BỘ luật tố TỤng hình sự CỘng hoà pháP



tải về 3.81 Mb.
trang8/49
Chuyển đổi dữ liệu14.07.2016
Kích3.81 Mb.
#1709
1   ...   4   5   6   7   8   9   10   11   ...   49

Điều 99-3

Thẩm phán điều tra hoặc sỹ quan cảnh sát tư pháp được người này phân công có thể ra lệnh cho bất kì ai, cơ quan hoặc tổ chức, công hoặc tư, hoặc đơn vị sự nghiệp có tài liệu liên quan đến hoạt động điều tra, bao gồm những gì được lấy từ một máy tính có đăng ký hoặc hệ thống xử lý dữ liệu, nhằm cung cấp cho họ những tài liệu này. Nếu không có căn cứ hợp pháp, trách nhiệm giữ bí mật nghề nghiệp không được coi là lý do để không tuân theo lệnh này. Khi những lệnh này liên quan đến các cá nhân được đề cập tại các điều từ 56-1 đến 56-3, việc chuyển giao những tài liệu này chỉ có thể tiến hành với sự đồng ý của họ.

Khi cá nhân không đáp ứng lệnh này, các quy định của đoạn hai điều 60-1 được áp dụng.
Điều 99-4

Khi cần tiến hành một hoạt động tương trợ, sỹ quan cảnh sát tư pháp có thể ban hành các đề nghị quy định tại đoạn một điều 60-2.

Với sự cho phép công khai của thẩm phán điều tra, sỹ quan cảnh sát tư pháp có thể ban hành các đề nghị quy định tại đoạn hai điều 60-2.

Tổ chức hoặc cá nhân liên quan phải đặt thông tin cần thiết dưới quyền định đoạt của mình bằng phương tiện viễn thông hoặc bằng việc sử dụng máy vi tính càng nhanh càng tốt.

Việc từ chối đáp ứng những đòi hỏi này mà không có căn cứ hợp pháp bị xử phạt theo các quy định tại đoạn bốn điều 60-2.
Đoạn 2

Xâm phạm thư tín bằng các phương tiện viễn thông

Các điều từ 100 đến 100-7


Điều 100

Đối với các vụ án xét xử ở mức đại hình và tiểu hình, nếu hình phạ quy định từ hai năm tù giam trở lên và trong trường hợp cần thiết cho điều tra, thẩm phán điều tra có thể quyết định cho nghe, thu và sao lại thư tín, điện tín trao đổi trên các phương tiện thông tin viễn thông. Công việc kiểm tra thư tín phải thực hiện dưới sự chỉ đạo và giám sát của thẩm phán điều tra.

Quyết định kiểm tra thư tín, điện tín phải là quyết định bằng văn bản.Quyết định này không có tính chất tài phán và không thể bị kháng cáo kháng nghị.
Điều 100-1

Quyết định quy định tại Điều 100 phải ghi đầy đủ tất cả các yếu tố xác định đường dây liên lạc phải kiểm tra, hành vi phạm tội dẫn đến quyết định kiểm tra thư tín, cũng như thời gian kiểm tra.


Điều 100-2

Quyết định này được thi hành trong thời gian tối đa là bốn tháng. Chỉ có thể gia hạn quyết định một thời gian tối đa là bốn tháng và phải tôn trọng đầy đủ những điều kiện về hình thức của quyết định.


Điều 100-3

Thẩm phán điều tra hoặc sỹ quan cảnh sát tư pháp được thẩm phán điều tra ủy thác có thể trưng dụng nhân viên của các cơ quan thuộc quyền quản lý của Bộ trưởng phụ trách hệ thống thông tin viễn thông hoặc nhân viên của cơ sở được phép khai thác dịch vụ thông tin viễn thông để tiến hành lắp đặt thiết bị kiểm tra.


Điều 100-4

Thẩm phán điều tra hoặc sỹ quan cảnh sát tư pháp được thẩm phán điều tra ủy thác phải lập biên bản mỗi lần kiểm tra thư tín. Biên bản phải ghi rõ ngày, giờ bắt đầu và kết thúc kiểm tra.

Thư tín, điến tín thu được phải niêm phong.
Điều 100-5

Thẩm phán điều tra hoặc sỹ quan cảnh sát tư pháp được người này chỉ định ghi chép lại toàn bộ thư tín có ích cho việc phát hiện sự thật. Phải lập hồ sơ chính thức lưu những ghi chép này. Văn bản ghi chép được gắn với hồ sơ vụ án.

Thư tín bằng ngôn ngữ nước ngoài được chuyển soạn sang tiếng Pháp với sự trợ giúp của người phiên dịch được chỉ định vì mục đích này.

Với hình phạt huỷ bỏ, không được ghi chép thư tín với luật sư liên quan đến quyền của bị cáo.


Điều 100-6

Hồ sơ bị tiêu huỷ theo yêu cầu của công tố viên cấp quận hoặc công tố viên sau khi hết thời hiệu truy tố.

Phải lập hồ sơ ghi lại việc tiêu huỷ.
Điều 100-7

Không được xâm phạm đường dây điện thoại của thành viên hạ viện hoặc thượng viện trừ khi chủ tịch viện nơi người đó làm việc được thẩm phán điều tra thông báo trước.

Không được xâm phạm đường dây điện thoại kết nối văn phòng hoặc nơi ở của luật sư trừ khi thẩm phán điều tra thông báo trước điều này cho chủ tịch đoàn luật sư.

Không được xâm phạm đường dây điện thoại kết nối văn phòng hoặc nơi ở của thẩm phán hoặc công tố viên trừ khi chánh án hoặc công tố viên trưởng có thẩm quyền tại khu vực này được thẩm phán điều tra thông báo trước.

Thủ tục tại điều này tuân theo hình phạt huỷ bỏ.

MỤC IV


XÉT HỎI NHÂN CHỨNG

Các điều từ 101 đến 113-8

Đoạn 1


Các quy định chung

Các điều từ 101 đến 113


Điều 101

Thẩm phán điều tra triệu tập bất kì ai có tuyên bố hữu ích với mình thông qua thừa phát lại hoặc sỹ quan cảnh sát. Bản sao lệnh triệu tập được chuyển cho người này.

Nhân chứng cũng có thể được triệu tập bằng thư tín thông thường, thư bảo đảm hoặc thông qua các kênh hành chính; họ cũng có thể tự mình trình diện.

Khi được triệu tập hoặc gửi thư, nhân chứng được thông báo là nếu không trình diện hoặc từ chối trình diện thì có thể bị nhân việc thực thi pháp luật áp giải theo quy định của điều 109.


Điều 102

Thẩm phán điều tra với sự trợ giúp của thư ký xét hỏi riêng nhân chứng và không có mặt các bên, hoặc đối chất giữa họ hoặc với một hoặc nhiều bên. Phải lập hồ sơ lưu tuyên bố của những người này.

Thẩm phán điều tra có thể mời người biên dịch đã thành niên, ngoài thư kí hoặc các nhân chứng khác. Nếu người biên dịch chưa tuyên thệ, thì phải tuyên thệ hỗ trợ công lý bằng danh dự và hiểu biết của mình.

Nếu nhân chứng bị điếc, thẩm phán điều tra phải chỉ định chính thức một người phiên dịch ngôn ngữ ra hiệu hoặc người khác đủ tiêu chuẩn giao tiếp với người điếc để giúp đỡ người này trong quá trình xét hỏi.

Người phiên dịch này, nếu chưa tuyên thệ, thì phải tuyên thệ hỗ trợ công lý bằng danh dự và hiểu biết của mình. Cũng có thể sử dụng bất kì phương tiện kỹ thuật nào khác để giao tiếp với nhân chứng.

Nếu nhân chứng bị điếc biết đọc và viết, thẩm phán điều tra cũng có thể giao tiếp với người này bằng văn bản.


Điều 103.

Nhân chứng tuyên thệ nói ra toàn bộ sự thật và không có gì ngoài sự thật. Thẩm phán hỏi họ tên, tuổi, nghề nghiệp, nơi ở, người thân ở mức độ nào, hoặc có được trợ cấp bởi những người này không. Phải ghi lại các câu hỏi và trả lời.


Điều 105

Không được xét hỏi với tư cách nhân chứng những người mà chứng cứ củng cố và nghiêm trọng cho thấy họ tham gia thực hiện tội phạm.


Điều 106

Thẩm phán, thư kí và nhân chứng phải ký vào từng trang của hồ sơ. Sau đó mời nhân chứng đọc tuyên bố đã được biên soạn lại, và ký vào đó nếu đồng ý với tuyên bố này. Nếu nhân chứng không thể đọc, thì thư kí đọc. Nếu nhân chứng từ chối hoặc không thể ký thi phải ghi điều này vào hồ sơ. Người phiên dịch, nếu có, cũng ký vào từng trang hồ sơ.


Điều 107

Hồ sơ được soạn thảo trong một không gian duy nhất. Từ ngữ bị gạch bỏ và dẫn chiếu phải được sự phê chuẩn của thẩm phán điều tra, thư kí, nhân chứng và người phiên dịch, nếu cần. Không có sự phê chuẩn này, các từ ngữ bị gạch bỏ và dẫn chiếu không có hiệu lực.

Nguyên tắc tương tự cũng áp dụng đối với hồ sơ chính thức chưa có chữ ký theo luật.
Điều 108

Trẻ em dưới mười sáu tuổi không phải tuyên thệ khi xét hỏi.


Điều 109

Bất kì ai được triệu tập với tư cách nhân chứng có nghĩa vụ phải trình diện, tuyên thệ, và đưa ra tuyên bố, theo quy định của các điều 226-13 và 226-14 của Bộ luật Hình sự.

Nhà báo bị xét hỏi với tư cách nhân chứng liên quan đến thông tin thu thập được trong khi tác nghiệp được quyền không tiết lộ nguồn thông tin.

Nếu nhân chứng không trình diện hoặc từ chối trình diện, thẩm phán điều tra có thể, theo yêu cầu của công tố viên cấp quận, lệnh cho người này bị áp giải bởi các cơ quan thực thi pháp luật.


Điều 110

Các biện pháp thực thi được tiến hành đối với các nhân chứng không thực hiện nghĩa vụ theo một lệnh đề xuất bằng văn bản. Nhân chứng được trực tiếp đưa tới trước thẩm phán đã đề xuất áp dụng các biện pháp này.


Điều 112

Nếu nhân chứng không thể trình diện, thì thẩm phán có thể đến tận nơi để xét hỏi hoặc gửi thư yêu cầu tương trợ vì mục đích này phù hợp với các thủ tục nêu tại điều 151.


Điều 113

Nếu không có gì ngăn cản nhân chứng được thẩm tra theo các điều kiện được quy định tại điều trên trình diện theo lệnh triệu tập, thì thẩm phán điều tra có thể phạt tiền nhân chứng này theo điều 109.


Đoạn 2

NHÂN CHỨNG BỔ TRỢ

Các điều từ 113-1 đến 113-8


Điều 113-1

Bất kì ai có tên trong đề xuất ban đầu hoặc bổ sung của công tố viên và không bị thẩm tra tư pháp có thể chỉ bị xét hỏi với tư cách nhân chứng bổ trợ.



Điều 113-2

Bất kì ai có tên trong khiếu nại hoặc do nạn nhân trình báo có thể được xét hỏi với tư cách nhân chứng. Khi trình diện trước thẩm phán điều tra, thì bắt buộc xét hỏi với tư cách này nếu họ yêu cầu. Nếu người này có tên hoặc dính líu đến một khiếu nại kèm theo việc tạo thành bên dân sự thì được tư vấn về quyền này khi trình diện trước thẩm phán điều tra.

Bất kì ai do nhân chứng khai báo hoặc có bằng chứng tương đối chắc chắn cho thấy họ có thể tham gia với tư cách thủ phạm hoặc đồng phạm trong việc thực hiện tội phạm mà thẩm phán điều tra đang thụ lý, có thể được xét hỏi với tư cách nhân chứng bổ trợ.
Điều 113-3

Nhân chứng trợ giúp được hưởng lợi từ quyền được luật sư trợ giúp, người được thông báo trước khi xét hỏi và được đọc hồ sơ, phù hợp với quy định tại các điều 114 và 114-1. Luật sư này do nhân chứng bổ trợ chọn hoặc chủ nhiệm đoàn luật sư đề cử nếu người liên quan yêu cầu.

Nhân chứng bổ trợ có thể nhờ thẩm phán điều tra sắp xếp cho họ đối chất với người đã tố cáo họ, phù hợp với quy định của điều 82-1, hoặc nộp đơn xin huỷ căn cứ vào điều 173.

Trong lần đầu bị xét hỏi với tư cách nhân chứng bổ trợ, thẩm phán điều tra phải thông báo cho người này về các quyền của họ.



Điều 113-4

Trong lần đầu bị xét hỏi với tư cách nhân chứng bổ trợ, thẩm phán điều tra phải xác nhận danh tính của người này, thông báo cho họ biết về đề xuất ban đầu, khiếu nại hoặc tố cáo, thông báo các quyền và tiến hành các thủ tục quy định trong hai đoạn cuối điều 116. Thông tin này được ghi chú trong báo cáo.

Thẩm phán điều tra có thể thông báo cho một người là họ sẽ bị xét hỏi với tư cách nhân chứng bổ trợ bằng cách gửi thư bảo đảm. Thư này bao gồm thông tin quy định tại đoạn một, trong đó chỉ rõ tên của luật sư được chọn hoặc yêu cầu tự động chỉ định một luật sư phải được gửi cho thư kí thẩm phán điều tra.
Điều 113-5

Nhân chứng bổ trợ không thể bị đặt dưới sự giám sát tư pháp hoặc tạm giam trước khi xét xử, hoặc là đối tượng của lệnh chuyển giao hoặc bị thẩm tra tư pháp.


Điều 113-6

Vào bất kì thời điểm nào trong quá trình tố tụng, nhân chứng bổ trợ có thể, trong khi xét hỏi hoặc bằng thư bảo đảm có thông báo khi nhận được, yêu cầu thẩm phán điều tra đưa họ vào diện thẩm tra tư pháp; người này sau đó được coi là đã bị thẩm tra tư pháp và được hưởng lợi từ toàn bộ quyền của bị cáo, theo yêu cầu, hoặc gửi thư bảo đảm có thông báo khi nhận được.

Quy định tại điều 105 không áp dụng cho nhân chứng bổ trợ.
Điều 113-7

Nhân chứng bổ trợ không tuyên thệ.


Điều 113-8

Nếu, trong quá trình tố tụng, thấy rằng có chứng cứ bổ trợ nghiêm trọng minh chứng cho việc đưa nhân chứng bổ trợ vào diện thẩm tra tư pháp, thẩm phán điều tra tiến hành biện pháp này bằng việc áp dụng các quy định tại các đoạn bảy và tám của điều 116 trong quá trình thẩm vấn tiến hành theo các thủ tục tại điều 114.

Cũng có thể đưa người này vào diện thẩm tra tư pháp bằng cách gửi thư bảo đảm, liệt kê từng tội danh đối với người này, cũng như tiêu chuẩn pháp lý của chúng, và thông báo cho người này quyền yêu cầu các bước phải tiến hành hoặc áp dụng để huỷ bỏ tố tụng cũng như thời hạn được phép tiến hành thủ tục này, phù hợp với các quy định tại đoạn bảy và tám điều 116.

Thư bảo đảm có thể được gửi cho người này đồng thời với việc kết thúc điều tra quy định tại điều 175. Thư thông báo cho người này về quyền yêu cầu tiến hành các bước hoặc áp dụng tố tụng bị huỷ bỏ trong vòng hai mươi ngày.

Trong các trường hợp quy định tại đoạn hai và ba điều này, người này cũng được thông báo là nếu yêu cầu việc xét hỏi khác trước thẩm phán, thì thẩm phán phải có nghĩa vụ thẩm vấn.
MỤC V

LẤY CUNG VÀ ĐỐI CHẤT

Các điều từ 114 đến 121


Điều 114

Trừ khi công khai từ bỏ quyền này, các bên chỉ có thể bị xét hỏi, lấy cung hoặc đối chất với sự có mặt của luật sư của họ hoặc khi luật sư của họ đã được triệu tập theo đúng quy định.

Luật sư được triệu tập muộn nhất là năm ngày làm việc trước khi thẩm vấn hoặc thẩm tra bên họ trợ giúp, bằng thư bảo đảm với yêu cầu phúc đáp, bằng fax với phúc đáp, hoặc bằng lời nói với chữ ký trong hồ sơ tố tụng.

Hồ sơ được chuyển cho họ nghiên cứu muộn nhất là bốn ngày làm việc trước mỗi lần thẩm vấn người bị thẩm tra tư pháp hoặc mỗi lần xét hỏi bên dân sự. Sau lần trình diện đầu tiên của người bị thẩm tra tư pháp hoặc lần xét hỏi đầu tiên của bên dân sự, hồ sơ cũng được chuyển cho luật sư toàn quyền nghiên cứu trong những ngày làm việc, phù hợp với yêu cầu hoạt động của văn phòng thẩm phán điều tra.

Sau lần trình diện hoặc thẩm tra đầu tiên, luật sư của các bên có thể yêu cầu cung cấp có thanh toán chi phí một bản sao toàn bộ tài liệu và đồ vật trong hồ sơ vụ án.

Luật sư có thể chuyển một bản sao của những bản sao có được theo cách này cho khách hàng. Khách hàng phải tuyên bố ngay bằng văn bản là họ biết các quy định của đoạn sau và của điều 114-1.

Do nhu cầu của việc bào chữa, các bên hoặc luật sư chỉ có thể trao đổi với bên thứ ba bản sao báo cáo của chuyên gia.

Luật sư phải thông báo cho thẩm phán điều tra danh sách các tài liệu hoặc hoạt động tố tụng, bản sao những thứ họ muốn chuyển cho khách hàng, bằng một tuyên bố với thư kí của thẩm phán điều tra, hoặc bằng thư bảo đảm có phúc đáp, và hoàn toàn chỉ vì mục đích này.

Thẩm phán điều tra có năm ngày làm việc kể từ khi nhận đơn để từ chối chuyển giao một số hoặc toàn bộ các bản sao bằng việc ra lệnh có lý do đặc biệt liên quan đến những rủi ro gây áp lực lên nạn nhân, người bị thẩm tra tư pháp, luật sư, nhân chứng, điều tra viên, chuyên gia hoặc bất kì người nào khác tham gia vào tiến trình tố tụng.

Quyết định này được thông báo ngay cho luật sư bằng mọi cách. Nếu thẩm phán điều tra không trả lời trong thời hạn quy định đã được thông báo, luật sư có thể đưa cho khách hàng bản sao các tài liệu hoặc hoạt động trong danh sách người này cung cấp. Trong vòng hai ngày kể từ khi thông báo, người này có thể chuyển quyết định của thẩm phán điều tra cho chánh toà điều tra, người sẽ ra phán quyết trong vòng năm ngày làm việc bằng một quyết định không bị kháng cáo, có nêu lý do và bằng văn bản. Khi không có trả lời trong thời hạn được quy định, luật sư có thể đưa cho khách hàng bản sao các tài liệu hoặc hoạt động nêu trong danh sách.

Các nguyên tắc làm căn cứ cho luật sư chuyển giao tài liệu cho người bị tạm giam và các điều kiện để người này giữ tài liệu được quy định trong Nghị định của Chính phủ.

Trừ các quy định tại đoạn tám và chín nói trên, luật sư của bên dân sự có đơn kiện bị phản đối là không được chấp nhận không thể đưa cho khách hàng bản sao tài liệu hoặc hoạt động tố tụng mà không được sự cho phép từ trước của thẩm phán điều tra, có thể được gửi cho người này bằng bất kì cách nào. Trong trường hợp thẩm phán điều tra từ chối hoặc không trả lời trong vòng năm ngày làm việc, luật sư có thể chuyển đến chánh toà điều tra ra quyết định không bị kháng cáo, có nêu lý do và bằng văn bản trong vòng năm ngày làm việc. Nếu không được sự cho phép từ trước của chánh toà điều tra, luật sư không thể đưa bản sao các tài liệu hoặc hoạt động tố tụng cho khách hàng của mình.


Điều 114-1

Tuân thủ các quy định của đoạn sáu điều 114, bên được giao bản sao tài liệu hoặc hoạt động tố tụng, phù hợp với điều này, chuyển các tài liệu này cho bên thứ ba, bị phạt tiền 3.750 euro.


Điều 115

Các bên có thể vào bất kì thời điểm nào trong quá trình điều tra thông báo cho thẩm phán điều tra tên luật sư họ chọn; nếu họ chỉ định nhiều luật sư, thì phải chỉ ra một người sẽ được gửi lệnh triệu tập và thông báo; những thứ này sẽ được gửi cho luật sư được chọn đầu tiên nếu không có sự lựa chọn này.

Trừ trường hợp một trong các bên chỉ định ban đầu một luật sư hoặc khi việc chỉ định diễn ra trong quá trình điều tra hoặc xét hỏi, sự lựa chọn của các bên theo đoạn trên phải được thực hiện dưới hình thức tuyên bố với thư kí thẩm phán điều tra. Thư kí phải ghi chú, ghi ngày và kí vào tuyên bố cùng với bên liên quan. Nếu bên này không thể kí, thì thư kí phải ghi lại điều này. Nếu bên này không sống tại khu vực của toà án với thẩm quyền xét xử, tuyên bố với thư kí có thể bằng thư bảo đảm có phúc đáp.

Khi người bị thẩm tra tư pháp bị tạm giữ, việc lựa chọn luật sư của người này theo đoạn trên có thể bằng hình thức tuyên bố trước giám thị thiết chế hình sự. Giám thị phải ghi chú, ghi ngày và kí vào tuyên bố cùng với người bị tạm giữ. Nếu người này không thể kí, thì giám thị phải ghi lại điều này. Tài liệu này được gửi một lần, một bản gốc và một bản sao bằng mọi cách, cho thư kí thẩm phán ra chỉ thị. Việc chỉ định luật sư có hiệu lực kể từ khi thư kí nhận được tài liệu.

Khi tạm giam người bị thẩm tra tư pháp, sự lựa chọn được tiến hành bằng một thư chỉ định luật sư bào chữa. Tiếp đó luật sư được chỉ định phải đưa ra tuyên bố theo đoạn hai nói trên. Luật sư gửi một bản sao thư nhận được, hoặc phần liên quan của nó, cho thư kí, và thư kí gắn kèm vào tuyên bố. Người bị thẩm tra tư pháp cũng phải khẳng định sự lựa chọn của mình trong vòng mười lăm ngày bằng một trong những thủ tục quy định tại đoạn hai và ba nói trên. Việc chỉ định có hiệu lực trong thời hạn này.
Điều 116

Khi cho rằng sẽ đưa một người chưa được xét hỏi với tư cách nhân chứng trợ giúp vào diện thẩm tra tư pháp, thẩm phán điều tra triệu tập người này đến trình diện lần đầu theo các điều kiện quy định tại điều này.

Thẩm phán điều tra khẳng định thông tin cá nhân của người này và thông báo công khai từng tội danh do mình thụ lý và bị xem xét thẩm tra tư pháp, chỉ rõ các tiêu chuẩn pháp lý. Phải có văn bản ghi lại những tội danh này cùng với tiêu chuẩn pháp lý trong hồ sơ chính thức.

Khi các quy định của điều 80-2 được áp dụng và người này được trợ giúp bởi một luật sư, thẩm phán điều tra tiến hành thẩm vấn; luật sư của người này có thể trình bày những bình luận của mình với thẩm phán điều tra.

Trong tất cả những trường hợp khác, thẩm phán điều tra thông báo cho người này về quyền chọn luật sư hoặc đề nghị chỉ định một luật sư cho mình. Luật sư được chọn, hoặc trong trường hợp yêu cầu toà án chỉ định luật sư, chủ nhiệm đoàn luật sư, được thông báo ngay và bằng bất kì biện pháp nào. Nếu luật sư được chọn không thể được liên hệ hoặc không thể tới, người này được tư vấn về quyền yêu cầu một luật sư do toà án chỉ định, nhằm giúp đỡ mình trong lần trình diện đầu tiên. Luật sư được đọc hồ sơ một lần và tự do trao đổi với người này. Tiếp đó thẩm phán điều tra thông báo cho người này về lựa chọn giữ im lặng, đưa ra tuyên bố, hoặc bị thẩm vấn. Hồ sơ chính thức phải có văn bản ghi chép thông tin này. Việc đồng ý thẩm vấn chỉ có thể đưa ra với sự có mặt của luật sư. Luật sư của người này cũng có thể trình bày ghi nhận của mình với thẩm phán điều tra.

Sau khi, nếu có thể, ghi lại tuyên bố của người này hoặc tiến hành thẩm vấn và xem xét bình luận của luật sư, thẩm phán điều tra thông báo cho người này:

--hoặc là người này không bị đưa vào diện thẩm tra tư pháp; thẩm phán điều tra tiếp đó tư vấn cho người này là họ được hưởng lợi từ các quyền của một nhân chứng bổ trợ;

--hoặc là người này thuộc diện thẩm tra tư pháp; thẩm phán điều tra tiếp đó lưu ý người này là vấn đề hoặc tiêu chuẩn pháp lý của các vấn đề mà họ bị cáo buộc, nếu những vấn đề này hoặc tiêu chuẩn pháp lý của chúng khác với những gì mà trước đó người này được thông báo; thông báo cho người này quyền yêu cầu tiến hành các bước hoặc làm đơn xin huỷ bỏ tố tụng theo các điều 81, 82, 82-2, 156 và 173 trong quá trình điều tra, và muộn nhất là ngày thứ hai mươi sau khi có thông báo quy định tại đoạn cuối điều 175, phù hợp với các quy định của điều 173-1.

Nếu cảm thấy là thời gian dự tính để hoàn tất việc điều tra là ít hơn một năm trong trường hợp tội ít nghiêm trọng hoặc mười tám tháng trong trường hợp tội nghiêm trọng, thẩm phán điều tra thông báo cho người này về thời gian dự kiến này, và tư vấn là khi hết thời hạn này, người này sẽ có thể yêu cầu kết thúc tố tụng, theo các quy định của điều 175-1. Nếu không thì chỉ ra cho người này thấy là họ có thể yêu cầu kết thúc tố tụng khi hết một năm trong trường hợp tội ít nghiêm trọng hoặc mười tám tháng trong trường hợp tội nghiêm trọng, phù hợp với điều cùng này.

Vào cuối buổi trình diện đầu tiên, người này phải đăng kí địa chỉ cá nhân với thẩm phán điều tra. Người này có thể, tuy vậy, thay thế bằng địa chỉ của bên thứ ba có trách nhiệm nhận các hành động được làm vì mình nếu xuất trình chứng cứ chứng minh sự đồng ý của bên thứ ba. Nếu hoạt động điều tra xảy ra ở các thành phố lớn nước Pháp, địa chỉ phải ở trong phạm vi địa giới hành chính của một thành phố nước Pháp. Tuyên bố này được đưa ra trước thẩm phán giám sát và tự do khi thẩm phán này, được thẩm phán điều tra chuyển đến hồ sơ vụ án, quyết định không tạm giam người này.

Người này được tư vấn là phải chỉ ra bất kì thay đổi nào của địa chỉ đã đăng ký cho thẩm phán điều tra trong một tuyên bố mới hoặc bằng thư bảo đảm với thông báo nhận được cho đến khi kết thúc điều tra. Người này cũng được thông báo là bất kì thông báo hoặc tống đạt nào đến địa chỉ cuối cùng được coi là đã giao cho đích thân người này. Thông báo này và tuyên bố địa chỉ được đưa vào hồ sơ chính thức. Khi thẩm phán giám sát và tự do quyết định không tạm giam người này thì thẩm phán này ra thông báo.
Điều 117

Không kể đến các quy định tại Điều 116, thẩm phán điều tra có thể tiến hành hỏi cung và đối chất ngay trong trường hợp khẩn cấp, do người làm chứng sắp chết, do các dấu vết sắp tiêu tan, hoặc trong trường hợp quy định tại Điều 72

Biên bản phải ghi rõ các lý do khẩn cấp.
Điều 118

Nếu trong quá trình điều tra thấy rằng vấn đề mà người thuộc diện thẩm tra tư pháp bị cáo buộc trên cơ sở thực hiện tội ít nghiêm trọng thực sự tới mức nghiêm trọng, thẩm phán điều tra, trước tiên thông báo cho luật sư về ý định này và nhận sự tuân thủ của người này và luật sư, thông báo cho người này là việc xác định tội nghiêm trọng sẽ thay thế tội ít nghiêm trọng ban đầu. Nếu không có thông báo này thì có thể làm đơn theo các quy định của điều 181.

Nếu người này bị tạm giam trước khi xét xử, lệnh tạm giam được ban hành ban đầu vẫn có hiệu lực và được coi là lệnh tạm giam liên quan đến tội nghiêm trọng. Việc tạm giam trước khi xét xử theo đó được điều chỉnh bởi các nguyên tắc áp dụng trong các vụ án nghiêm trọng, thời hạn tạm giam được tính từ khi lệnh tạm giam được ban hành lần đầu.

Vào thời điểm đưa ra thông báo theo đoạn một bên trên, thẩm phán điều tra có thể thông báo cho người này một thời hạn mới chắc chắn để hoàn tất việc điều tra, theo các quy định tại đoạn tám điều 116.



tải về 3.81 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   4   5   6   7   8   9   10   11   ...   49




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương