăng trưởng trung bình từ năm 1990 đến nay là 0,6% nhưng có những năm tốc độ tăng trưởng lên tới 38% (năm 1998) nhờ thời tiết thuận lợi nhưng có những năm tốc độ đạt -18% (năm 1994). Năm 2001, sản lượng tiêu của nước này giảm tới 3%, còn 66.810 tấn, so với gần 70.000 tấn năm 2000. Năm 2002, sản lượng có tăng đôi chút, đạt 67.000 tấn. Năng suất sản xuất trung bình của nước này đạt 0,8 tấn/ha, thấp hơn nhiều so với một số nước như Malaysia (2 tấn/ha), Việt Nam (3,2 tấn/ha)...

Hầu hết lượng tiêu sản xuất ra giành cho xuất khẩu, với lượng xuất khẩu chiếm tới trung bình gần 74% sản lượng từ năm 1990 đến nay. Năm 2002, xuất khẩu của nước này chiếm tới hơn 94% lượng sản xuất.

Khi bắt đầu sản xuất vào năm 1870, Malaysia chỉ thu được sản lượng 4 tấn/năm. Cho đến nay, nước này đã trở thành nước sản xuất hạt tiêu lớn thứ 4 trên thế giới sau Ấn Độ, Indonesia và Việt Nam. Với sản lượng 18000 tấn năm 1997, Malaysia chiếm tới 9,6% tổng sản lượng thế giới. Về xuất khẩu, Malaysia đứng thứ 3 thế giới về lượng (24,808 tấn), chiếm 18% tổng lượng xuất khẩu thế giới.

Sarawak là tỉnh sản xuất hạt tiêu chính của Malaysia. Hiện nay, có khoảng 40000 nông dân nhỏ ở tỉnh trồng hạt tiêu với quy mô đất rất nhỏ, khoảng 0,1-0,4 ha. Năm 1997, diện tích trồng hạt tiêu của tỉnh khoảng 10200 ha.

Năm 1997, sản xuất hạt tiêu thế giới đạt khoảng 187.444 tấn, giảm 5577 tấn so với năm 1996 (tương đương với 2,9%). Mức giảm này chủ yếu là do các nước sản xuất chính giảm sản lượng vì hiện tượng Elnino gây hạn hán kéo dài. Do đó, xuất khẩu hạt tiêu năm 1997 của thế giới cũng giảm mạnh từ 140.076 tấn năm 1996 xuống còn 138.132 tấn năm 1997 (khoảng 1,4%). Năm 1997, Ấn Độ là nước xuất khẩu lớn nhất với 35.778 tấn, sau đó là Indonesia (32.511 tấn), Malaysia (24.808 tấn), Việt nam (23000 tấn) và Brazil (13.364 tấn). Tiêu thụ hạt tiêu năm 1997 của thế giới đạt 203.250 tấn. Như vậy, với mức sản xuất 187.444 tấn, thế giới thiếu hụt khoảng 15800 tấn hạt tiêu, khiến giá tăng cao.

Hình 4.20. Diện tích trồng chè một số nước ASEAN






Nguồn; FAO (2004)


Hình 4.21. Xuất khẩu hạt tiêu các nước ASEAN (tấn)







Nguồn: FAO (2004)





      1. Tình hình thị trường

Từ năm 1998 đến nay, Malaysia đạt tốc độ tăng trưởng hạt tiêu khá ổn định là 12%, chỉ cá biệt có năm 1998, tốc độ chỉ còn 5%. Diện tích trồng hạt tiêu của nước này cũng tăng liên tục, trung bình khoảng 3%/năm từ năm 1990 đến nay. Năng suất hạt tiêu trung bình của Malaysia khá cao, khoảng 2 tấn/ha, so với mức trung bình của thế giới là 0,7 tấn/ha. Ngoài sản xuất, Malaysia cũng nhập khẩu hạt tiêu nhưng số lượng không nhiều, chỉ khoảng 1875 tấn/năm. Hầu hết hạt tiêu sản xuất ra đều được xuất khẩu. Tỉ lệ giữa lượng xuất khẩu trên lượng sản xuất và nhập khẩu của nước này từ năm 1990 đến nay đạt khoảng trên 98%.

    1. Chè




      1. Tình hình sản xuất

Trong khu vực Đông Nam Á, Việt Nam, Myanmar và Indonesia là 3 nước sản xuất chè lớn nhất. Trong những năm qua, diện tích trồng chè của Indonesia và Myanmar đều có xu hướng tăng dần, tuy không nhiều (khoảng 1,2 lần từ năm 1990 đến 2003). Diện tích trồng chè tăng nhiều nhất ở Việt Nam, từ khoảng 60 nghìn ha năm 1990 đến gần 100 nghìn ha năm 2003, gần 1,65 lần. Cùng với mức tăng về diện tích, sản lượng chè của Việt Nam và Indonesia cũng tăng mạnh.

Chè đóng vai trò quan trọng nền nông nghiệp của Indonesia trong hơn hai thế kỷ qua. Người Hà Lan lần đầu tiên phát hiện ra cây chè ở Indonesia vào những năm 1700. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, sản xuất chè ở nước này bị suy thoái nghiêm trọng. Năm 1984, ngành công nghiệp này được khôi phục lại, Indonesia bắt đầu xuất khẩu trên thị trường thế giới. Kể từ đó, ngành sản xuất chè liên tục được hiện đại hoá. Sản phẩm chè của Indonesia khác với các nước khác về vị trí, loại đất và khí hậu. Chè được trồng trên vùng cao, trên đất núi lửa và khí hậu nhiệt đới. Sản phẩm chủ yếu là chè đen với 80% sản xuất được xuất khẩu. Chè của Indonesia nhẹ, thơm ngon. Trong những năm gần đây, Indonesia còn tăng cường xuất khẩu loại chè có hương vị.

Trong những năm vừa qua, mặc dù diện tích trồng chè được duy trì khá ổn định nhưng sản lượng có biến động nhiều, đặc biệt là giữa thập kỷ 90 do thời tiết thất thường. Kể từ năm 1999, sản lượng chè của Indonesia bắt đầu tăng ổn định trong khoảng 160.000-165.000 tấn. Tuy nhiên, năm 2004, do thời tiết hạn hán nên sản lượng chè của Indonesia chỉ đạt 140.000 tấn, chủ yếu là chè xanh và chè đen, giảm hơn 20.000 tấn so với năm 2002.

H





Nguồn: FAO (2004)
ình 4.22. Sản lượng (tấn) và diện tích (ha) chè Indonesia


      1. Tình hình thị trường

Nhờ đạt sản lượng cao nên xuất khẩu chè của Indonesia cũng trong danh sách đứng đầu thế giới. So với Việt Nam và các nước ASEAN khác, lượng xuất khẩu chè của Indonesia lớn hơn rất nhiều. Tuy nhiên trong những năm gần đây, do xuất khẩu chè của Việt Nam tăng đột biến nên tỉ phần xuất khẩu của Indonesia có giảm đôi chút.

Sản xuất chè thế giới năm 2004 đạt khoảng 3,2 triệu tấn, cao hơn năm 2003 khoảng 2%, chủ yếu là nhờ thời tiết thuận lợi. Trong đó, sản lượng tăng chủ yếu ở các nước Sri Lanka, Kenya và Trung Quốc, mức tăng đủ lớn để bù cho mức giảm của Ấn Độ và Bangladesh.



Hình 4.23. Sản xuất và xuất khẩu chè của Indonesia


Nguồn: FAO, 2004



    1. Chính sách nông nghiệp các nước trong khu vực




      1. Indonesia

a. Cam kết trong vòng đàm phán Uruguay-WTO:

Bộ Thương mại nước cộng hoà Indonesia đã ký hiệp định cuối cùng trong vòng dàm phán Uruguay (UR) tại Marrakech tháng 4 năm 1994. Thoả thuận UR về nông nghiệp bao gồm ba phần: (i) thoả thuận về cam kết đối với việc tiếp cận thị trường, trợ cấp trong nước và trợ cấp xuất khẩu, (ii) thoả thuận về các biện pháp vệ sinh dịch tễ, (iii) thoả thuận cấp bộ trưởng có liên quan đến các nước kém phát triển và các nước đang phát triển nhập khẩu lương thực dòng. Hiệp định trọn gói này cũng nhằm giải quyết rất nhiều vấn đề khác bao gồm các điều khoản khuyến khích sử dụng các chính sách hỗ trợ trong nước để giảm thiểu sự méo mó thương mại nhằm duy trì sự phát triển nông nghiệp và nông thôn, giảm bớt gánh nặng của sự điều chỉnh và thực hiện cam kết một cách linh hoạt.

Theo thoả thuận đã ký, Indonesia cam kết những vấn đề sau:


  • Chỉ duy trì mức thuế với 95% biểu thuế và 92% mặt hàng nhập khẩu ở tỉ lệ thuế trần là 40%. Những ràng buộc về thuế này có hiệu lực ngay khi Indonesia trở thành thành viên của WTO.

  • Việc đánh thuế và ràng buộc đối với tất cả những mặt hàng nông nghiệp (giảm thuế ít nhất 10% trong mỗi biểu thuế) sẽ được thực hiện trong vòng 10 năm. Việc nhập 7000 tấn gạo/năm (với mức thuế 90%) sẽ có hiệu lực ngay lập tức. Trợ cấp cho xuất khẩu gạo sẽ được duy trì trong khoảng 27,6 triệu USD (1995) đến 21,5 triệu USD (2004) (tương đương với mức 295000 và 257000 tấn).

  • Xóa bỏ tất cả những hàng rào phi quan thuế (NTB) đánh vào những mặt hàng đã chịu thuế trong vòng 10 năm. Vào thời điểm Indonesia ký kết hiệp định UR cuối cùng (4/1994), cam kết này đã có ảnh hưởng đến 179 biểu thuế (trong số 269 biểu thuế có NTB). Giá trị của những hàng rào phi quan thuế được tháo gỡ khoảng 358 triệu USD.

  • Indonesia tự cam kết trong vòng 10 năm sẽ xoá bỏ những gánh nặng nhập khẩu đánh vào các mặt hàng đã được nêu trong yêu cầu tiếp cận thị trường. Vào thời điểm nước này ký kết hiệp định cuối cùng, gánh nặng thuế được áp dụng cho 220 mặt hàng chịu thuế. Sau đợt thực hiện phi điều tiết trọn gói tháng 6/1994, gánh nặng này đã được loại bỏ khỏi 108 mức thuế và được giảm ở 13 mức thuế.

  • Cam kết tự do hoá hoặc ràng buộc với những cơ hội tiếp cận với thị trường hiện có cho 5 ngành dịch vụ: viễn thông, dịch vụ công nghiệp, du lịch, dịch vụ tài chính và ngân hàng.

b. Cam kết với khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA):

Vào tháng 1/1993, AFTA đã đạt được một thoả thuận về chương trình thuế ưu đãi hiệu quả chung (CEPT). Trọng tâm của thoả thuận này là thừa nhận mức thuế chung, thấp và hiệu quả từ 0 đến 5% đối với tất cả các đầu mối thương mại trong khu vực ASEAN. Hàng nông sản chưa qua chế biến là một trong những mặt hàng được đưa vào danh sách nhạy cảm, tạm nhập tái xuất, thuộc phạm vi điều chỉnh của CEPT.

Trong cuộc họp hội đồng AFTA lần thứ 10 tại Jakarta tháng 9/1996, các bên đã đạt được một thoả thuận nhất trí rằng tự do hoá các mặt hàng nông sản nhạy cảm sẽ được bắt đầu thực hiện vào tháng 1/2003 và kết thúc vào cuối năm 2010, riêng Indonesia và Philipin được phép sử dụng linh hoạt một số hình thức đảm bảo vào năm 2010. Với sự linh hoạt này, Indonesia có thể duy trì thuế nhập khẩu đối với gạo và đường ở mức trên 5% sau năm 2010 và thực hiện những biện pháp đảm bảo để bảo vệ sản xuất trong nước.

c. Thuế nhập khẩu của Indonesia:

Trong trường hợp các hàng rào phi quan thuế bị suy giảm, thuế trở thành yếu tố rất quan trọng quyết định cơ cấu bảo hộ. Mặc dù thuế trung bình nhìn chung còn tương đối cao nhưng Chính phủ Indonesia đã giảm được tương đối mức thuế trong thập kỷ trước. Trong thời kỳ 1985-1994, tỉ lệ thuế bình quân đơn giản, bao gồm cả thuế nhập khẩu giảm từ 27 xuống còn 20% hoặc nếu tính trên cơ sở thuế bình quân gia quyền giảm từ 13% xuống còn 8%. Mức thuế bình quân của sản xuất trong nước trong thời kỳ này cũng giảm từ 19% xuống còn 10%.

Sau hàng loạt các động thái phi điều tiết, hầu hết thuế áp dụng đều từ 0 đến 40%. Trong năm 1989, tỉ lệ thuế từ 0 đến 40% chiếm 77,4% các mức thuế. Tỉ lệ thuế từ 0 – 5% năm 1989 chiếm 30,7% tổng danh mục thuế, trong khi đó trong năm 1994, những tỉ lệ thuế này chiếm 34,5%. Trước khi tiến hành phi điều tiết cả gói vào 6/1994, 220 danh mục thuế được tăng thêm, nhưng sau khi phi điều tiết, số lượng danh mục giảm xuống còn 112.

Cuộc cải cách thuế trọn gói đưa ra năm 1995 đã thiết lập được một cơ cấu thuế ba tầng cho đến năm 2003 để thực hiện những cam kết CEPT-AFTA. Miễn thuế chỉ được áp dụng hạn chế cho những mặt hàng nông sản nhất định (gạo và đường), ngoài ra có bia, rượu, xe máy, chất hoá học và kim loại. Chương trình cải cách trọn gói tháng 6/1996 đề ra: (i) dự định thực hiện giảm thuế trong vòng 7 năm tới cho đến năm 2003; (ii) giảm 5% điểm cho thuế của hơn 1000 mặt hàng (có mã số HS 9 con số); (iii) tiếp tục giảm thuế cho những hàng hoá giá cao như máy móc phục vụ cánh đồng lúa; (iiii) hợp nhất thuế tăng nhập khẩu với thuế hải quan. Nếu chương trình giảm thuế này đựoc thực hiện theo kế hoạch thì thì thuế của Indonesia sẽ thấp nhất trong số các nước đang phát triển lớn.



d. Hạn chế xuất khẩu

Trái với việc nới lỏng thủ tục cấp phép cho hàng nhập khẩu, hàng xuất khẩu của Indonesia vẫn bị điều tiết bởi các nguyên tắc và biện pháp như cấm xuất khẩu, xuất khẩu bị điều tiết, xuất khẩu bị kiểm soát và thuế xuất khẩu. Việc áp dụng các biện pháp hạn chế xuất khẩu chủ yếu là nhằm: (i) tăng cường bảo vệ những nguồn lực khan hiếm; (ii) khuyến khích các ngành chế biến trong nước tăng giá trị gia tăng và công ăn việc làm; (iii) bảo vệ môi trường. Với mục tiêu như vậy, các biện pháp hạn chế xuất khẩu chủ yếu được áp dụng đối với những hàng nông sản và lâm sản chưa chế biến hoặc sơ chế.

Có hai nhóm hàng phải xin giấy phép của Bộ Thương mại khi xuất khẩu. Thứ nhất, nhóm hàng chỉ có thể được các nhà xuất khẩu đăng ký hoặc cho phép xuất khẩu như sản phẩm dệt, quần áo, xăng dầu, bột sắn viên, gia vị (như hạt tiêu), gỗ dán và gỗ chế biến. Thứ hai, các sản phẩm xuất khẩu thuộc sự kiểm soát của Chính phủ để đảm bảo đáp ứng đầy đủ nhu cầu trong nước (bao gồm các sản phẩm nông nghiệp và phân bón).Theo tính toán của Ngân hàng thế giới năm 1997, cho đến năm 1996, các biện pháp hạn chế xuất khẩu đã ảnh hưởng tới gần 2000 mặt hàng, chủ yếu là lâm sản và nông sản.

Trong năm 1996, Indonesia hầu như không đạt được tiến bộ nào trong việc giảm hạn chế xuất khẩu. Thay vào đó, nước này lại chỉ tập trung nới lỏng các hình thức hạn chế xuất khẩu (như hải quan, giảm thuế giá trị gia tăng, nới lỏng thuế và áp dụng chi phí tín dụng thấp hơn) đối với những nhà sản xuất về các mặt hàng nhất định. Tuy nhiên, sáng kiến này không những không giải quyết được các vấn đề cơ bản nảy sinh từ biện pháp xuất khẩu đặt ra mà còn loại bỏ những nhà xuất khẩu tiềm năng.



e. Bảo hộ trong nước:

Các chính sách thương mại đã làm chuyển dịch việc phân bổ các nguồn lực bằng cách thay đổi cơ cấu bảo hộ trong nhiều ngành của nền kinh tế. Nhìn chung, cho đến năm 1994, tỉ lệ bảo hộ hiệu quả của ngành chế tạo cao hơn rất nhiều so với ngành nông nghiệp (tỉ lệ bảo hộ đối với hàng nông sản chế biến, dệt và may mặc, sản phẩm giấy và sản phẩm phi kim loại lần lượt là 22, 62, 22 và 30% năm 1994).

Từ thập kỷ 60, Indonesia đã duy trì chính sách hai giá cho mặt hàng gạo. Thứ nhất là chính sách giá sàn nhằm giữ giá cổng trại cao hơn chi phí sản xuất. BULOG lúc đó là đơn vị giữ vai trò bình ổn, mua dự trữ tất cả số gạo thừa trên thị trường, đặc biệt là trong mùa gặt. Thứ hai là áp dụng giá trần để đảm bảo người thu nhập thấp cũng có thể mua được gạo vì giá gạo thường tăng mạnh vào mùa gieo trồng và lúc hạn hán. Trong những trường hợp như vậy, BULOG thường bán gạo với giá rẻ cho nhóm người khó khăn.

Sau gần 20 năm bất ổn định kinh tế chính trị dưới thời tổng thống Soekarno, thời tổng thống mới Soeharto áp dụng một phương thức hoàn toàn mới. Đầu tư tập trung mạnh vào kinh tế nông thôn để tăng sản lượng gạo và tiếp tục ổn định giá gạo là những chính sách chủ yếu được áp dụng giai đoạn này. Thực tế cho thấy những chính sách này rất thành công. Từ năm 1969 đến 1990, sản xuất gạo tăng 4,6%/năm, cao hơn nhiều so với tốc độ tăng dân số 2,1%/năm. Năng suất đất nông nghiệp tăng mạnh khoảng 2,7%/năm nhờ đầu tư mạnh của chính phủ vào cơ sở hạ tầng, xây mới và bảo dưỡng thuỷ lợi, trợ cấp phân bón và thuốc trừ sâu, xây dựng các chương trình dự trữ lúa gạo. Mặc dù chính sách bình ổn giá tạo ra một mức giá trong nước thậm chí còn ổn định hơn giá quốc tế nhưng lại có nguy cơ đe doạ đến nông dân, những người trả thuế, đặc biệt là thu nhập và phúc lợi của người dân. Ngoài ra, việc áp dụng chính sách bình ổn giá tổng thể cũng làm méo mó nền kinh tế, gây mất cân bằng thị trường và lạm dụng hoạt động thị trường, đặc biệt là trong giai đoạn khủng hoảng.

Ngoài ra, để bù đắp chi phí đầu vào cao cho nông dân, GOI đã ra thông tư trợ cấp giá phân bón cho nông dân từ tháng 11/2003, đảm bảo có đủ phân bón cho sản xuất lúa đến tận cấp huyện. GOI cũng tăng thuế nhập khẩu gạo từ 0% lên 30 % (430 Rp/kg) nhằm nâng cao lòng tin của nông dân và tạo động lực tăng sản xuất. Tuy nhiên GOI cũng thừa nhận rằng mức tăng thuế hiện nay cũng chỉ khiến cho buôn bán gạo bất hợp pháp tăng. Trong khi đó, hội nông dân vẫn tiếp tục yêu cầu Bộ Thương mại và Công nghệ và Bộ Tài chính tăng thuế nhập khẩu gạo lên 735 Rp/kg (tương đương với 51% - vẫn nằm trong khuôn khổ của WTO – 61%).


      1. Thai land

a. Chính sách thuế quan

Mặc dù Thái Lan tuân thủ theo quy định thuế quan của WTO nhưng hầu hết các dòng thuế đối với nông sản của nước này đều cao nhất trong số các nước ASEAN. Chính phủ Thái Lan sử dụng thuế như một công cụ tăng thu nhập và bảo vệ sản xuất trong nước. Trong báo cáo năm 2003 gửi WTO, Thái Lan đã cơ cấu lại chế độ thuế và thủ tục hải quan để tăng khả năng cạnh tranh. Trong hệ thống thuế mới, dự kiến thuế nhập khẩu sẽ giảm xuống còn 1% cho các sản phẩm thô, 5% cho các sản phẩm trung gian và 10% cho thành phẩm. Tuy nhiên cho đến nay, Thái Lan chưa đạt được mục tiêu này. Mặc dù thuế nông sản trung bình có giảm từ 32.7 % năm 1999 xuống còn 25.4% năm 2003, nhưng thuế suất nông sản hiện nay vẫn còn cao hơn nhiều so với mức 1-10%. Ngoài ra, năm 2003, thuế suất trung bình của nông sản (25.4%) vẫn cao hơn mức thuế của các sản phẩm phi nông nghiệp rất nhiều (12.9%).

Ngày 4/10/2003, Chính phủ Thái Lan tiếp tục cơ cấu lại lịch trình thuế quan cho 1511 mặt hàng (bao gồm 464 mặt hàng nông sản và 1047 mặt hàng công nghiệp) để tăng khả năng cạnh tranh của sản xuất trong nước và giải quyết sự không nhất quán trong cơ cấu thuế nhập khẩu hiện nay. Tuy nhiên, trên thực tế, 403 mặt hàng vẫn còn nằm trong danh sách chờ đàm phán thương mại quốc tế. Nếu xem chi tiết từng mức thuế, có thể thấy hầu như không có thay đổi nào về thuế cho các măt hàng nông sản.

Ngoài thuế cao, chính phủ cũng đang áp dụng mức phí xin giấy phép nhập khẩu không công bằng cho các sản phẩm thịt đỏ tươi sống, thịt gia cầm và lục phủ ngũ tạng. Thịt nhập khẩu phải chịu mức thuế cao hơn rất nhiều thịt sản xuất trong nước. Năm 1999, Quốc hội đã thông qua luật điều chỉnh các loại phí thu từ hoạt động thương mại và vận chuyển các sản phẩm chăn nuôi. Theo đó, Bộ Nông nghiệp đã chỉnh sửa lại mức phí xin giấy phép nhập khẩu cho thịt và lục phủ ngũ tạng. Phí áp dụng cho thịt đỏ vẫn giữ nguyên 5 baht/kg, trong khi mức phí của các sản phẩm khác đều tăng cao

Rõ ràng là hàng rào thương mại mà Thái Lan đang áp dụng không tuân thủ theo quy định của WTO do hầu hết các phí áp dụng cho thịt nhập khẩu đều cao hơn chi phí kiểm định thú y do Cục Chăn nuôi Thái Lan quy định. Phí trong nước hiện lên tới US$ 4/tấn thịt bò, US$ 4/tấn thịt trâu, US$ 15/tấn thịt lơn và US$ 17/tấn thịt gia cầm.

b. Hàng rào phi quan thuế

Thái Lan từ lâu đã cấm nhập khẩu gạo để bảo vệ nông dân. Tuy nhiên, theo hiệp định Nông nghiệp Uruguay, Thái Lan đã buộc phải mở cửa cho gạo nhập khẩu từ năm 1995. Bộ Thương mại hạn ngạch nhập khẩu gạo từ năm 1995 như sau:

Bảng 4.2. Hạn ngạch nhập khẩu gạo của Thái Lan 1995-2000 (tấn)

Năm

Lúa

Gạo Cargo

Gạo xay xát

Gạo tấm

Tổng

1995

95145

95145

23786

23786

237863

1996

95673

95145

23918

23918

239184

1997













240506

1998













241828

1999













243149

2000













244470

Số liệu hải quan cho thấy nhập khẩu thực chất năm 1999 tăng gấp đôi, tớI 1477 tấn, vớI giá trị 30,7 triệu baht (811 429 USD), so vớI 724 tấn và 562 nghìn USD năm 1998. Thái Lan nhập khẩu gạo chủ yếu của Mỹ, số ít của Nhật và Trung Quốc. Thái Lan câm xuất khẩu lúa.

c. Thuế suất trong hạn ngạch (TRQ)

Thái Lan được phép áp dụng TRQ cho 23 mặt hàng nông sản theo quy định của hiệp định nông nghiệp WTO. Các sản phẩm trong hệ thống này được chia thành 2 nhóm: nhóm thứ nhất bao gồm các sản phẩm xuất khẩu truyền thống (gạo, dừa) có khả năng cạnh tranh cao mà không cần bảo hộ. Nhóm thứ hai bao gồm các sản phẩm được sản xuất trong nước nhưng không đủ đáp ứng yêu cầu cao của ngành công nghiệp chế biến.

Trong những năm có đủ nguồn cung trong nước, Chính phủ sẽ hạn chế lượng nhập khẩu trong hạn ngạch, đủ để đáp ứng quy định của WTO. Việc quản lý TRQ của chính phủ Thái Lan rất hay thay đổi và không công khai, vì vậy không khuyến khích nhập khẩu.

d. Giấy phép nhập khẩu

Ngoài việc các nhà nhập khẩu thịt tươi sống và lục phủ ngũ tạng phải trả phí giấy phép nhập khẩu cho các dịch vụ kiểm dịch thú y, việc ban hành giấy phép nhập khẩu sản phẩm hợp vệ sinh cũng không được công khai và là một hàng rào cản trở thương mại. Cho đến năm 2003, Cục Chăn nuôi vẫn chưa cấp giấy phép nhập khẩu thịt gà và thịt lợn vì muốn bảo vệ thị trường trong nước, mặc dù Thái lan không hề cấm nhập khẩu gia cầm và thịt lợn. Việc cấp giấy phép nhập khẩu bò cũng phải mất đến 15 ngày. Nhà nhập khẩu phải xin giấy phép cho mỗi lần chuyên chở thịt nhập khẩu vào Thái Lan.

Từ tháng 1/2003, chính phủ Thái Lan ra quy định mới về kiểm soát nhập khẩu thức ăn gia súc, theo đó đối tượng xin giấy phép nhập khẩu phải tuân thủ quy định về điều kiện vệ sinh dịch tễ. Những quy định này cũng được sử dụng để cấm nhập khẩu các mặt hàng khác. Chỉ có các mặt hàng được kiểm định và phê chuẩn của chính phủ nước xuất khẩu và chính phủ Thái Lan mới được phép nhập khẩu vào Thái Lan. Bộ NN và HTX Thái Lan đươc phép từ chối không cho nhập khẩu các loại hàng hoá không tuân theo quy định này và cơ quan nhập khẩu sẽ phải chịu mọi phí tổn có liên quan.

Thực chất Thái Lan thực hiện quy định này là do nhận thấy sức ép mở cửa thị trường của các hiệp định thương mại đa phương (AFTA, WTO…). Ngoài ra, đây cũng là động thái trả đũa những quy định nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi ngặt nghèo của EU có thể ảnh hưởng đến việc xuất khẩu tôm và gia cầm sang EU. Vì vậy, Thái Lan đã chuyển hàng rào quan thuế thành phi quan thuế để bảo vệ ngành nông nghiệp trong nước khỏi sự hàng nhập khẩu tràn lan và tránh mất khả năng tiếp cận tới thị trường EU.



e. Hỗ trợ xuất khẩu

Tháil Lan cam kết không cung cấp hỗ trợ xuất khẩu trực tiếp cho nông dân mặc dù đề nghị có thời gian chuyển tiếp khi thực hiện hiệp định WTO. Tuy nhiên, Chính phủ lại hỗ trợ gián tiếp cho các nhà xuất khẩu nông sản và các nhà chế biến nông sản xuất khẩu. Chẳng hạn như ngân hàng xuất nhập khẩu EXIM triển khai chương trình tái hỗ trợ cho các đơn vị xuất khẩu. Ngân hàng EXIM cũng triển khai một chương trình mới vào năm 2003 để tái hỗ trợ lãi xuất khẩu cho đơn vị nào xuấtt khẩu đến các thị trường mới (41 nước). Chính phủ cũng hỗ trợ xuất khẩu bằng cách đầu tư cho các nhà máy sản xuất hàng xuất khẩu. Uỷ ban đầu tư (BOI) đã miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong mọt thời gian ân hạn. BOI cũng giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cho các nhà máy đã đạt được mức tăng thu nhập xuấ khẩu so với năm trước.



f. Hỗ trợ trong nước

Mặc dù chính phủ không có chương trình bảo đảm giá cho các mặt hàng nông sản nhưng đã can thiệp vào thị trường một số mặt hàng để ổn định giá cho nông dân. Các biện pháp can thiệp bao gồm: a) chương trình thế chấp bằng lúa và ngô; b) can thiệp giá cao su, dầu cọ, cà phê, hàng, dứa, trức và gà sống...; c) chương trình can thiệp giá chung cho đường và d) can thiệp giá trong nước cho đậu tương và sữa tươi bằng cách buộc các nhà máy chế biến mua đậu tương/sữa tươi trong nước. Chính phủ Thái Lan vẫn tập trung vào các chương trình thế chấp bằng lúa. Tuy nhiên, rất ít nông dân tham gia vào chương trình này do giá thị trường cao hơn giá chính phủ. Chương trình năm 2003/04 (kéo dài từ 1/11/2003 đến 15/3/2004) dự kiến mua 9 triệu tấn lúa (trong đó có 5 triệu tấn lúa thơm và 3 triệu tấn lúa thường và một triệu tấn lúa nếp). Cho đến ngày 14/3/2004, chương trình chỉ thu mua được 2,4 triệu tấn (gồm 0,2 triệu tấn lúa thơm, 2,1 triệu tấn lúa thường và 0,05 triệu tấn lúa nếp). Ngoài ra, giá trong vụ thứ hai năm 2004 của chương trình này đã được định cao hơn khoảng 12USD/tấn cho mỗi loại.

Tổ chức tiếp thị của nông dân (MOF) và Tổ chức Dự trữ quốc gia (PWO) đã can thiệp vào thị trường khi giá lúa xuống dưới mức giá mục tiêu. Hai cơ quan này được phép mua tới 1 triệu tấn gạo xay xát với giá cao hơn giá thị trường khoảng 500 baht/tấn và thuê cơ sở xay xát chế biến và chở đến nhà kho để tạo nhu cầu giả và bán gạo theo các hợp đồng chính phủ. Do các cơ sở xay xát không thể cạnh tranh mua lúa nên phần lớn đã phải ngừng hợp tác với chính phủ trong việc xay lúa và chỉ bán gạo vỡ và tấm với giá 500 baht/tấn. Nếu hợp tác với chính phủ, họ sẽ không phải chấp nhận rủi ro về chi phí.

g. Các chương trình hỗ trợ khác

Chính phủ cũng triển khai các chương trình hỗ trợ nhằm giảm chi phí sản xuất nông nghiệp. Chẳng hạn như chính phủ hỗ trợ giá giống cây trồng hoặc cấp đầu vào nông nghiệp cho những nông dân bị ảnh hưởng bởi thiên tai. Cục Chăn nuôi tiếp tục chương trình cung cấp vacine và nhân giống nhân tạo cho nông dân ở khu vực nông thôn.

Tháng 6/1999, Bộ Nông nghiệp Thái đưa ra chương trình đầu tư theo chiều sâu để tăng cường khả năng cạnh tranh của 12 mặt hàng chủ lực gồm:

* Nhóm có khả năng cạnh tranh cao như gạo, sắn, caosu, tôm càng, dứa

* Nhóm cạnh tranh trung bình như đường, dầu cọ, ngô, cà phê

* Nhóm đặc sản: nhãn, sầu giêng, hoa phong lan.

Để giúp ngành công nghiệp chế biến đương đầu với cạnh tranh quốc tế, các nhà đầu tư đã chấp nhận áp dụng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng “hệ thống quản lý môi trường” (EMS) cho các sản phẩm chế biến. Cố gắng này giúp sản phẩm của Thái đạt tiêu chuẩn quốc tế như ISO 14000 và vượt các rào cản về kỹ thuật để vào thị trường quốc tế.

Ngân hàng Nông nghiệp và HTX Nông nghiệp được thành lập năm 1996 cũng cung cấp tín dụng rộng rãi trực tiếp cho nông dân và gián tiếp qua các tổ chức nông dân. Do tỉ lệ lãi xuất thị trường giảm trong những năm gần đây nên nông dân có thể không nhận được mức lãi suất thấp hơn mức thị trường như trước đây. Nhưng nông dân Thái Lan vẫn thích vay từ ngân hàng do được vay dài hạn và hệ thống ngân hàng nhánh hoạt động tốt. Đến tháng 3/2003, ngân hàng đã cho 3,6 triệu nông dân vay 2,4 tỉ USD và cho 969 HTX nông nghiệp vay 0,69 tỉ USD.

Ngân hàng xuất nhập khẩu cũng hoạt động mạnh. Trong năm 1996, các hoạt động như cho vay với lãi suất thấp, tránh rủi ro về tỷ giá ngoại tệ cuả doanh thu xuất khẩu đã phát triển mạnh. Hiện nay ngân hàng xuất nhập khẩu ưu tiên cho việc cung cấp tài chính trước khi bốc hàng, một dịch vụ mà các nhà xuất khẩu và đầu tư của Thái Lan đang rất cần.

Ngoài ra, ngân hàng Thái Lan cũng cung cấp tín dụng cả gói cho cơ sở xuất khẩu và xay xát gạo. Chính phủ đã cung cấp cho ngân hàng EXIM 20 triệu baht để thực hiện chương trình này.

Tín dụng xuất khẩu bao gồm tín dụng trước và sau xuất khẩu. Đối với tín dụng trước xuất khẩu, người xuất khẩu có thể vay để mua nguyên liệu thô, chuẩn bị sản xuất và trả phí vận chuyển. Để được vay cho lưu kho, nhà xuất khẩu phải sở hữu một lượng hàng hoá nhất định và có thể bổ sung thêm để đủ đáp ứng đơn đặt hàng. Trong trường hợp nhà xuất khẩu muốn vay để mua thêm hàng hay thanh toán chi phí vận chuyển thì có thể dùng hàng hoá làm thế chấp và được vay tới 50% giá trị hàng hoá mà người xuất khẩu có. Nếu người xuất khẩu chưa có L/C (giấy phép) nhưng cần tiền thì được phép vay tới 70% lượng hàng trong thời hạn không quá 10 ngày sau thời điểm chất hàng lên tầu. Nhà xuất khẩu cũng có thể vay để trang trải phụ thu đối với gạo và đường.

Đối với tín dụng sau xuất khẩu, nhà xuất khẩu có thể vay để thanh toán khi có đủ các giấy tờ xuất khẩu như hoá đơn, chứng nhận xuất xứ.





      1. Malaysia

Trong những năm đầu sau khi giành được độc lập, chiến lược phát triển nông nghiệp chủ yếu tập trung vào mục tiêu cung cấp công ăn việc làm, tăng thu nhập và tiết kiệm ngoại hối thông qua phát triển các loại cây xuất khẩu như cao su, cọ dầu, cacao; trú trọng các chính sách thay thế nhập khẩu.

Rất nhiều ngành nông nghiệp được bảo hộ thông qua các hình thức thuế và phi quan thuế như hạn ngạch và những rào cản nhập khẩu khác. Ngoài ra Chính phủ cũng trú trọng tăng cường an ninh lương thực, nhằm đạt được mục tiêu tự cung tự cấp 100% sản xuất gạo trong nước. Đồng thời, tiểu ngành cây xuất khẩu cũng bị đánh thuế rất nặng nề để tăng doanh thu cho chính phủ nhằm tài trợ cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, xây dựng thể chế và phát triển đất.

Chính sách nông nghiệp quốc gia đầu tiên được đưa ra năm 1984 nhằm tối đa hoá thu nhập từ nông nghiệp thông qua sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của đất nước và tăng năng suất. Những chiến lược mới vẫn trú trọng khai hoang đất và cải thiện điều kiện hiện nay, như nghiên cứu và phát triển, khuyến nông và thị trường.

Giai đoạn 1984 - 1990: Ngành nông nghiệp đang vấp phải những khó khăn nghiêm trọng như chính sách hướng vào công nghiệp chế tạo, thiếu lao động, lương ngày càng tăng, cạnh tranh đất… Chính vì vậy NAP thứ hai (1992 – 2010) ra đời, để giải quyết các vấn đề như năng suất, hiệu quả và tính cạnh tranh trong điều kiện phát triển bền vững, đặc biệt là phát triển đất và tạo thêm cơ hội việc làm.



a. Chính sách đầu tư

Năm 1986, đạo luật tăng cường đầu tư (PIA) ra đời nhằm khuyến khích đầu tư và tăng trưởng trong nền kinh tế, giảm một phần hoặc toàn bộ gánh nặng chi trả thuế thu nhập.



b. Chính sách tự do thương mại:

Mặc dù can thiệp giá trong nhiều năm nhưng chính phủ vẫn cố gắng tự do hoá từng bước. Theo chương trình trước đây, tất cả các loại gạo của cơ sở xay xát, người bán buôn và bán lẻ đều bị kiểm soát. Hiện nay, chính phủ chỉ kiểm soát giá của gạo tiêu chuẩn và gạo sơ chế. Giá gạo chất lượng cao nhất hiện đang được thả nổi và do các lực lượng thị trường quyết định.

Vào năm 1995, hiệp định nông nghiệp trong vòng đàm phán Uruguay đã được ký kết, tập trung vào kiểm soát trợ cấp trong nước và trợ cấp xuất khẩu để giảm tối đa những méo mó trện thị trường thế giới. Theo các điều khoản trong thoả thuận, Malaysia chỉ thoả mãn yêu cầu về khả năng tiếp cận của gạo đối với thị trường nhưng vẫn vi phạm điều khoản về trợ cấp trong nước.

c. Các quy định về kiểm dịch hàng nhập khẩu

Tất cả các loại lương thực thực phẩm nhập khẩu đều phải kiểm tra thường xuyên tại 28 chợ điểm trong cả nước để đảm bảo lương thực an toàn, đáp ứng các yêu cầu về tiêu chuẩn chất lượng. Tất cả các sản phẩm đều phải được chứng nhận là halal và sản phẩm phải được đưa đến từ các lò mổ được các cơ quan thú y và tôn giáo kiểm định. Các sản phẩm lương thực khác có chứa sản phẩm thịt chăn nuôi phải được đánh dấu rõ ràng.



d. Chính sách thuế

Malaysia có một nền thương mại khá tự do, áp dụng mức thuế tương đối thấp cho hầu hết các sản phẩm. Năm 1993, thuế trung bình và thuế theo giá hàng là 14%. Thuế trung bình cho ngành nông nghiệp chỉ ở mức 13,4%. Mức độ bảo hộ thuế thường xuyên được xem xét lại để điều hoà cơ cấu thuế và giảm bảo hộ quá mức. Trong nhiều trường hợp thuế đánh vào các sản phẩm thường được điều chỉnh giảm xuống, ngoại trừ các sản phẩm được coi là sa xì phẩm và không lành mạnh như xe ô tô, thuốc lá và rượu.



e. Chính sách hỗ trợ trong nước

Chính phủ bảo hộ một số ngành nông nghiệp vì những lý do chiến lược và kinh tế xã hội. Sự bảo hộ này được áp dụng trong những ngành có số lượng hộ nghèo lớn như gạo, chăn nuôi, thuốc lá và quả nhiệt đới, cà phê và bắp cải.

Trong ngành sản xuất gạo, một mạng lưới can thiệp chính sách được áp dụng nhằm điều tiết và bảo vệ ngành, đảm bảo an ninh lương thực, tăng cường thu nhập của nông dân trong ngành sản xuất gạo. Những biện pháp can thiệp này bao gồm độc quyền nhập khẩu, giá tối thiểu được đảm bảo (GMP) cho lúa, kiểm soát giá ở các nhà máy say xát, giá bán buôn và bán lẻ, trợ cấp phân bón, trợ cấp giá, cải thiện thiết bị tưới tiêu nước và hỗ trợ nghiên cứu và phát triển.

Trợ cấp phân bón

Chương trình trợ cấp phân bón đầu tiên được thực hiện vào đầu những năm 50 với mục tiêu khuyến khích nông dân dùng phân bón. Và từ đó cho đến năm 1971, mức trợ cấp tăng 30%. Tuy nhiên đây cũng chỉ là giải pháp tạm thời. Chương trình sẽ chấm dứt khi giá phân bón giảm. Nhưng trên thực tế, giá phân bón không giảm mà lại tăng, buộc chính phủ phải thực hiện chương trình trợ cấp phân bón toàn diện hơn vào năm 1979, và sau đó là trợ cấp 100%. Chương trình này chỉ dành cho các chủ đất chứ không phải người thực hiện. Tổng giá trị trợ cấp phân lên tới 231 triệu RM/ha (33% tổng chi phí sản xuất một ha). Vào năm 1997, tổng trợ cấp phân bón tăng thêm 22 triệu RM, đáp ứng yêu cầu của nông dân, do lúc đó chi phí sản xuất tăng cao và đồng ringgit của Malaysia bị giảm giá trị.



Trợ cấp giá

Chương trình được đưa ra dưới hình thức một giá tối thiểu được bảo đảm (GMP) và trợ cấp giá. GMP được đưa ra lần đầu tiên sau khi Malaysia giành độc lập năm 1957, lúc đó thu nhập của người trồng lúa xuống quá thấp. Theo chương trình này, một mức giá sàn được ấn định khoảng 250 RM/tấn. Tuy nhiên chương trình này không tăng được thu nhập cho người trồng lúa và cũng không giảm được đói nghèo, do chương trình không có khả năng tiếp tục hỗ trợ cho thu nhập của người sản xuất trong khi đó lại bảo vệ người tiêu dùng không phải chịu mức tăng giá cao. Kết quả là trong thập kỷ 70, chính phủ đã phải tiến hành những biện pháp trực tiếp hơn bằng cách kiểm soát giá gạo. Để thực hiện được điều này, một cơ quan chuyên trách đã được thiết lập (LPN) tham gia vào quá trình chế biến và giải quyết đầu ra cho lúa. Biện pháp kiểm soát giá đã đảm bảo mức giá gạo công bằng cho mọi người tiêu dùng, trong khi đó can thiệp của chính phủ trong việc thu mua, chế biến và bán lúa đã làm tăng cạnh tranh trên thị trường. Vào năm 1974, mức giá tối thiểu được bảo đảm cho những giống lúa hạt dài được áp đặt ở mức 429,9 RM/tấn, cho giống lúa chất lượng cao là 496 RM/tấn và giống lúa chất lượng trung bình là 433 RM/tấn (năm 1979). Chương trình trợ cấp giá chính thức lần đầu tiên được đưa ra trong thập kỷ 80, theo đó nông dân trồng lúa được nhận khoản trợ cấp 33 RM/tấn cho mỗi riggit bán ra. Năm 1982, tỉ lệ này tăng lên 167 RM/tấn và đến năm 1990, con số này được điều chỉnh lại là 248 RM/tấn.



      1. Philipines

a. Chính sách thương mại

Chính sách thương mại Philipin thay đổi qua nhiều thời kỳ. Trước năm 1950, Philipin thực hiện tự do thương mại, tái thiết đất nước và kiểm soát nhập khẩu. Trong thời kỳ này, hiệp định tự do thương mại Philipin ký với Mỹ đã khiến cho nước này phụ thuộc nặng nề vào thị trường Mỹ về xuất khẩu hàng sơ cấp như đường, sản phẩm dừa, chuối và sản phẩm lâm nghiệp. Luật thương mại Philipin hay Bell Trade Act năm 1946 cố định tỷ giá hối đoái giữa đồng tiền hai nước: 2 peso =1 USD.

Những năm 1950: chính sách của nước này là kiểm soát hối đoái, thay thế nhập khẩu. Ngược lại, đến những năm 1960, Philipin lại chuyển sang xoá bỏ kiểm soát, phá giá tiền tệ và áp dụng các chính sách tài chính, tiền tệ mở. Đầu năm 1960, Ngân hàng Trung ương đưa ra chính sách hối đoái đa tỷ lệ, sau đó là thả nổi đồng peso. Tới những năm 1970, chính sách của nước này lại là kiểm soát nhập khẩu, thúc đẩy xuất khẩu, can thiệp rộng rãi của chính phủ. Những năm 1980 là thời kỳ khủng hoảng kinh tế và phục hồi, phá giá tiền tệ, tự do hoá thương mại từng phần. Năm 1981, Philipin tiến hành chương trình cải cách thương mại là một phần của chương trình Cho vay Điều chỉnh Cơ cấu của Ngân hàng Thế giới. Cải cách thương mại gồm 2 phần: chương trình cải cách thuế quan (TRP) 1981-1985 và Kế hoạch Tự do hoá Nhập khẩu (ILP). TRP đưa ra một tỷ lệ bảo hộ thống nhất trong và giữa các ngành kinh tế, giảm tỷ lệ bảo hộ hiệu quả (EPRs) và giảm thuế suất từ 100% xuống còn 50%. Ngoài ra còn bỏ hạn chế số lượng nhập khẩu, thuế xuất khẩu. Những năm 1990 là thời kỳ cải cách thuế quan, tự do hoá nhập khẩu, thực hiện các cam kết WTO, AFTA-CEPT và APEC.

Trước thách thức của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, Philippine quyết định thay đổi chính sách từ bảo trợ sản xuất sang tăng cường cạnh tranh. Trước đây chính sách của nước này là trợ giá lúa, ngô, hỗ trợ đảm bảo tín dụng, hạn chế nhập khẩu nông sản, tự do nhập khẩu vật tư, bao cấp hệ thống khuyến nông của chính phủ. Cuối 1997 đầu 1998 Philippine ban hành “Luật Hiện đại hoá Nông Ngư nghiệp” (AFMA), bất đầu áp dụng 3/1998 và là chương trình phát triển trọng tâm của nông nghiệp nước này hiện nay. Nội dung chính của chiến lược này như sau:

* Chuyển hướng sản xuất từ dựa vào tài nguyên sang dựa vào khoa học công nghệ.

* Đảm bảo cho mọi đối tượng tham gia sản xuất có khả năng tiếp cận công bằng đối với loại tài sản, tài nguyên, dịch vụ.

* Phát triển cây trồng có giá trị cao, chế biến để tăng giá trị hàng hoá, hoạt động kinh doanh và công nghiệp nông thôn

* Đảm bảo an ninh lương thực

* Khuyến khích liên kết kinh tế thông qua các tổ chức: Hợp tác xã, hiệp hội, công ty, trang trại,...

* Tăng cường phát triển tài nguyên con người thông qua các tổ chức nhân dân, hợp tác xã và tổ chức phi chính phủ, xây dựng cơ chế kết nối các tổ chức này với quá trình ra quyết định của chính phủ.

* Đẩy mạnh định hướng thị trường để phát triển khả năng cạnh tranh của ngành trên thị trường thế giới.

Gần đây, chính phủ Philipines đã thông qua đạo luật nâng thuế giá trị gia tăng từ 10% lên 12%. Trong khi đó, khoảng 1/2 thu nhập của hộ gia đình giành cho chi tiêu lương thực, vì vậy, việc tăng thuế VAT sẽ ảnh hưởng xấu đến tiêu thụ lương thực thực phẩm, làm tăng tỉ lệ lạm phát lên tới 4-5%.



b. Chính sách ngành hàng

* Chính sách nhập khẩu gạo:

Chính phủ, thông qua NFA, giữ thế độc quyền trong nhập khẩu gạo. Một Uỷ ban liên Bộ đặt ở Bộ Nông nghiệp giám sát mức cung gạo và kiến nghị lượng gạo cần nhập. Tuy nhiên, gạo được nhập khẩu dựa trên từng quyết định cụ thể, vì vậy nhập khẩu sớm hoặc muộn và thường chậm trễ so với nhu cầu, làm hạ giá hoặc tăng giá gạo quá mức.

Theo luật pháp của Philipin thì từ trước đến nay chỉ có NFA (cơ quan lương thực quốc gia) mới có quyển nhập khẩu gạo, nhưng hiện nay phương thức này đã thay đổi. NFA đề ra kế hoạch khung để tư nhân hoá ngành kinh doanh gạo dựa trên chương trình nghị sự gồm 10 điều của tổng thống Estrada nhằm loại bỏ yếu tố độc quyền trong kinh doanh gạo. Điều luật mới đảm bảo sẽ không có một công ty nào có thể gây lũng đoạn thị trường nhằm trục lợi vì một đơn vị kinh doanh chỉ được phép nhập khẩu tối đa 15 nghìn tấn. Tuy vậy, nhập khẩu gạo tư nhân gây một số khoản chi phụ khác khiến giá gạo tăng khoảng 0,5 peso/kg. Vì vậy, Philipin phải giảm thuế đánh vào gạo nhập khẩu.

Để giảm chi tiêu ngoại hối, NFA thực hiện một chương trình hàng đổi gạo. Theo đó, Philipines trả tiền mua gạo bằng nông sản sản xuất trong nước. Tuy nhiên, vấn đề này cần nghiên cứu thêm vì hai nước xuất khẩu gạo chính sang nước này là Thái Lan và Việt Nam cũng có những mặt hàng nông sản tương tự và theo hiệu định trao đổi hàng hoá trước đây, cả hai bên đã vấp phải các vấn đề như số lượng trao đổi, thời gian giao hàng và cách định giá trị sản phẩm.



* Chính sách thuế nhập khẩu thịt lợn

Mức thuế nhập khẩu trung bình năm 2004 là khoảng 40% đối với thịt gà, 10% đối với thịt bò và 30% (trong hạn ngạch) và 40 (ngoài hạn ngạch) đối với thịt lợn. Mức thuế nhập khẩu xúc xích, lạp xường thịt lợn tăng khoảng 10% điểm, từ 30% đến 40%. Trong khi đó, thuế cho đồ ăn sẵn nhập khẩu không thay đổi, ở mức 40%.



    1. Kết luận

Khu vực Đông Nam Á là khu vực phát triển khá mạnh về nông nghiệp, với mức tăng trường GDP nông nghiệp bình quân đạt 1,7%/năm giai đoạn 1992-2002. Trong 10 nước ASEAN có 5 nước thành viên phát triển mạnh nông nghiệp là Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Philippin và Việt Nam. Tuy nhiên, đóng góp của Nông nghiệp vào nền kinh tế của 4 nước này đều giảm trong giai đoạn 1992-2002. Lao động nông nghiệp trong tổng lao động cũng có xu hướng giảm ở các nước này.

Lúa gạo là mặt hàng nông sản chủ yếu trong khu vực với các nước sản xuất chính là Thái Lan, Việt Nam và Indonesia. Sản xuất lương thực của Indonesia không ổn định do thời tiết bất thường và những thay đổi trong chính sách của chính phủ. Năng suất trung bình đạt rất cao, 4,4-4,5 tấn/ha (cao gấp đôi Thái Lan). Từ thập kỷ 90, Indonesia bắt đầu phải nhập khẩu gạo với lượng nhập khẩu không ổn định nhưng ở mức cao. Diện tích và sản lượng lúa (tăng trung bình 2,5%/năm) của Thái Lan tăng liên tục, nhưng năng suất thấp và tập trung nhiều vào lúa đặc sản, gạo thơm. Sản xuất lúa gạo của Malaysia chỉ chiếm 0,4% sản lượng thế giới. Mặc dù diện tích trồng lúa tăng mạnh nhưng vụ 2004, sản xuất gạo giảm 3,4%. Năng suất lúa trung bình năm 2004 cũng giảm do lũ lụt và cỏ dại. Dự kiến năm 2005, sản xuất gạo ở khu vực châu Á sẽ tăng 15 triệu tấn so với năm 2004, trong đó sản xuất gạo của Malaysia và Thái Lan sẽ tăng, sản xuất gạo của Indonesia giảm đôi chút, sản xuất của Việt Nam và Philipines vẫn duy trì ở mức năm 2004.

Buôn bán gạo trong nội khối ASEAN cũng khá sôi động. Thái Lan và Việt Nam là hai nước xuất khẩu chính trên khu vực và thế giới, chiếm 27 và 13% tổng lượng xuất khẩu thế giới. Trong đó, xuất khẩu gạo đặc sản và gạo thơm của Thái Lan tăng liên tục do nhu cầu nhập khẩu mạnh của Trung Quốc và Malaysia. Các nước nhập khẩu gạo chính của khu vực là Indonesia, Malaysia và Philipines. Lượng nhập khẩu gạo của Indonesia giai đoạn 1990-1995 tăng mạnh. Sau năm 1995, lượng nhập khẩu vẫn cao nhưng biến động bất thường. Malaysia cũng nhập khẩu nhiều của Thái Lan và Việt Nam, tăng mạnh trong 2 năm trở lại đây. Dự báo nhập khẩu gạp của gạo của Châu Á đạt 11,5 triệu tấn trong năm 2005, trong đó nhập khẩu của Malaysia và Philipines sẽ tăng trong năm 2005, trong khi Indonesia vẫn sẽ duy trì lượng nhập khẩu như năm 2003 và 2004.

Tiêu thụ gạo trong nước của Indonesia đạt cao nhất châu Á (123kg/người/năm), so với mức 102 kg/người/năm của Malaysia, 110 kg/người/năm của Thái Lan và chỉ 60 kg/người/năm của Nhật Bản. Năm 2002, dự kiến tiêu thụ gạo của Thái Lan và Philipines sẽ tăng nhờ giá gạo ổn định và giá lúa mỳ tăng cao.

Philipines, Thái Lan và Việt Nam là 3 nước sản xuất thịt lợn chính của khu vực Đông Nam Á với sản xuất tăng bình quân 5,3%/năm, trong đó sản xuất thịt lợn của Việt Năm tăng trên 7%, Thái Lan 4% và Philipines 6%/năm. Các nước nhập khẩu thịt lợn bao gồm Malaysia và Philipines, trong đó nhập khẩu của Philipines chiếm trên 10% tổng mức tiêu thụ trong nước, chủ yếu nhập từ Trung Quốc, Nam Triều Tiên, Pháp và Mỹ. Dự kiến nhập khẩu thịt lợn chế biến của khu vực sẽ tăng mạnh do xu hướng tích tiêu thụ đồ tây và thu nhập tăng.

Thái Lan và Philipines là hai nước sản xuất dứa lớn của khu vực Đông Nam Á, và là 2 trong 5 năm nước sản xuất dứa chính trên thế giới. Sản lượng dứa của Thái Lan có xu hướng tăng nhưng không ổn định do bị ảnh hưởng mạnh bởi biến động giá. Sản lượng dứa của Philipines tăng liên tục. Xuất khẩu dứa nước này cũng chiếm thị phần lớn trên thế giới với lượng dứa xuất khẩu của Thái Lan chiếm 25% thị phần thế giới. Sản phẩm dứa xuất khẩu chủ yếu của nước này là dứa đóng hộp, nước ép dứa và dứa cô đặc.

3 nước sản xuất hạt tiêu lớn của khu vực ASEAN là Việt Nam, Malaysia và Indonesia với tốc độ tăng sản lượng bình quân đạt 18%, 1,4% và 0,6%/năm trong giai đoạn 1991-2002. Sản xuất tiêu của Indonesia biến động lớn do thời tiết và giá thế giới, năng suất trung bình đạt 0,8 tấn/ha, thấp hơn nhiều so với Malaysia (2 tấn/ha) và Việt Nam (3,2 tấn/ha). Tới 94% sản lượng tiêu của nước này được xuất khẩu ra các thị trường trên thế giới nhưng không xuất sang khu vực ASEAN. Sản lượng tiêu của Malaysia chiếm tới 9,6% tổng sản lượng thế giới, chiếm 18% tổng lượng xuất khẩu. Tuy nhiên, nước này cũng không xuất khẩu nhiều hạt tiêu vào thị trường ASEAN. Như vậy buôn bán tiêu nội khối trong khu vực ASEAN không đáng kế.

Việt Nam, Myanmar và Indonesia là 3 nước sản xuất chè lớn nhất khu vực. Diện tích trồng chè của Indonesia và Myanmar tăng dần, khoảng 1,2 lần từ năm 1990 đến 2003. Sản phẩm chè chủ yếu là chè đen, với 80% sản lượng ở Indonesia được xuất khẩu. Xuất khẩu chè của nước này đứng đầu thế giới với mức tăng xuất khẩu đạt hơn 1%/năm từ năm 2000 đến nay.

Như vậy, trong số 5 mặt hàng trên, gạo là hai mặt hàng được trao đổi buôn bán lớn trong nội khối ASEAN. Trao đổi thương mại nội khối mặt hàng thịt lợn có tiềm năng khá lớn trong khu vực ASEAN do nhu cầu của các nước như Malaysia và Philipines tăng mạnh. Tiềm năng buôn bán nội khối của các mặt hàng dứa, hạt tiêu và chè không lớn lắm do hiện tại, nhu cầu của 3 mặt hàng này ở các nước trong khu vực vẫn còn nhỏ.


  1. ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG CẠNH TRANH MỘT SỐ SẢN PHẨM NÔNG SẢN VIỆT NAM

Phần này sẽ nghiên cứu về khả năng cạnh tranh của một số nông sản trong bối cảnh hội nhập AFTA, gồm: lúa gạo, chăn nuôi (tập trung vào sản phẩm thịt lợn), chè, dứa xuất khẩu và tiêu.

Nghiên cứu về tình hình sản xuất, xuất khẩu một số loại nông sản của các nước ASEAN (Chương II) cho thấy, có một số sản phẩm Việt Nam chịu sự cạnh tranh rất mạnh từ các nước trong khối ASEAN như gạo từ Thái Lan; dứa từ Thái Lan, Philipin; chăn nuôi (nhất là sản phẩm gà) từ Thái Lan; tiêu từ Indonesia, Malayssia; chè từ Indonesia. Tuy nhiên bên cạnh các nước trong khối ASEAN, Việt Nam còn chịu sự cạnh tranh rất lớn từ các quốc gia khác. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu, sự cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ. Việc xây dựng các hiệp định ký kết trong thời gian tới giữa ASEAN và Trung Quốc, ASEAN với Ấn Độ, ASEAN và Nhật Bản hay Hàn Quốc sẽ tạo ra những cơ hội mở rộng thị trường tuy nhiên cũng sẽ mang lại sự cạnh tranh ngày càng gắt gắt và đây là thách thức không nhỏ đối với Việt Nam và cả các nước xuất khẩu khác.

    1. Lúa gạo



      1. Tình hình sản xuất và xuất khẩu



Kể từ cuối thập kỷ 80, sản xuất gạo của Việt Nam có sự phát triển mạnh mẽ. Diện tích lúa tăng đều từ khoảng 6 triệu ha năm 1990 lên trên 7,6 triệu ha năm 2000. Mặc dù có sự giảm xút nhẹ trong mấy năm gần đây do sự chuyển đổi một số vùng năng suất thấp sang nuôi trồng thuỷ sản và phát triển cây trồng khác có giá trị cao hơn nhưng Chính phủ chủ trương giữ diện tích lúa trên 7 triệu ha.

Bên cạnh đó, nhờ các chính sách đầu tư của Nhà nước về giống, thuỷ lợi, năng suất lúa có sự tăng lên đáng kể, đạt bình quân trên 4,6 tấn/ha năm 2004, gấp 2 lần so với những năm đầu thập kỷ 80.

Nhờ sự tăng lên diện tích và năng suất, sản lượng lúa tăng liên tục từ 19,2 triệu tấn năm 1990 lên trên 35 triệu tấn năm 2004. Hiện nay Việt Nam không những đã đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước và trở thành nước xuất khẩu gạo thứ 2 trên thế giới.

Hình 5.1. Diện tích và năng suất lúa Việt Nam 1990-2004





Nguồn: MARD

Mặc dù có sự tăng trưởng khá nhanh nhưng sản xuất lúa của Việt Nam còn nhiều hạn chế, nhất là ĐBSH nơi diện tích lúa bình quân hộ rất manh mún, rời rạc. Điều này hạn chế rất lớn việc áp dụng công nghệ tăng năng suất và hiệu quả canh tác. Để khắc phục hạn chế này trong thời gian gần đây, Chính phủ có chính sách khuyến khích quá trình tích tụ ruộng đất. Tuy nhiên quá trình này mới chỉ ở giai đoạn đầu và quá trình tích tụ còn diễn ra rất chậm.

Bên cạnh khó khăn về đất đai, tổn thất sau thu hoạch đối với lúa ở Việt nam khoảng 13 – 16%, trong đó 3 khâu tổn thất lớn nhất là phơi sấy, bảo quản và xay sát, 3 khâu này chiếm tới 68 – 70% tổng số hao hụt. Trong khi đó, tổng số hao hụt sau thu hoạch đối với lúa của Nhật chỉ có 3,9 – 5,6%. Lúa vụ Hè Thu ở các tỉnh ĐBSCL có mức tổn thất còn lớn hơn vì thu hoạch vào mùa mưa. Do không đủ thiết bị phơi sấy, tình trạng lúa bị nảy mầm, bốc nóng, mốc khá phổ biến. Với sản lượng 32 triệu tấn thóc, nếu chỉ tính với tỷ lệ tổn thất là 13% thì mỗi năm nước ta mất đi một lượng thóc là 4 triệu tấn, tương đương 4000 - 4500 tỷ đồng.

Bắt đầu từ thập kỷ 90, xuất khẩu gạo của Việt Nam tăng mạnh. Nếu như trong năm 1990 Việt Nam mới chỉ xuất được 1,48 triệu tấn thì năm 1999, lượng gạo xuất khẩu từ Việt Nam đã đạt mức kỷ lục là 4,6 triệu tấn. Tuy nhiên kể từ năm 2000 đến nay do giá cả thế giới bất lợi nên xuất khẩu gạo của Việt Nam có phần giảm xút.

Hình 5.2. Lượng và kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam, 1991-2004



Nguồn: MARD

Trong 15 năm gần đây tốc độ tăng trưởng của sản xuất lúa gạo khá ổn định, tỉ lệ xuất khẩu trong tổng sản lượng gạo đã tăng từ 9,5% trong năm 1990 lên tới 26,7% trong năm 1999. Phần lớn gạo xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là từ ĐBSCL.

Trong các nước xuất khẩu gạo, Việt Nam và Thái Lan có xu hướng khá ổn định. Hiện nay, Thái Lan là nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới, với khoảng 30% tổng xuất khẩu gạo trên thế giới, trong khi đó của Việt Nam là 13%3. Trong các quốc gia ASEAN, Myamar cũng là quốc gia có tiềm năng xuất khẩu gạo lớn. Khả năng tăng diện tích, năng suất và sản lượng lúa của Myanmar còn nhiều. Trong vòng 5 năm tới, khả năng xuất khẩu gạo của Myamar sẽ tăng lên bằng thời kỳ xuất khẩu đỉnh cao của những năm 1960-1970, khoảng 2 triệu tấn/năm.

Bên Myamar, Campuchia là nước cũng có nhiều điều kiện thuận lợi sản xuất lúa, có thể mở rộng lên 2,3 triệu ha so với 1,4 triệu ha hiện có. Nếu được đầu tư tốt thì năng suất có thể tăng 1,5 lần đạt khoảng 3 tấn/ha. Campuchia có thể đạt sản lượng lúa 13,8 triệu tấn (hiện nay 4,2 triệu tấn và Việt nam là 32 triệu tấn) trong khi dân số chỉ bằng 1/7 Việt nam. Khả năng xuất khẩu gạo của nước này có thể đạt 2 - 3 triệu tấn trong vòng 5-10 năm tới.



      1. Các kênh tiêu thụ và phân phối lúa gạo

Hệ thống tiêu thụ lúa gạo ở Việt Nam khá phức tạp thông qua nhiều mắt xích liên hệ giữa các đối tác khác nhau: nông dân sản xuất lúa, người thu gom lúa, cơ sở xay xát, người bán buôn, người bán lẻ và các công ty quốc doanh lương thực. Ngoài ra, công ty lương thực quốc doanh còn phân thành 2 loại: TW (VINAFOOD I ở miền Bắc và VINAFOOD II ở miền Nam) và Địa phương. Hệ thống các kênh tiêu thụ có thể được mô tả khái quát bằng sơ đồ dưới đây.

Каталог: images -> 2006
2006 -> Lúa gạo Việt Nam Giới thiệu
2006 -> Nghiªn cøu triÓn väng quan hÖ kinh tÕ th­¬ng m¹i viÖt nam – trung quèc ViÖn nghiªn cøu th­¬ng m¹i 2000 Lêi nãi ®Çu
2006 -> B¸o c¸o tæng kÕt ®Ò Tµi
2006 -> NGÀnh lúa gạo việt nam nguyễn Ngọc Quế Trần Đình Thao Hà Nội, 5-2004 MỤc lụC
2006 -> Hµ Néi, th¸ng 10 n¨m 2006
2006 -> §inh Xun Tïng Vò träng B×nh TrÇn c ng Th¾ng Hµ NéI, th¸ng 12 N¡M 2003
2006 -> Nhãm nghiªn cøu: Hoµng Thuý b ng (M. Sc) NguyÔn V¨n NghÖ (mba) Lª Hoµng Tïng
2006 -> PHÁt triển hệ thống tín dụng nông thôN Ở việt nam1
2006 -> ¶nh h­ëng cña viÖc Trung Quèc vµo wto vµ mét sè bµi häc cho ViÖt Nam1
2006 -> Bé n ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n ng th n B¸o c¸o tæng quan ngµnh chÌ viÖt Nam

tải về 1.25 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   10




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương