BỘ giao thông vận tảI 1/ Cử tri tỉnh Đắk Lắc kiến nghị



tải về 4.74 Mb.
trang27/67
Chuyển đổi dữ liệu18.07.2016
Kích4.74 Mb.
#1917
1   ...   23   24   25   26   27   28   29   30   ...   67

Trả lời (tại công văn số 10534/BTC-VP ngày 9/9/2008 của Bộ Tài chính):

Ngày 25/4/2001, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định 64/2001/QĐ-TTg ban hành Quy chế quản lý và sử dụng viện trợ phi Chính phủ của nước ngoài để tạo hành lang pháp lý cho việc tiếp nhận, quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn viện trợ phi Chính phủ.

Quy chế trên được ban hành đến nay đã hơn 7 năm, trong quá trình thực hiện đã bộc lộ một số vấn đề bất cập; một số quy định không còn phù hợp, không đồng bộ với hệ thống văn bản pháp luật hiện hành.

Vì vậy, từ năm 2003, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì phối hợp với Bộ Tài chính và các cơ quan liên quan nghiên cứu bổ sung, sửa đổi nội dung Quyết định này. Ngày 28/5/2007 Văn phòng Chính phủ có công văn số 758/TB-VPCP giao Bộ Kế hoạch và đầu tư tiếp tục chủ trì cùng các cơ quan liên quan rà soát việc điều chỉnh dự thảo sửa đổi Quyết định này.

Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Kế hoạch và đầu tư đã dự thảo sửa đổi Quyết định 64/2001/QĐ-TTg nêu trên và đang tiếp tục hoàn chỉnh để trình Thủ tướng Chính phủ.

30/ Cử tri tỉnh Quảng Ngãi kiến nghị: Đề nghị Bộ Tài chính nghiên cứu tham mưu cho Chính phủ trong việc qui định tỉ lệ nguồn vốn đóng góp của nhân dân và nguồn đối ứng của địa phương theo hướng giao cho địa phương qui định, căn cứ vào điều kiện, nhu cầu thực tế tại từng địa bàn, từng dự án và phù hợp với mức thu nhập của nhân dân trong vùng hưởng lợi. Có như vậy, thì nguồn vốn đầu tư mới thực sự được sử dụng đúng địa bàn, đúng mục đích và yêu cầu thực tế nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng.

Trả lời (tại công văn số 10709/BTC-VP ngày 11/9/2008 của Bộ Tài chính):

Câu hỏi của đại biểu, Bộ Tài chính chưa rõ là nguồn vốn đóng góp của nhân dân và nguồn đối ứng của địa phương đối với các công trình, dự án nào (vốn ODA hay vốn đầu tư trong nước). Tuy nhiên, trong thực tế, vốn đối ứng chủ yếu thực hiện đối với các dự án sử dụng nguồn vốn Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA). Theo qui định tại Nghị định số 131/2006/NĐ-CP ngày 09/11/2006 của Chính phủ ban hành qui chế quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức thì đối với các chương trình, dự án thuộc diện cấp phát từ ngân sách nhà nước, cơ quan chủ quản có trách nhiệm cân đối vốn đối ứng trong kế hoạch ngân sách hàng năm theo qui định của pháp luật hiện hành. Về nguyên tắc, vốn đối ứng của chương trình, dự án thuộc ngân sách cấp nào do ngân sách cấp đó đảm bảo; trường hợp do có khó khăn, ngân sách địa phương không cân đối đủ vốn đối ứng cho các chương trình, dự án đầu tư thuộc nguồn vốn ODA, địa phương báo cáo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính để tổng hợp trong dự toán ngân sách nhà nước hàng năm trình Chính phủ trình Quốc hội hỗ trợ cho địa phương thực hiện.

Hiện nay, một số dự án sử dụng vốn ODA có quy định việc đóng góp của người dân được hưởng lợi trực tiếp từ dự án để hình thành nguồn vốn đối ứng trong nước. Mục tiêu của quy định này là để gắn kết quyền lợi và trách nhiệm của người dân đối với việc thực hiện dự án, đảm bảo tính bền vững của dự án. Tuy nhiên, việc này được thực hiện tuỳ theo từng dự án cụ thể, theo yêu cầu của nhà tài trợ hoặc theo thoả thuận giữa Chính phủ Việt Nam và nhà tài trợ. Bộ Tài chính ghi nhận kiến nghị của cử tri và sẽ tiếp tục nghiên cứu để đề xuất phương thức triển khai phù hợp.

Đối với việc huy động đóng góp khác của dân, Thủ tướng Chính phủ đã có Chỉ thị số 24/2007/CT-TTg ngày 1/11/2007 về tăng cường chấn chỉnh việc thực hiện các quy định của pháp luật về phí, lệ phí, chính sách huy động và sử dụng các khoản đóng góp của nhân dân, trong đó yêu cầu UBND các địa phương rà soát, bãi bỏ các khoản đóng góp của dân mà không phù hợp với quy định hiện hành của Nhà nước. Đến nay, nhiều địa phương đã thực hiện rà soát, bãi bỏ các khoản huy động, đóng góp của dân không phù hợp.



31/ Cử tri thành phố Hồ Chí Minh kiến nghị: Các dự án sử dụng vốn ODA: Cho phép chủ đầu tư tính lại giá gói thầu thi công (phần trượt giá) các dự án ODA trên cơ sở tính lại giá nguyên liệu, nhiên liệu và vật liệu xây dựng theo thông tư số 05/2008/TT-BXD của Bộ Xây dựng; chấp thuận cho chủ đầu tư và nhà thầu thi công các gói thầu ODA được điều chỉnh cục bộ dự toán; đề nghị nhà tài trợ và chủ đầu tư xem xét hỗ trợ phần tương ứng trượt giá theo tỷ lệ phần vốn tài trợ và vốn đối ứng. Trường hợp các nhà tài trợ vốn ODA không chấp thuận, kiến nghị Chính phủ cho phép sử dụng ngân sách nhà nước cấp bù cho nhà thầu tương ứng với tỷ lệ vốn đối ứng để giảm thiệt hại cho nhà thầu.

Trả lời (tại công văn số 10551/BTC-VP ngày 9/9/2008 của Bộ Tài chính);

Thủ tướng Chính phủ đã có công văn số 546/TTg-KTN ngày 14/4/2008 có ý kiến về việc điều chỉnh giá nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu xây dựng đối với các dự án sử dụng vốn nhà nước, trong đó có hướng dẫn việc điệu chỉnh đối với gói thầu các dự án ODA theo quy định trong hợp đồng và trường hợp cần thiết người quyết định đầu tư xem xét quyết định sau khi thoả thuận với nhà tài trợ, đồng thời phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư làm việc với nhà tài trợ để bổ sung vốn do biến động giá.

Ngày 17/4/2008, Bộ Xây dựng đã ban hành Thông tư số 09/2008/TT-BXD ngày 17/4/2008 hướng dẫn điều chỉnh giá và hợp đồng xây dựng do biến động giá nguyên liệu, nhiên liệu và vật liệu xây dựng (thay thế Thông tư số 05/2008/TT-BXD ngày 22/2/2008). Việc điều chỉnh giá nguyên liệu, vật liệu đối với các gói thầu của các dự án sử dụng vốn ODA được thực hiện theo hướng dẫn tại điểm tiết 8.3 điểm 8 Thông tư 09/2008/TT-BXD nêu trên.

Để kịp thời tháo gỡ những vướng mắc trong việc điều chỉnh giá, tạm ứng, thanh toán tiền bù chênh lệch giá vật liệu Bộ Tài chính và Bộ Xây dựng đã có các văn bản hướng dẫn bổ sung, cụ thể:

- Công văn số 5422/BTC-ĐT ngày 12/5/2008 của Bộ Tài chính về tạm ứng, thanh toán tiền bù chênh lệch giá vật liệu xây dựng;

- Công văn số 7763/BTC-ĐT ngày 3/7/2008 của Bộ Tài chính về việc thông báo giá vật liệu xây dựng;

- Công văn số 1551/BXD-KTXD ngày 1/8/2008 của Bộ Xây dựng hướng dẫn thêm một số nội dung của Thông tư 09/2008/TT-BXD.

Nguồn vồn ODA cũng là một trong các nguồn vốn đầu tư của nhà nước do vậy các dự án ODA ngoài việc tuân thủ các quy định theo điều ước quốc tế đã ký kết cũng phải tuân thủ và áp dụng các quy định trong nước như đối với các dự án sử dụng vốn Ngân sách nhà nước khác. Do đó, đề nghị các dự án ODA nghiên cứu các văn bản nêu trên để áp dụng cho phù hợp với dự án, đồng thời chủ động làm việc với nhà tài trợ và các cơ quan có liên quan để có phương án xử lý nguồn vốn do việc điều chỉnh giá.



32/ Cử tri thành phố Hồ Chí Minh kiến nghị:

Kiến nghị 1: Về phát hành trái phiếu Chính phủ: Kiến nghị tiếp tục phát hành 10.000 tỷ đồng trái phiếu để có nguồn vốn cho công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng, đẩy nhanh tiến độ đầu tư các công trình giao thông trọng điểm; cho phép thành phố Hồ Chí Minh chủ động làm việc với Bộ Tài chính về phương án sử dụng vốn, trái phiếu trên cơ sở đảm bảo sử dụng có hiệu quả, đúng mục đích.

Trả lời (tại công văn số 10703/BTC-VP ngày 11/9/2008 của Bộ Tài chính):

Theo quy định tại khoản 3, Điều 8 của Luật Ngân sách Nhà nước năm 2002, UBND cấp tỉnh được phép huy động vốn không vượt quá 30% vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong nước hàng năm của ngân sách cấp tỉnh.

Riêng đối với thành phố Hồ Chí Minh, theo Nghị định số 124/2004/NĐ-CP ngày 18/5/2004 quy định về một số cơ chế tài chính đặc thù đối với Thành phố Hồ Chí Minh: Tổng dư nợ các nguồn vốn huy động (bao gồm cả phát hành trái phiếu) cho đầu tư các dự án, công trình thuộc nhiệm vụ đầu tư từ ngân sách Thành phố không vượt quá 100% tổng mức vốn đầu tư xây dựng cơ bản của ngân sách thành phố theo dự toán Hội đồng nhân dân thành phố quyết định hàng năm.

Thực tế, từ năm 2003 đến nay thành phố đã thực hiện huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu Chính quyền địa phương với dư nợ tính đến 30/6/2008 là 9.800 tỷ đồng, bằng khoảng 64% tổng vốn xây dựng cơ bản năm 2008. Việc phát hành thêm ngoài mức giới hạn nói trên cần được Chính phủ chấp thuận. Vì vậy, Thành phố cần sớm xây dựng Đề án phát hành 10.000 tỷ đồng trái phiếu Chính phủ cho các công trình trọng điểm cụ thể của Thành phố để trình Chính phủ xem xét, quyết định.



Kiến nghị 2:Tình hình kinh tế-xã hội còn nhiều khó khăn, cử tri đề nghị chỉ đạo thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí một cách triệt để trong sử dụng ngân sách nhà nước. Xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân không thực hiện tiết kiệm, chi sai quy định.

Trả lời (tại công văn số 10703/BTC-VP ngày 11/9/2008 của Bộ Tài chính):

Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí từ lâu đã được Đảng, nhà nước ta coi là “quốc sách” và được thể chế hoá thành Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khoá XI, chính thức có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/6/2006. Đặc biệt, trước bối cảnh lạm phát cuối năm 2007, đầu năm 2008, cùng với những yếu tố biến động phức tạp, khó lường đe dọa sự ổn định kinh tế vĩ mô, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí càng trở nên quan trọng.

Ngày 17/4/2008, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 10/2008/NQ-CP xác định rõ tiết kiệm là một giải pháp quan trọng nhằm kiềm chế lạm phát. Chính vì vậy, công tác lãnh đạo, chỉ đạo triển khai các biện pháp thực hành tiết kiệm, chống lãng phí từ trung ương đến địa phương đã được đẩy mạnh trên cơ sở gắn với việc điều hành thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội.

Sau khi Chính phủ ban hành Nghị quyết 10/2008/NQ-CP, ngay trong ngày 17/4/2008, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 390/QĐ-TTg về các biện pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng, điều hành kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản và chi tiêu ngân sách năm 2008 phục vụ mục tiêu kiềm chế lạm phát, trong đó quy định cụ thể biện pháp giao chỉ tiêu tiết kiệm trong sử dụng ngân sách nhà nước (NSNN) cho các Bộ, ngành, địa phương. Thực hiện Quyết định này, các biện pháp tiết kiệm đã được chỉ đạo quyết liệt như: thực hiện tiết kiệm 10% chi thường xuyên trong dự toán ngân sách nhà nước những tháng còn lại của năm 2008; tạm dừng mua sắm ô tô, phương tiện, tài sản có giá trị lớn, sửa chữa lớn trụ sở làm việc; thực hiện tiết kiệm tối đa trong việc sử dụng điện, nước, điện thoại, văn phòng phẩm, xăng dầu (mức tiết kiệm tối thiểu 10%); không điều chỉnh tăng tổng mức vốn đầu tư của ngân sách nhà nước năm 2008 đã giao cho các Bộ, cơ quan Trung ương và địa phương theo mặt bằng giá mới; đình hoãn khởi công các dự án không có trong quy hoạch được duyệt, chưa đủ thủ tục theo đúng quy định, còn nhiều vướng mắc về thủ tục đầu tư, chưa giải phóng mặt bằng; ngừng triển khai các dự án chưa thật sự cấp bách, không mang lại hiệu quả; giãn tiến độ thi công một số dự án đầu tư…

Để triển khai thực hiện Quyết định số 390/QĐ-TTg ngày 17/4/2008 của Thủ tướng Chính phủ gắn với việc đẩy mạnh thực hiện Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, ngày 23/4/2008 Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 34/2008/TT-BTC hướng dẫn thực hiện tiết kiệm 10% chi thường xuyên ngân sách nhà nước năm 2008 và giao chỉ tiêu hướng dẫn tiết kiệm cho các Bộ, cơ quan trung ương và các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Đồng thời, Bộ Tài chính cũng đã có văn bản yêu cầu các Bộ, ngành, địa phương, Tổng công ty,Tập đoàn tăng cường chỉ đạo thực hiện các biện pháp thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong tình hình mới; trong đó đã xác định rõ thực hành tiết kiệm, chống lãng phí là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của các cấp, các ngành, các cơ quan, tổ chức để có biện pháp quyết liệt và đồng bộ trong xây dựng và tổ chức thực hiện các giải pháp tiết kiệm gắn với mục tiêu kiềm chế lạm phát.

Về chế tài xử lý đối với các tổ chức, cá nhân vi phạm các quy định về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí đã quy định cụ thể các chế tài xử lý vi phạm, gây lãng phí, bao gồm: bồi thường thiệt hại là chế tài xuyên suốt và ngoài ra, tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm và chủ thể vi phạm còn bị xử phạt vi phạm hành chính, xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự. Các quy định về xử lý vi phạm của Luật đã được tiếp tục cụ thể hoá tại Nghị định số 84/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 18/8/2006 quy định về bồi thường thiệt hại, xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và Thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính. Do đó, trong thời gian qua, nhiều trường hợp vi phạm các quy định về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí đã được phát hiện và xử lý nghiêm theo Luật định.

Bộ Tài chính bày tỏ sự đồng tình cao với kiến nghị của cử tri. Trên cơ sở phân cấp theo quy định, các Bộ, ngành, địa phương, thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước cần đề cao trách nhiệm và thực hiện nghiêm các quy định của Nhà nước.

Kiến nghị 3:

1. Về quản lý các tổ chức tín dụng, quỹ đầu tư, công ty chứng khoán, bất động sản: kiến nghị điều chỉnh bổ sung các quy định, điều kiện bắt buộc trong trường hợp các tổ chức tín dụng (ngân hàng) muốn mở rộng kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực như thành lập công ty chứng khoán, đầu tư bất động sản

2. Về thí điểm thành lập các Công ty Đầu tư Tài chính Nhà nước thành phố Hồ Chí Minh để tiếp nhận và thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp cổ phần trực thuộc thành phố quản lý.

3. Có chính sách vĩ mô liên thông giữa thị trường tài chính, thị trường bất động sản và thị trường chứng khoán để thị trường phát triển bền vững, lành mạnh và ổn định; cần nhanh chóng chế định các công cụ tài chính để kiểm soát thị trường bất động sản.

Trả lời (tại công văn số 10703/BTC-VP ngày 11/9/2008 của Bộ Tài chính):

1. Hiện nay, việc mở rộng kinh doanh hoặc thành lập các Tập đoàn đa ngành, đa lĩnh vực đang là xu hướng được các Ngân hàng lựa chọn trong chiến lược kinh doanh của mình. Ngoài các hoạt động nghiệp vụ, ngân hàng còn có thể tham gia thực hiện các hoạt động khác như góp vốn mua cổ phần, tham gia thị trường tiền tệ, kinh doanh ngoại hối và vàng....Tất cả các hoạt động này đều phải tuân thủ theo các quy định của pháp luật chuyên ngành và quy định về an toàn vốn trong hoạt động ngân hàng.

- Đối với trường hợp Ngân hàng muốn tham gia đầu tư bất động sản: theo quy định của Điều 73 Luật các Tổ chức tín dụng, các tổ chức tín dụng không được phép trực tiếp kinh doanh bất động sản, vì vậy, Ngân hàng có thể thực hiện việc đầu tư bất động sản gián tiếp thông qua hoạt động cấp tín dụng. Hoạt động tín dụng là một nội dung quan trọng trong hoạt động của các ngân hàng, các quy định về hoạt động tín dụng được quy định chặt chẽ trong Luật các Tổ chức tín dụng và bắt buộc các tổ chức tín dụng phải tuân theo.

- Việc thành lập công ty chứng khoán là do Uỷ ban chứng khoán cấp phép theo quy định tại Quyết định 27/2007/QĐ-BTC ngày 24/4/2007 của Bộ Tài chính về việc ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của công ty chứng khoán. Vì vậy, các Ngân hàng muốn thành lập công ty chứng khoán cũng phải được Uỷ ban chứng khoán chấp thuận trên cơ sở đáp ứng đầy đủ các điều kiện bắt buộc về cấp phép thành lập theo quy định của Quyết định 27/2007/QĐ-BTC, Luật Chứng khoán và các văn bản pháp luật khác có liên quan.

2. Về việc thí điểm thành lập Công ty Đầu tư Tài chính Nhà nước thành phố Hồ Chí Minh.

Bộ Tài chính cũng đã có nhiều công văn báo cáo Thủ tướng Chính phủ và gửi UBND thành phố Hồ Chí Minh ủng hộ việc thành lập Công ty Đầu tư Tài chính Nhà nước thành phố Hồ Chí Minh. Riêng về vấn đề Công ty thực hiện chức năng tiếp nhận và thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp cổ phần trực thuộc thành phố quản lý, Bộ Tài chính đề nghị cân nhắc thêm với các lý do sau:

- Theo quy định của Luật đầu tư năm 2005, Luật doanh nghiệp Nhà nước năm 2003 và Quyết định số 151/2005/QĐ-TTg ngày 20/6/2005 của Thủ tướng Chính phủ, Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC) thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu vốn Nhà nước tại doanh nghiệp; các Bộ, ngành, địa phương có trách nhiệm chuyển giao đại diện chủ sở hữu tại các công ty trách nhiệm hữu hạn Nhà nước một thành viên, công ty trách nhiệm hữu hạn Nhà nước có từ hai thành viên trở lên và các công ty cổ phần được chuyển đổi từ các công ty Nhà nước độc lập. Hiện tại SCIC đã thành lập Chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh để thực hiện vai trò đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố cũng như khu vực phía Nam.

Việc Công ty đầu tư tài chính thành phố Hồ Chí Minh cũng có chức năng quyền đại diện chủ sở hữu vốn Nhà nước của Uỷ ban nhân dân thành phố tại các doanh nghiệp có vốn Nhà nước trên địa bàn, sẽ có sự xung đột về mặt pháp lý và chức năng giữa Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước và Công ty đầu tư tài chính thành phố Hồ Chí Minh.

- Một số tỉnh, thành phố khác cũng có nhu cầu thành lập Tổng công ty đầu tư tài chính như thành phố Hồ Chí Minh, trường hợp Chính phủ cho phép thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp sẽ là không phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước trong việc cải cách quản lý tài chính đối với doanh nghiệp Nhà nước, đặc biệt là quan điểm xoá bỏ cơ chế chủ quản.

3. Trong điều hành kinh tế của Chính phủ, việc ban hành các chính sách vĩ mô nhằm tạo sự liên thông giữa các thị trường tiền tệ, chứng khoán, bất động sản vừa là mục tiêu vừa là giải pháp để thúc đấy nền kinh tế nói chung, thị trường tài chính, TTCK nói riêng phát triển bền vững, lành mạnh và ổn định. Trong từng giai đoạn, tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế và tình hình của thị trường mà Chính phủ ban hành các chính sách vĩ mô cho phù hợp.

Hiện tại, Chính phủ đang thực hiện một số chính sách cho thị trường tiền tệ, thị trường ngoại hối và TTCK như: (i) Tăng lãi suất tín phiếu của Ngân hàng Nhà nước (từ 7,8%/năm lên 13%/năm); (ii) Áp dụng chính sách tỷ giá linh hoạt hơn, đưa biên độ giao dịch tỷ giá lên ± 2%(iii) Dần dần nới lỏng biên độ dao động giá trên thị trường chứng khoán và (iiii) một số giải pháp vĩ mô khác.

Nhờ áp dụng các biện pháp và chính sách đồng bộ, diễn biến kinh tế vĩ mô có chiều hướng tích cực, tính thanh khoản của TTCK có dấu hiệu được cải thiện, thị trường tiền tệ có xu hướng hạ nhiệt.

Để TTCK phát triển bền vững, lành mạnh và ổn định, việc thực hiện các chính sách phát triển TTCK phải đồng bộ với các chính sách phát triển thị trường khác đặc biệt là thị trường tiền tệ, thị trường bất động sản. Để làm được điều này cần có sự điều hành, chỉ đạo sát sao của Chính phủ, sự phối hợp thực hiện giữa các Bộ, ngành. Về phía Bộ Tài chính, đã và đang thực hiện các giải pháp nhằm phát triển TTCK được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 128/2007/QĐ-TTg ngày 2/8/2007 phê duyệt Đề án phát triển thị trường vốn Việt Nam đến 2010 và tầm nhìn đến 2020.

4. Để phát triển thị trường bất động sản, cần có hệ thống cơ chế, chính sách đồng bộ và hoàn chỉnh, từ việc đăng ký, quản lý, công khai, minh bạch thông tin về bất động sản... đến các chính sách tài chính đối với thị trường bất động sản. Chính phủ đã giao Bộ xây dựng chủ trì quản lý và phát triển thị trường bất động sản. Các Bộ, ngành, địa phương theo chức năng, nhiệm vụ của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Xây dựng thực hiện việc phát triển thị trường bất động sản.

Về chính sách tài chính, Chính phủ đã trình cấp có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền nhiều cơ chế, chính sách về thuế, đất đai... để phát triển thị trường bất động sản (gần đây nhất, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 80/2008/NĐ-CP ngày 29/7/2008 sửa đổi, bổ sung một số quy định về lệ phí trước bạ với việc giảm tỷ lệ thu lệ phí trước bạ đối với nhà, đất nhằm tăng tính minh bạch cho thị trường). Bộ Tài chính cũng đang phối hợp với các Bộ, ngành liên quan sửa đổi, bổ sung những quy định về thuế, phí, lệ phí liên quan đến thị trường bất động sản cho phù hợp.

Hiện nay, Chính phủ đang nghiên cứu để trình Quốc hội ban hành Luật thuế tài sản, trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quyết định sửa đổi Pháp lệnh thuế nhà, đất để tạo ra tạo nên một hệ thống chính sách đồng bộ, ngày càng được hoàn thiện giúp thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển công khai, minh bạch, lành mạnh.

33/ Cử tri tỉnh Ninh Thuận kiến nghị:

1. Kiến nghị cần có cơ chế đặc thù riêng cho các tỉnh nghèo (thu ngân sách dưới 500 tỷ đồng) trong việc áp dụng mức giảm 10% chi phí hoạt động thường xuyên để thực thi chống lạm phát hiện nay.

2. Cần xem xét lại mô hình Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước, hiện tổ chức này không giúp gì cho chính quyền địa phương mà ngược lại còn gây nhiều cản trở khó khăn cho chính quyền địa phương.

Trả lời (tại công văn số 10552/BTC-VP ngày 9/9/2008 của Bộ Tài chính):

1. Theo Quyết định số 151/2006/QĐ-TTg ngày 29/6/2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành định mức phân bổ dự toán chi thường xuyên ngân sách Nhà nước năm 2007, thì định mức phân bổ chi thường xuyên cho các địa phương xác định theo vùng: vùng cao, hải đảo, miền núi cao hơn vùng đồng bằng (định mức phân bổ chi giáo dục: Vùng cao, hải đảo, miền núi, bằng 1,72 lần so với đồng bằng; tương tự đối với định mức phân bổ chi sự nghiệp: Đào tạo và dạy nghề bằng 1,80 lần, y tế bằng 1,77 lần, văn hoá thông tin bằng 1,92 lần, đảm bảo xã hội bằng 1,58 lần...). Ngoài ra, đối với những địa phương khó khăn hoặc có dân số thấp, được phân bổ thêm số chi tính theo định mức dân số theo vùng là: 5% đối với khu vực đồng bằng sông Cửu Long; 10% đối với các tỉnh có dân số dưới 500 nghìn dân; 8% đối với những tỉnh có dân số từ 500-800 nghìn dân. Vì vậy, định mức phân bổ chi thường xuyên cho các địa phương có số thu thấp (dưới 500 tỷ đồng) nêu trên đã thể hiện cơ chế đặc thù riêng từ lập dự toán chi cân đối ngân sách địa phương năm 2007, năm đầu thời kỳ ổn định ngân sách giai đoạn 2007-2010. Việc tiết kiệm 10% chi thường xuyên năm 2008 để thực thi chống lạm phát; đây là chủ trương chung thực hiện trong cả nước, mặt khác nguồn tiết kiệm được trung ương không điều về mà để lại tỉnh để tập trung chi cho đảm bảo an sinh xã hội trên địa bàn. Căn cứ vào tình hình thực tế tại địa phương, đề nghị địa phương thực hiện theo đúng Quyết định số 390/QĐ-TTg ngày 17/4/2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc điều hành kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản và chi tiêu ngân sách năm 2008 phục vụ mục tiêu kiềm chế lạm phát.

2. Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) được thành lập theo theo Quyết định số 151/2005/QĐ-TTg ngày 20/6/2005 của Thủ tướng Chính phủ với mục tiêu đổi mới cơ chế quản lý vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp nhằm tách dần chức năng quản lý nhà nước về kinh tế và chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước tại các doanh nghiệp, đẩy mạnh cải cách hành chính trong công tác quản lý doanh nghiệp, xoá bỏ sự can thiệp hành chính của cơ quan nhà nước; Tiếp tục cơ cấu lại vốn nhà nước đầu tư ở các doanh nghiệp giao cho Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước quản lý để giảm bớt số lượng doanh nghiệp mà nhà nước không cần đầu tư vốn, nhằm tích tụ, tập trung vốn để đầu tư vào các ngành, lĩnh vực quan trọng theo định hướng của nhà nước; Chuyển từ cơ chế cấp vốn trực tiếp cho doanh nghiệp sang hình thức đầu tư vốn vào doanh nghiệp thông qua Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước theo nguyên tắc thị trường.

Sau hơn hai năm hoạt động, với chức năng, nhiệm vụ của mình, Tổng công ty đã thực hiện tiếp nhận quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại 876 doanh nghiệp với tổng giá trị theo sổ kế toán là trên 8.000 tỷ đồng.

Thông qua việc thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại các doanh nghiệp, bước đầu SCIC đã phát huy vai trò trong việc quản lý phần vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhận bàn giao có hiệu quả hơn, như thực hiện phân nhóm doanh nghiệp để thực hiện theo hướng:

- Thực hiện việc tái cơ cấu doanh nghiệp, nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, qua đó nâng cao giá trị của doanh nghiệp cũng như giá trị phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp; tập trung vốn đầu tư vào một số doanh nghiệp có tiềm năng.

- Thực hiện việc thoái đầu tư đối với các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực Nhà nước không cần nắm giữ vốn.

- Thực hiện vai trò là nhà đầu tư Chính phủ, giúp Chính phủ thực hiện chiến lược đầu tư phát triển kinh tế, xã hội và hội nhập quốc tế thông qua việc tìm kiếm các dự án đầu tư, trong đó chú trọng đầu tư vào các lĩnh vực cơ sở hạ tầng trọng yếu có vốn đầu tư lớn, các dự án đầu tư trong các lĩnh vực kinh tế chiến lược...

Tuy nhiên, trong công tác nhận bàn giao quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước từ các Bộ, địa phương còn có những vấn đề Tổng công ty cần nghiên cứu để có hướng xử lý như đồng thời với việc tiếp nhận quyền đại diện chủ sở hữu vốn tại các doanh nghiệp, việc cử người đại diện trực tiếp phần vốn nhà nước cũng cần phải xem xét để xử lý cho phù hợp (như kế thừa đội ngũ người đại diện cũ, trừ những doanh nghiệp quy mô lớn, có tính chiến lược).

Ngoài ra, để có căn cứ xem xét, báo cáo Chính phủ điều chỉnh mô hình tổ chức và cơ chế hoạt động của Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước để khắc phục những bất cập do Tổng công ty gây ra thì cử tri cần nêu rõ những cản trở, khó khăn do Tổng công ty gây ra cho cơ quan địa phương.



34/ Cử tri tỉnh Trà Vinh kiến nghị:Về các doanh nghiệp nhà nước thực hiện sắp xếp hình thức giao vốn cho tập thể người lao động theo Nghị định số 80/2005/NĐ-CP ngày 22/6/2005 của Chính phủ quy định người lao động không được chuyển nhượng số cổ phần được giao trong thời gian 3 năm sau khi công ty giao. Tuy nhiên đã hơn 3 năm mà vẫn chưa thấy quy định cụ thể cho việc chuyển nhượng. Đây là nhu cầu bức xúc của công nhân, lao động, đề nghị Ban Chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp Trung ương có văn bản quy định cụ thể để địa phương thực hiện.

Каталог: content -> vankien -> Lists -> DanhSachVanKien -> Attachments
Attachments -> KỲ HỌp thứ TÁm quốc hội khoá XII (20/10/2010 26/11/2010)
Attachments -> Đa dạng sinh họC Ở việt nam
Attachments -> PHẦn I các bộ, ngàNH, CƠ quan thuộc chính phủ trả LỜi cáC Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
Attachments -> CHÍnh phủ Số: 62/bc-cp cộng hòa xã HỘi chủ nghĩa việt nam độc lập Tự do Hạnh phúc Hà Nội, ngày 5 tháng 5 năm 2008 BÁo cáO
Attachments -> QUỐc hội khóa XI uỷ ban về các vấn đề xã hội
Attachments -> QUỐc hội số: CỘng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> 210/bc-btnmt cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam
Attachments -> KỲ HỌp thứ TÁm quốc hội khoá XII (20/10/2010 26/11/2010) TẬp hợP Ý kiếN, kiến nghị CỦa cử tri
Attachments -> Ủy ban thưỜng vụ quốc hội số: 365/bc-ubtvqh12
Attachments -> BỘ NÔng nghiệp và phát triển nông thôn số: 1588

tải về 4.74 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   23   24   25   26   27   28   29   30   ...   67




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương