HỒng nghĩa giác tư y thư LÊ ĐỨc toàn sao lục phòng Tu Thư Huấn luyện Viện Đông y dịch nguyễn sỹ LÂM


ĐỐI KIM ẨM TỬ tức BÌNH VỊ TÁN (cục phương)



tải về 3.47 Mb.
trang3/4
Chuyển đổi dữ liệu04.01.2018
Kích3.47 Mb.
#35678
1   2   3   4

ĐỐI KIM ẨM TỬ tức BÌNH VỊ TÁN (cục phương)

Chủ trị chứng Tỳ Vị thấp trệ, đờm ẩm, bụng trướng đầy, hay nôn ợ, không muốn ăn uống, cùng sơn lam chương khí, sốt rét ngã nước (trong bụng tích báng).




Thương truật

(tẩm nước gạo sao)

}

Đều 8 lạng

Hậu phát

(bỏ vỏ, tẩm nước gừng sao)

Trần bì

(để cùi trắng tẩm nước cơm sao)

Cam thảo

(bỏ vỏ)

3 lạng

Các vị tán nhỏ, mỗi liều uống 3 đồng cân, với nước nóng ; ngày 2 lần uống, lúc đói lòng.



Nều làm thang sắc uống, thì số lượng thuốc trên chia làm 15 thang, mỗi thang gia 2 lát gừng sắc uống.

X
THẬP THẦN THANG ở thứ mười,

Chữa chứng ôn dịch, khí trời tai ương (258)

Tứ thời hỗn tạp âm dương,

Mùa Xuân hoà khí có dường hàn phong (259)

Mùa Hè là tiết nóng nung,

Ấy sạo lại có phục âm (260) lạ dường.

Mùa Thu mát mẻ gió dương (261)

Hoặc khí chẳng thường, mộc vũ tẩm dâm (262)

Mùa Đông giá lạnh thuỷ trầm,

Khiên dương (263) trái khí, hâm hâm lỗi kỳ.

Nhân dân không biết giữ dè,

Lão thiếu cam thì bịnh cũng một ban (264)

Nặng đâu sốt ét làm cơn,

Nhức xương nhức thịt, bồn chôn (265) chẳng ngừng.

Đau đầu, đau cổ, đau lưng,

Da thịt bừng bừng lại ráo mồ hôi.

Áo chăn đắp chẳng khi rời,

Nước uống hằng đòi, hầu vẫn khát khao.

Nội thương ngoại cảm chẳng điều,

Âm dương chưa tỏ, chứng nào chưa phân.

Thì ta cũng luận THẬP PHẦN,

Ma hoàng bỏ đốt, phỏng cân 3 đồng.

Hương phụ sao chín hãy dùng,

Tô diệp, Bạch chỉ, Xuyên khung, Trần bì.

Cát căn, Xích thược, Thăng ma,

Các vị mỗi vị cắt cho 3 đồng.

Khử bì Cam thảo mới dùng,

Cắt phỏng 2 đồng, chẳng lọ là cân

Khương, Thông, Táo hợp hoà quân (266)

Một bát nước sắc, ba phần gạn trong.

Chẳng nề no đói trong lòng,

Uống còn âm ấm, khí thông ra ngoài.

Đắp áo cho đổ mồ hôi,

Tà khí theo đòi, phát hãn liền thanh (267)

Ngon cơm, sảng khí, (268) mát mình,

Điều dưỡng cho lành, chẳng khá buông lung.

Giảm gia xem xét cho thông,

Sốt cơn, gia Mạch môn đông, Hoàng cầm.

Nhức đầu, Thạch cao, Xuyên khung,

Tế tân, Cảo bản, đều cùng cắt ra.

Ho đờm Ngũ vị lại gia,

Khử lô (269) Cát cánh thì ta thêm vào

Thổ nghịch, đờm khí chẳng tiêu,

Đinh hương, Nhục quả gia vào lại yên.

Bữa ăn cơm chửa thấy ngon,

Sa nhân, Bạch truật, phép còn khá nên,

Nương long đầy tức nhọc phiền,

Chỉ xác,Bán hạ uống liền khoan tiêu.

Máu mũi ra đỏ nư đào,

Ô mai bỏ hột, phỏng gieo (270) 3 đồng,

Mao căn rửa sạch sẽ dùng,

Lại lấy 3 đồng ngang với Ô mai.

Dạ dày đau chóii đòi thôi,

Quân khương (271), Bạch truật, tìm đòi cho no.

Lạnh đau sôi bụng ù ù,

Bạch truật, Huyền hồ, hợp với Quân khương.

Dạ dày bĩ táo, chẳng an,

Đại tiện táo bón, Đại hoàng, Phát tiêu.

Xích bạch đới, hạ chứng nhiều,

Đương quy, Chỉ xác, hợp điều Hoàng liên.

Tả tiết, Đậu khấu, Hoắc hương,

Lãnh khí, hư đờm, Quan quế, Nhân sâm.

Cũng nên gia Bạch Phục linh,

Cứ bài gia giảm, cho minh sẽ làm.

Muôn ơn đạo thánh khỏi phàm,

Dụng tâm lập chí mà làm cho nên.
PHỤ PHƯƠNG
THẬP THẦN THANG (cục phương)

Chủ trị các chứng thời khí, ôn dịch, phong hàn lưỡng cảm, nhức đầu, phát sốt, ớn rét, không mồ hôi, ho, ngạt mũi nặng tiếng.



Ma hoàng (bỏ mắt)

Cát căn

}

Đều 3 đồng

Bạch chỉ

Xuyên khung

Trần bì

Tử tô

Hương phụ (chế)

Xích thược

Thăng ma




Cam thảo (bỏ vỏ)




2 đồng

Thêm Táo, Gừng và Hành, sắc uống ấm, rồi đắp chăn cho ra mồ hôi thì khỏi.



XI
Ô DƯỢC THUẬN KHÍ còn truyền,

Ở thứ mười một chép biên tỏ tường.

Tính hay thuận khí tiêu đờm,

Sơ phong tán uất, mở đường lạc kinh.

Tả hữu bại liệt tay chân,

Thấp âm, tề nặng (272), lãnh trầm đau ran.

Thịt da lở ngứa kết hòn,

Dạ lòng đầy tức, hung phiền phúc minh (273)

Đàn bà máu chẳng điều kinh,

Khí huyết ngưng trệ, chẳng thanh an hoà.

Hoặc là nam nữ trẻ già,

Phong cùng Khí trệ (274) thì ta luận bàn.

Ô dược dùng 2 đồng cân,

Trần bì phỏng lại 2 đồng cũng nên.

Ma hoàng khử tiết (275) cho yên,

Chỉ xác, Các cánh, hợp liền Xuyên khung.

Bạch chỉ bỏ hết đồ trùng (276)

Mỗi vị 1 đồng, liệu làm chớ hơn.

Cương Tàm 5 phân sao vàng,

Can khương bảo chế cũng làm 5 phân.

Chích vàng Cam thảo 3 phân,

Lại điều Khương, Táo, thuỷ quân (277) sắc hoà.

Tuỳ phương ta liệu giảm gia,

Tự hãn, đạo hãn (278) thì gia Hoàng kỳ.

Ma hoàng thì khử tiết đi,

Hoặc còn triều nhiệt, hoả di Đại trường (279)

Xét tìm lại bỏ Can khương,

Mình mẩy đau nhức chẳng thường sớm khua.

Nhũ hương, Cát cánh, Thân quy (280)

Huyết hư phát nhiệt, đau về ban đêm.

Liệu gia Hổ cốt, Mộc hương,

Hổ cốt tô chích (281), nóng rang mà ghiền.

Liều uống cứ 2 đồng tiền,

Đau lưng, Đổ trọng, Hồi hương hợp cùng.

Nhức đầu : Kinh giới, Xuyên khung,

Nặng chân tê yếu : Độc, Khương, Gia bì.

Hoặc là nó rét chẳng đi (?)

Khương, Phòng, Tục đoạn, hợp thì cũng cho.

Đàn bà phong khí (283) chẳng lo.

Phòng phong, Kinh giới, lại cho Bạc hà.

Cẩu tích, Thạch hộc, Mộc qua,

Thấp khí : Thương truật ; điều hoà : Tân lang.

Tứ chi phù thũng trễ tràng (284)

Ngưu tất, Khương hoạt, cùng đường Ngũ gia.

Chân tay mình mẩy cùng tê,

Đại phu báo chín, khử tề bỏ da (285)

Xuyên khung, Quan quế hợp gia,

Tả than hữu hoán (286) Thiên ma phép thường.

Ích mẫu, Ma hoàng nước thang,

Tật lê, tẩm rượu sao vàng với Quy.

Tính dược, tính bịnh tường suy (287)

Liệu bề gia giảm, vậy thì khỏi lo.

Tuy rằng mệnh cả thiên cơ (288)

Kinh chuyển cũng có ở ta ở Trời.
PHỤ PHƯƠNG
Ô DƯỢC THUẬN KHÍ THANG (cục phương)

Chủ trị chứng trúng phong, kinh lạc bế tắc, xương cốt đau nhức, khắp mình tê dại, đi lại khó khăn, thở gấp có đờm.




Ô dược

Trần bì

2 đồng

Ma hoàng (bỏ mắt)

Bạch chỉ

}

Đều 1 đồng

Xuyên khung (sao)

Cát cánh

Chỉ xác (bỏ ruột)




}

Đều 5 phân

Cương tàm (tẩm nước gừng sao vàng)




Can khương (bào)




}

Đều 3 phân

Cam thảo (chích)



Thêm Táo, Gừng, Hành sắc uống.



XII
Phương này chép thứ mười hai,

Sinh liệu NGŨ TÍCH (289), này bài tân ôn (290)

Tích hàn, tích thấp, tích đờm,

Tích khí, tích huyết đều làm cả năm (291)

Chứng hàn thân thể lạnh trầm,

Ăn của sống lạnh, đau âm trong lòng.

Chứng thấp tay chân nặng sưng,

Bởi nắm đất cát, lặn xông giang hồ (292)

Có người vì nước vì vua,

Dặm ngàn dãi gió, dầm mưa xa gần.

Kẻ vì thê tử, song thân (293)

Nông tang cày cấy, tân, cần (294) hôm mai.

Cho nên thấp khí trong ngoài.

Biến sinh đờm chứng khôn mài biết hay.

Dạ sưng, thịt nặng, bụng đầy,

Đờm ho, thân thể chân tay nặng nề.

Hoặc người toạ ngoạ cửu thuỳ (295)

Cho nên khí trệ hoãn trì vào trong.

Phụ nhân kinh nguyệt chẳng thông,

Nam nữ hàn thấp, ảm (?) cùng lạc kinh.

Chỉ dùng NGŨ TÍCH phương lành,

Nhân sâm, Bạch truật, Phục linh cho tường.

Chỉ xác, Xích thược, Ma hoàng,

Xuyên khung, Cát cánh, Can khương, Trần bì.

Bạch chỉ, Thương truật, Phác, Quy,

Bán hạ, Quế bì, Cam thảo, bình phân.

Nước trong dùng lấy một chung (296)

Cắt 5 lát gừng, 1 chén rượu ngon.

Lại gia Thông bạch sắc ôn,

Bỏ bã mà uống có còn lo chi.

Hoặc có phù thũng tứ chi,

Làm Ngũ gia bì, hợp với Độc, Khương.

Phòng phong, Phòng kỷ cùng làm,

Đau lưng, đau cổ :Xạ hương cùng Hồi.

Tiểu trường sán khí (297) đòi thôi,

Mộc hương cùng Hồi, hợp Ngô thù du.

Chân tay co rút lo âu,

Mộc qua, Ngưu tất, Gia bì, Tân lang.

Ho đờm Ngũ vị, Bạch tang,

Hạnh nhân, Bối mẫu cùng làm Dâu linh.

Đau mình, đau khớp toàn thân,

Nhũ hương, Mộc dược, Tế tân, Quế bì.

Lão nhân đau nhức tứ chi,

Ô dược, thuận khí hợp thì bản phương.

Tứ chi phong thấp trệ thường,

Ô dược thuận khí hợp chuyên phương này.

PHỤ PHƯƠNG


NGŨ TÍCH TÁN (cục phương)

Chủ trị các chứng ngoại cảm phong hàn, nội thương ẩm thực, đầu đau, mình nhức, gáy lưng co cứng, phát sốt, ớn rét, không có mồ hôi, bụng đau, nôn thổ, cùng hàn thấp lưu trệ trong kinh lạc, lưng chân đau buốt, và phụ nữ kinh nguyệt không đều, đẻ khó.




Thương truật (tẩm nước gạo sao)

Bạch truật

Các vị bằng nhau

Nhân sâm

Bạch linh

Chích thảo

Xuyên qui

Xích thược

Xuyên khung

Ma hoàng

Quế chi

Bạch chỉ

Cát cánh

Hậu phát

Chỉ xác

Can khương






Thêm Gừng 5 lát, Hành 3 củ, sắc xong, chế vào một chén rượu mà uống.



XIII
Mười ba lại chép kể bày,

Dùng TỨ QUÂN TỬ , phương này đạm cam (298)

Chữa người lão thiếu, nữ nam,

Hay điều ngoại cảm, hay làm nội thương.

Khí hư ở trước trăm phương,

Tỳ Vị hư nhược, chẳng thường cơm ngon.

Xanh xao, yếu đuối gầy mòn,

Phế hư (299) khao khát, sớm hôm thở dài.

Bì phu riều nhiệt vãng lai,

Vinh vệ khô sáp (300) chẳng tươi hoà mình.

Khử bì 1 lạng Phục linh,

Bạch truật 1 lạng, Nhân sâm 3 đồng.

Khử bì Cam thảo hoà dùng,

Lại phỏng 3 đồng Cam thảo sắc thang.

Sắc rồi bỏ bã phục ôn (301)

Ngày 3 lần uống, chẳng còn chút lo.

Hoặc người phì, bạch khí hư (302)

Thường thường húng hắng tiếng ho có đờm.

NHỊ TRẦN hợp với hoà làm,

Trần bì khử bạch, Hạ tìm Khương sao.

Ẩu thổ ăn chẳng có điều,

Hoắc hương, Hương phụ, gia liều Sa nhân.

Tâm phiền : Viễn chí, Táo nhân,

Chu sa, Liên nhục, Phục thần cùng gieo (303)

Mạch môn, Trúc nhự sắc điều,

Tiểu nhi đờm chứng hiểm nghèo làm sao.

Dù là kinh giản cũng tiêu,

Toàn yết, Bạch phụ, hợp vào Tế tân,

Khát nước : Qua lâu, Cát căn,

Ô mai dùng thịt, bỏ nhân chớ làm.

Tỳ hư ăn uống không ngon,

Mạch nha, Thần khúc, cùng làm Sa nhân,

Đoản khí (304) bội gia Nhân sâm,

Hoàng kỳ mật chích, Quy thân, Sài hồ.

Trần bì cũng có hợp cho,

Thăng ma chút ít, kẻo lo nhọc nhằn,

Vãng lai hàn nhiệt đòi cơn,

Sài hồ, Bán hạ, Hoàng cầm cần gia.

Bằng người huyết khí đều hư,

Hợp cùng TỨ VẬT gọi là BÁT TRÂN.

Lãnh tả, phúc thống (305) gian truân.

Kha tử, Đậu hấu, lại cần Can khương.

Trần bì lưu bạch, Mộc hương,

Ngược (306) : gia Thảo quả, Thường sơn, Thanh bì.

Hậu phát, Tân lang, Trần bì,

Thường sơn tửu chế (307), tức thì mới nên.

Hoặc có khí khối (308) chẳng yên,

Tam lăng, Nga truật, sá toan điều hoà.

Quán thông, van bịnh giảm gia.

Hư hàn : Nhục quế cùng là Can khương.

Bài này luận ít chửa tường,

Giảm gia quy liệu (309) các phương mà dùng.
PHỤ PHƯƠNG
TỨ QUÂN TỬ THANG (cục phương)

Chủ trị các chứng Tỳ Vị hư nhược, ăn kém, đại tiện lỏng, hơi thở ngắn, mặt trắng bợt hoặc vàng bủng, người béo bệu hoặc gầy còm, chân tay yếu ớt. – Theo Y Phương Thập giải : bài này chữa cả Tỳ hư và Phế hư, biểu hiện ở các chứng người gầy mặt vàng (Tỳ hư) và da nhăn lông rụng (Phế hư)




Bạch truật

(tẩm Hoàng thổ sao)

}

Đều 1 lạng

Bạch linh

(bỏ vỏ)

Nhân sâm

(tẩm gừng sao)

}

Đều 3 đồng

Cam thảo

(chích)

Thêm Táo 2 quả, Gừng 3 lát, sắc uống.
KẾT LUẬN
Xem cho biết phép bổ công,

Mười ba phương ấy, no trong đủ ngoài.

Bịnh có tiêu bản, mạt cai (310)

Trị có sau trước, xem người lập phương.

Giàu sang sắc dục, cao lương,

Ngoại cảm thì ít, nội thương thì nhiều,

Hễ càng nghèo khó bao nhiêu,

Dầm sương, dãi nắng, phiền lao nhục bì (311)

Bụng lòng, chứa những hoắc lê (312)

Nội thương thì ít, nhiều bề ngoại thương.

Tăng ni, nam nữ quá phòng (313)

Nhẫn lòng ổn chí (314) âm dương u tù.

Lão nhân huyết thịnh khí hư,

Tiểu nhi âm thiểu, khí phù thịnh dương.

Cho hay mở lưới tìm giềng (315)

Hư bổ thực tả, chứng làm cho phân

Lại tường nhược nhân, tráng nhân (316)

Nhược thì bổ bản, tráng cần công tiêu,

Các phương hoặc dùng bài nào,

Vị ít vị nhiều, đã có sai phân.

Vị nhiều chủ bịnh làm quân (317)

Vị ít làm Thần, ít nữa Sứ thông (318)

Có bài chưa nói lạng, đồng.

Đến khi liều lượng biến thông : tại người.

Mặc ai nghiền ngẫm xem chơi,

Ấy cũng chữa đời “chứng nịch phù điên” (319)

Sãi nay sư lịch (320) tài hèn,

Thuật trong Thượng cổ tiên hiền chép chơi.

Dám khuyên y học hậu lai,

Tế sinh (321) tích thiện, phúc trời hậu ta.

CHÚ THÍCH

(của mười ba phương gia giảm)
(1). Hạnh đàn : đàn cây hạnh (do chữ “hạnh lâm” : rừng hạnh), nơi tu luyện của các đạo sĩ. Đây Tuệ-Tĩnh dùng chỉ nơi tu trì và làm thuốc của mình.

(2). Cảo bản : bản sách thảo ra, chỉ bản “Thập tam phương gia giảm” này.

(3). Phục-Hy : một vua thời Thượng cổ Trung-Quốc ; dạy dân làm ruộng, chăn nuôi, vạchra “bát quái” sáng lập văn tự.

(4). Yểu trát : chết non gọi là “yểu” , chết dịch gọi là “trát”. Bất thì : bất thời, bất thần. Kham ngu : đáng lo, đáng thương.

(5). Bì bộ, bì phu : những người đàn ông, đàn bà hèn mạt, quê lậu

(6). Buộc giải làm đồ : không rõ nghĩa, nghĩ chỉ sự dùng chiêu bài làm thuốc.

(7). Hoặc thế giả dân : mê hoặc người đời, lừa dối nhân dân.

(8). Tâm chủ nhất thân : Tâm là chủ tể của cả một thân người ; ý nói quyết định cho cả mọi sự việc.

(9). Vọng cầu : mưu cầu càn dở, cỉ chung mọi sự bôn tẩu, mưu đồ không chính đáng. Dẫn đến lao lực lao tâm. Ý nói sự vọng cầu, lao sực lao tâm, mà mắc bịnh ngoại cảm, nội thương.

(10). Tệ : tổn hại. “Huyết khí chu lưu, bách tà bất tệ”. nguyên là 2 câu trong sách thuốc, nói nếu huyết khí mà chu lưu, thì dù có trăm tà khí, cũng không tồn tại được.

(11). Su lịch : hai thứ cây gỗ tạp, gỗ xấu ; thường dùng chỉ người bất tài. Đây Tuệ-Tĩnh nói khiêm tốn.

(12). Thảo lai : cỏ giã. Tiện sĩ : kẻ sĩ hèn mọn. Đạo hoà : đạo là lúa tẻ, hoà là tên gọi chung các giống lúa, sách có câu :”Học giả như hoà như đạo, bất học giả như cảo như thảo” nghĩa là là người học thức như các giống lúa đạo hoà ; người bất học như loài rơm cỏ. Đây Tuệ-Tĩnh cũng khiêm tốn nói mình là một kẻ sĩ hèn mọn, bất học, không dám sánh hàng với bậc học thức.

(13). Tiên giác y gia : bậc người làm thuốc có sự hiểu biết trước tiên.

(14). Đằng thảo : viết ra rõ ràng.

(15). Tư thục : “thục” là điều thiện, điều hay ; “tư thục” là riêng học điều thiện ơ người. Thời xưa, những người học trò không trực tiếp thụ nghiệp ông thầy, chỉ học qua người khác truyền lại, hoặc tự học trên sách vở của ông thầy, thì gọi là “tư thục”. Đây nói sự học riêng về 13 phương gia giảm của Tuệ-Tĩnh.

(16). Tuân sao : theo mà sao chép.

(17). Thất niêm : lỗi niêm luật, nguyên nói việc làm thơ, đây mượn nói việc sai lầm trong phương pháp làm thuốc.- Nhuế tạc : “nhuế” là đầu cán gỗ, (tức đầu cắm vào lổ búa), “tạc” là lỗ búa, sách có câu “viên tạc phương nhuế”, lỗ tròn mà cắm cán vuông, nói ý không ăn khớp với nhau ; đây mượn chỉ sự lệch lạc về y thuật. – Hỗn hào : lẫn lộn.

(18). Chân kinh : những kinh sách chân chính, căn bản.

(19). Tham tường : tham khảo tinh tường. – Tầm tử : bản khắc, bản in. Ý nói xem xét kỷ về bản sách in ra.

(20). Thê giai : bậc thang, bậc thềm. Ý nói làm bước tiến lên của hậu học.

(21). Hạ trí : người trí khôn bậc dưới, người học vấn thấp kém. Hai chữ này, nghi là “thượng trí”, người trí thức bậc trên, thì đúng hơn. Tập sách này, người thượng trí thì mới xem được, chứ người hạ trí thì xem làm sao được ?

(22). Đam đạm : nhạt nhạt, ý nói không được tinh thâm lắm (lời khiêm tốn).

(23). Y sư : thầy thuốc.

(24). Quán thông : thông suốt.

(25). Xuất kinh nhập sử : ra kinh vào sử ; ý nói thông suốt các sách kinh sử.

(26). Tử tế : tinh tế, nói phải tinh tế nhận xét về Ngũ hành.



Trầm phù : không rõ nghĩa ; nghi nói sự thịnh suy của Ngũ hành.

(27). Cấp trì : nhanh và chậm, như nói “sác trì”, chỉ mạch tượng

(28). Thậm vi : nặng và nhẹ, chỉ bịnh tình.

(29). Hợp viên : thích đáng và chu toàn.

(30). Yên : vậy (trợ ngữ từ)

(31). Nhiếp lý : “nhiếp” là hào hiệp, “lý” là chỉnh lý, làm cho âm dương được hoà hiệp, chỉnh lý.

(32). Y dân y quốc : chữa dân, chữa nước.
I
(33). Bất hoán kim : tức BẤT HOÁN KIM CHÍNH KHÍ TÁN, xem “phụ phương” ở dưới.

(34). Nhiệt triều : tức triều nhiệt (đặt đảo lên cho hiệp vần), chứng sốt có thời gian nhất định, giống như nước thuỷ triều , nên gọi “triều nhiệt” (cơn sốt hay phát về chiều). Chứng này có 3 loại là :

1, “Âm hư triều nhiệt” do âm dịch bất túc, tối thì phát sốt, mồ hôi trộm.

2. “Thấp ôn triều nhiệt” do dương khí bị thấp tà ngăn chặn, nên thường sốt về chiều.

3. “Nhật bộ triều nhiệt (nhật bộ là giờ Thân, tức 4-5 giờ chiều, triều nhiệt giờ Thân, thuộc chứng Dương Minh) do nhiệt tà kết tụ trong đường ruột.

(35). Chướng khí sương lam : “chướng khí” là khí độc nơi rừng núi, “sơn lam” là khí núi ẩm ướt.

(36). Lâm ly : dầm dề.

(37). Thiết thi : nói như thi thố.

(38). Mễ cam : nước vo gạo.

(39). Đồng tiền : đồng cân. Thời xưa, khi uống thuốc bột, người ta thường lấy đồng tiền mà xúc làm liều lượng. Nhân đó, đời sau mượn gọi đơn vị một đồng cân là “một đồng tiền”.

(40). Khử nhân : bỏ ruột.

(41). Súc sa :tức Sa nhân (xem chú thích 66 ở “bài Phú thuốc Nam”)

(42). Tiêu thực, khoan trung : tiêu hoá thức ăn, khoan thông, lòng bụng.

(43). Lãnh tả : chứng tiết tả do khí lạnh.

(44). Hạ lỵ nùng huyết : đi lỵ ra mủ máu.

(45). Ôn ôn nhi phục : đợi thuốc còn âm ấm mà uống.

(46). Úi : cơn sốt rét.

(47). Suyễn cấp, khí thô : suyễn gấp, hơi thở ồ ồ.

(48). Khử tiết : bỏ mắc, nhánh.

(49). Liền bầy, liền hai : như nói liên hồi, luôn luôn.

(50). Nỏ : như nói khô (tai hông khô)

(51). Nụ Đinh : nụ Đinh hương.

(52). Phác, phúc : Hậu phác. Đại phúc bì.- Ngũ gia : Ngũ gia bì.

(53). Phúc trung khí khối : tích khối trong bụng do khí kết lại.

(54). Hai câu này diễn ý cái tên bài thuốc “Bất hoán kim” : dù có vàng cũng không đổi, để nói rõ cái giá trị của bài thuốc.
II
(55). Nương long : vùng ngực.

(56). Quay đầu vần vật : tả chứng trạng chóng mặt.- Không hoa bày hàng : bóng hoa trong không, hiện ra từng hàng, tả chứng trạng hoa mắt.

(57). Bịnh hậu : sau khi đau ốm.

(58). Đàm môn : như nói đàm loại, loại bịnh đờm.

(59). Cách đàm thượng tiêu : vùng thượng tiêu có đờm ngăn cách.

(60). Gieo : do chữ “đầu” , tức là dùng thuốc.

(61). Điều quân : điều hoà.

(62). Khử bạch : “bạch” là lớp cùi trắng mỏng ở phía trong vỏ quít khi dùng làm thuốc sơ thông, thì bỏ cùi ấy đi, gọi là “khử bạch” khi dùng làm thuốc hoà trung, thì để cùi ấy lại, gọi là “lưu bạch”.

(63). Bì mô : vỏ màng, vỏ mỏng bên ngoài.

(64). Lửa văn, lửa vũ : lửa nhỏ, lửa to.

(65). Tứ quân : tức TỨ QUÂN TỬ THANG gồm 4 vị Nhân sâm, Bạch truật, Bạch linh, Cam thảo (xem bài XIII ở dưới). Đây nói dùng bài Tứ Quân hợp với Nhị Trần, nhưng trong bài Nhị Trần đã có Phục linh, Cam thảo rồi, nên chỉ nói gia thêm Nhân sâm và Bạch truật.

(66). Liệt lào : yếu liệt đi.

(67). Úi : xem chú thích 46 trên.

(68). Rượu sao Khô cầm : vị Khô cầm sao rượu. vị Hoàng cầm trong rỗng, gọi là “khô cầm” ; có tác dụng tả Phế hoả, thanh cơ biểu nhiệt ; trong đặc gọi là “Điều cầm” hay “Tử cầm”, có tác dụng tả Đại trường hoả, bổ Bàng quang thuỷ.

(69). Hâm hâm : như nói âm ấm.

(70). Vô bịnh đồng nam : trẻ em trai không có bịnh tật gì.

(71). Tiền : đồng cân (xem chú thích 39 trên)

(72). Bỉ mãn tâm hung : vùng tim, ngực bị đầy.

(73). Thuỷ tả : tiết tả ra nước, đi ngoài lỏng.

(74). Tiến thực : tăng tiến sự ăn uống. – Tiêu đạo :tiêu hoá thức ăn, và vận hành tích trệ.

(75). Khuông phù : chính nghĩa là cứu giúp và phù trợ.

(76). Tuỳ vận : theo đó mà vận hành.- Thanh : tranh trừ, khỏi.


III
(77). Di giản phương : tên một cuốn sách thuốc của Vương-Thạc đời Tống, trong chép những phương thuốc đơn giản dễ dùng, nên gọi là “Dị giản”.

(78). Chướng ngược : chứng sốt rét do cảm nhiễm sơn lam chướng khí.

(79). Chung : chính nghĩa là một chén ; đây dùng chữ một bát.

(80). Thanh : xem chú thích 76 trên.

(81). Tỳ tả : chứng tiết tả do Tỳ hư.

(82). Tần tần : luôn luôn.

(83). Tinh thô : tinh tế và thô sơ.

(84). Xuyên hợp : trích vài ba vị ở phương này vào phương kia gọi là “xuyên”, nhập toàn bộ vị thuốc của phương này với phương kia gọi là “hợp”.

(85). Qui liệu : qui định và trù hoạch về phương thức và phép gia giảm của 13 phương.

IV
(86). Máu đem : chữ “đem” không rõ nghĩa, nghi là nói máu ra, tức hành kinh. – Nguyệt hầu : tức nguyệt hậu, chỉ kỳ kinh hàng tháng.

(87). Phúc tề : bụng và rốn.

(88). Chưng tiêu : nung nấu. Ý nói huyết bị hoả nhiệt nung nấu mà hao tổn đi.

(89). Tòng phong : theo về bịnh Phong. Đây nói tục thường cho phong là đầu mối trăm bịnh. (Phong vi bách bịnh chi trưởng) ; nên những bịnh huyết hư, không cứ nam nữ đều coi là loại phong cả.

(90). Hoà quân : hoà đều.

(91). Tinh thần : như nói “thanh thần” là buổi sớm mai (sớm mai là lúc khí trời trong sạch, nên gọi là “tinh” hay “thanh” đều hàm ý trong sạch).

(92). Gia bổ : thêm thuốc bồi bổ.

(93). Tiểu sài hồ : tức bài XIII ở sau. – Lạc cung : cung Tâm bào lạc.

(94). Bồi : bồi dưỡng, đây dùng như ngĩa điều lý, điều trị.

(95). Lạc bào : nghi là nói Tâm bào lạc. – Chưng lâm : nung nấu lan trản (quanh khắp cả).

(96). Điều cầm : vị Hoàng cầm đặc ruột, xem chú thích 68 trên.

(97). Tân sinh : sinh mới ra.

(98). Huyết sướng : sướng là thông đạt ; huyết sướng có nghĩa là huyết được lưu thông.

(99). Chẳng nhấp : chẳng ngủ.

(100). Liên phòng : Tông Tử : gương sen vả quả Móc. – Siêu bôi : đốt thành than.

(101). Muộn mê : buồn rầu, mê lẩn.

(102). Khí khối : xem chú thích 53 trên-. Trưng hà : chữ “hà” chính âm là “giả”, xem chú thích 71 ở tập Y-Luận (Phép luận mạch tổng yếu)

(103). Bồng truật : Bồng nga, xem chú thích 116 ở bài Phú dược tính chỉ nam trực giải.

(104). Đại biền : tức đại tiện (chữ “tiện”có 2 âm : tiện và biền, nghĩa cũng như nhau). Chữ “tiểu tiện” hay “tiểu biền” cũng thế.

(105). Phong trường : tức trường phong, một chứng tiện huyết do phong nhiệt uất trệ ở Trường Vị mà sinh ra (chứng này, máu tươi đi toé ra trước phân, giang môn không sưng đau).

(106). Can tàng : tức Can tạng. nội-Kinh nói : “Can tàng huyết” , nay bịnh lỵ đã chỉ, máu đều thu về Can cả.

(107). Cầm khô : tức khô Cầm, xem chú thích 68 trên. Đây nói phải dùng Điều cầm chứ không dùng Khô cầm được.

(108). Thai phụ : phụ nữ có thai, có mang.

(109). Rễ Gai : tức Trữ ma căn. Xem chú thích 165 ở bài Phú thuốc Nam.

(110). Rau Huyên : tức cây hoa Hiên, xem chú thích 70 ở bài Phú dược tính chỉ nam trực giải.

(111). Mẫu nhi : mẹ và con.

(112). Cẩn tuỳ : cẩn thận mà dùng theo- . đinh ninh : cặn kẻ.

(113). Hạ thiên : mùa Hè.

(114). Thuỷ tả : xem chú thích 73 trên.

(115). Phúc thống : bụng đau.

(116). Bì thô : vỏ thô bên ngoài.

(117). Oa tà khẩu nhãn : miệng mắt méo sếch.

(118). Đồng tiền : xem chú thích 39 trên.

(119). Tuệ nhân trần : tuệ” chưa rõ nghĩa, nghi nói vị Nhân trần dùng bông nó (như Kinh giới tuệ). Các bản thảo Trung Quốc đều nói dùng lá và thân non của nó.

(120). Phiền táo tâm hung : vùng tim ngực cảm thấy buồn bực và chân tay vật vã (chữ “táo” đây, có thể giải theo chữ “táo” là khô ráo, “phiền táo” tức vùng tim, ngực thấy buồn bực và khô ráo).

(121). Hoắc loạn chuyển gân : chứng thổ tả mà có chuyển gân, tức gân bị co rút lại, không duỗi ra được (chủ yếu là ở 2 bắp chân). Do tân dịch hư táo (mất nước nhiều) mà sinh ra.

(122). Câu cấp, câu loan : co rút, co kéo.

(123). Khử tiết : xem chú thích 48 trên.

(124). Khối khí : cũng như khí khối, xem chú thích 53 trên.

(125). Gia bổ : chữ “bổ” không đúng nghĩa ; vì 2 vị Lăng, Nga, chỉ có tác dụng hành huyết tiêu tích, chứ không có bổ gì, nghi là chữ “nhập” chép lầm ; gia nhập tức là gia thêm vào, thì đúng hơn.

(126). Đầu đông : nhức đầu -. Huyền vựng : hoa mắt chóng mặt.

(127). Tỵ nục : đổ máu mũi.

(128). Chúa tôi : tức vị Quân, vị Thần.

(129). Tiểu trường khí thống : chứng đau khí Tiểu trường ; tức chứng sán khí đau ở vùng bụng dưới chằng xuống cao hoàn, lại đau lên cả sống lưng nữa. Do Tiểu trường hư, phong hàn xâm nhập mà sinh ra, nên gọi “Tiểu trường khí thống” (hoặc giải Tiểu trường khí tức bàn trường khí, là chứng thoát vị ống bẹn).

(130). Vãng lai hàn nhiệt : rét nóng qua lại.

(131). Chiền lật : rét run cầm cập -. Cốt khí chiền lật : không rõ nghĩa, nghi chép lầm.

(132). Công chỉ khất tả : có công dụng chỉ được chứng tiết tả -. Tiểu biền : tức tiểu tiện. xem chú thích 104 trên.


VI
(133). Nghiêm sương : hơi sương lạnh ngắt.

(134). Ươn ươn : chỉ trạng thái ớn rét.

(135). Sâm si : so le, ý nói không đều.

(136). Nhiệt triều : xem chú thích 34 trên.

(137). Lãnh tả : xem chú thích 43 trên.

(138). Cam thảo : vị này nghi chép lầm vì Huyền Vũ thang của Trọng-Cảnh không có Cam thảo, và Cam thảo là Tỳ dược, không fùng vào thang Huyền vũ, một thang chuyên trị về Thận dược.

(139). câu này có vị Bạch truật thừa, vì trên đã nói rồi, lại 4 chữ “để dành làm thang” cũng không có nghĩa ; nghi đều chép lầm (có lẽ đoạn này, sách chép mất một số câu, nên 2 câu Cam thảo và Bạch truật, đều không có nghĩa).

(140). Câu này nghĩ cũng chép sai, vị chỉ nói “bát nước” thiếu số lượng.

(141). Văn vũ hoả : lửa văn vũ tức lửa nhỏ, lửa to.

(142). Phong phòng : tức vị Phòng phong, đặt đão lên cho hợp vần, dễ nhớ.

(143). Khử bạch : xem chú thích 62 trên.
VII
(144). Thời vật khí thư : ý nói theo vật tượng từng mùa, thì khí ấy khi trời đã hoà hoãn (khí thư), chỉ khí hậu mùa Xuân.

(145). Thám bịnh : chữ thám chính nghĩa là thăm dò, đây dùng như nghĩa điều trị, “thám bịnh” tức điều trị.

(146). Gieo : xem chú thích 60 trên.

(147). Lưỡng cảm : cũng gọi “trùng cảm”,tức nội tạng vốn có bịnh, lại cảm nhiễm ngoại tà, trong ngoài đồng thời phát sinh.

(148). Ố hàn : ghê rét.

(149). Chư ban : các thứ bịnh.

(150) Xung thăng huyết dật : khí xung lên, làm cho huyết tràn ra.

(151). Tương liên : liên quan với nhau.

(152). Phân bằng : bằng phân.

(153). Chẳng di : chẳng di chuyển, tức không khỏi.

(154). Mễ cam : xem chut thích 38 trên.

(155). Trần cữu : thứ cũ, thứ lâu năm.

(156). Tảo thần : buổi sớm mai.

(157). Tiêu trướng, khoan hành : “hành” là căng đầy (nghĩa cũng giống như trướng), vì như nói bành trướng, đây nói tiêu được chứng trướng, thông được chứng đầy.

(158). Trò : loài, vị thuốc.

(159). Mộc tà : Can tà _. Thổ thần : “thần” chỉ công năng chủ trì của một tạng khí. Thổ thần tức công năng chủ trì của Tỳ thổ.

(160). Thuỷ tả : xem chú thích 73 trên.

(161). Mộc bình Thổ thực : Can mộc được dẹp bình, Tỳ thổ được sung thực. Vị hoả tả an : Vị phủ được điều hoà, tiết tả được yên ổn.

(162). Ngược tật phát dương : bịnh sốt rét phát triển.

(163). Thục can : chữ “can” không có nghĩa, nghi là chữ “địa” chép lầm. vị Địa hoàng có biệt danh là “Hộ”, nên thường khi người ta gọi Thục địa hoàng là Sinh địa hoàng : “sinh hộ, địa hộ” ; có lẽ do chữ hộ với chữ can hình dạng giống nha mà chép lầm chăng ??

(164). Khử hạch : bỏ hột.

(165). Phúc trung giảo thống : trong bụng xoắn đau.

(166). quân khương : tức can khương.
VIII

(167). Vãng lai tự ngược : nóng rét qua lại, tựa như chứng ngược (sốt rét định kỳ).

(168). Phu bì : tức bì phu.

(169). Hãn hậu nhiệt triều : sốt cơn sau ra mồ hôi.

(170). Máu đem : xem chú thích 86 trên. -. Chẳng chính máu đem : tức hành kinh chẳng đúng kỳ.

(171). Chủ trương : như nói chủ tể, chủ trì. Đây nói Can không tàng được huyết, Tâm không chủ được huyết, nên hành kinh không đúng kỳ.

(172). Thiếu dương : chỉ kinh Thiếu Dương ĐỞM, tức kinh mạch có uất nhiệt mà Tiểu sài hồ là phương thuốc chữa chứng này.

(173). Khô cầm : xem chú thích 68 trên. -. Mục khô : chỉ cái chất mục nát trong một vị Hoàng cầm.

(174). Cơn triều : cơn triều nhiệt.

(175). Thường sơn chế rượu : vị Thường sơn hay làm nôn thổ, nên thường phải sao rượu hay chưng rượu, để giảm bớt tính đó.

(176). Lưu bạch : để cùi trắng, xem chú thích 62 trên.

(177). Triệt ngược : cắt cơn sốt rét-. Hoàn viên : vẹn tròn, ý nói cả 2 mặt bổ và công được trọn vẹn, hoàn toàn.

(178). Bồn chôn : tức bồn chồn, đặt âm “chôn” cho vần, dễ đọc.

(179). Tiểu biền : tức tiểu tiện, xem chú thích 104 trên.

(180). Hư tâm : tức Tâm hư.

(181). Kinh nhiệt : kinh sợ và nóng sốt.

(182). Toan hàn : vị chua tính hàn.

(183). Cấm dược : thuốc cấm kỵ, chỉ vị Bạch thược. Ý nói đây là chứng nhiệt uất ở bì phu, phải dùng Bạch thược, đừng thấy nó khí vị toan hàn, cho là thuốc cấm kỵ với bịnh sản hậu mà khong dùng, thì thật là lầm.

(184). Tiện đồng : tức đồng tiện, nước giải trẻ em.

(185). Tiểu đạo : đạo thuật nhỏ, chỉ đạo thuốc. – Y gia : nhà làm thuốc. Hai chữ “tiểu đạo” nguyên là lời Tử-Hạ (học trò Khổng-Tử) trong sách Luận-Ngữ, nói học thuyết bách gia trong có Y học) đều là những đạo thuật nhỏ bé cả (một quan điểm sai lệch của người xưa). Đây tác giả mượn để nói khiêm tốn đó thôi.

(186). Tư hùng : không rõ nghĩa, nghi nói vị Can khương có sự tư trợ cho dược lực được mạnh thêm.

(187). Máu hôi : tức huyết và khí.

(188). Kim gia : nhà tạng Kim, chỉ tạng Phế.

(189). Thủ thành : giữ nên. Đây nói bài TỨ VẬT gia Can khương sao đen, có tác dụng ngoài trừ tà mà trong bổ chính, ví như việc quân quốc ngoài dùng uy vũ để thắng địch, trong dùng nhân nghĩa để giữ yên quốc gia. Hai câu này, cũng như câu “”mưu mô nào khác chước nhà dùng binh” ở trên đều diễn đạt cái ý dụng dược như dụng binh nói tại đoạn đầu.

(190). Tứ thể : tứ chi.
IX
(191). Đồi kim : tức Đồi kim ẩm tử, xem Phụ phương ở dưới.

(192). Chướng ngược : xem chú thích 78 trên.

(193). Biên cương : biên thuỳ.

(194). Thái Nguyên : tên một tỉnh ơ miền Bắc nước ta ; xưa là nơi nhiều lam chướng, nhát là vùng Đại Từ, Võ Nhai (ta thường có câu : “Những người lữ khử lừ khừ, chẳng người Đại từ, thì người Võ nhai). Đây mượn để nói những nơi núi rừng lam chướng xa xôi. Dưới đây nói Sơn Tây, Quảng Nam… cũng ý nghĩa thế.

(195). Uất dã : cánh đồng u uất, rậm rạp

Độc lang, độc xà : chó sói độc và rắn độc.

(196). Quỷ mị : quỉ quái, ma quỉ (quái vật gọi là mị).

(197). Chướng vụ : chướng khí và hơi mù.

Yên hà : nguyên nghĩa là khói và mây, đây dùng chỉ những nơi rừng núi nhiều mây khói âm u. (chú ý : từ “yên hà”đây cũng là tử yên hà chỉ cảnh ẩn dật, nhưng dùng với nghĩa khác.

(198). Tinh thần : xem chú thích 91 trên.

(199). Cõi ấy : chỉ những vùng lam chướng độc hại. Ý nói dù ở những vùng đó hàng 10 năm, mà cứ chuyên dùng một phương Đồi kim ẩm tử, cũng được lành bịnh.

(200). Thuỷ trướng địa bình : đất bằng phẳng mà nước tràn đầy.

(201). Sơn khê : núi và khe.

(202). Hỗn đồng : hoà lẫn.

(203). Úi ê : sốt rét triền miên.

Liệt lào : xem chú thích 66 trên.

(204). Trúng cả : trúng to



Tiểu qua : trái dưa nhỏ. Đây nói nhân dân bị sốt rét lâu ngày thành báng (ngược mẫu) hoặc như trái dưa nhỏ.

(205). Hạ tiêu : hạ xuống và tiêu đi.

(206). Ngược hậu khí lao : sau khi mắc bịnh sốt rét mà nguyên khí suy yếu.

(207). Thất thương : 7 chứng tổn hại :

- ăn no quá hại Tỳ ;

- giận quá, khí nghịch lên hại Can ;

- cố làm nặng, ngồi lâu nơi ẩm thấp hại Thận ;

- thân hình bị rét, nước uống lạnh hại Phế ;

- buồn rầu, lo nghĩ hại Tâm ;

- gió mưa, rét nắng hại thể xác ;

- sợ hãi quá, không tiết độ, hại Chí ; (theo Chư bịnh nguyên hậu luận)

* Ngũ lao : 5 chứng lao tổn của 5 Tạng :

- Tâm lao, Can lao, Tỳ lao, Phế lao, Thận lao. Theo Nội-kinh :

- trông lâu hại Huyết. – nằm lâu hại Khí. – ngồi lâu hại Nhục. – đứng lâu hại Xương. – đi lâu hại Gân.

Gọi là “Ngũ lao sở thương” ý nói mệt quá sức độ, sẽ làm tổn hại đến những bộ phận chủ trì (huyết, khí…) của 5 Tạng.

(208). Tứ thì : tứ thời, 4 mùa.

(209). Sát ly : sát ma tà, ly là ma tà, quái vật, nhưng theo lời chủ sách Tả truyện ; thì nó là cái khí lạ sinh ra ở nơi núi rừng, thường làm hại người.

(210). Bổ Vị : bồi bổ phủ Vị.

(211). Trần cữu : xem chú thích 155 trên. Vị Quất bì cần thứ để lâu năm, nên gọi là Trần bì, càng lâu càng quí.

(212). Hung trường : vùng ngực và đường ruột.

(213). Tính lương : tính lành.

(214). Để sống thì lạnh : chữ lạnh đây nghi chép lầm ; vì vị Cam thảo để sống thỉ chỉ hơi mát chứ không lạnh. Theo chúng tôi nên sữa là “để sống hơi mát” thì đúng hơn.

(215). Quốc lão : vị Cam thảo có công năng điều hoà các vị thuốc và giải trừ các chất độc, nên được người ta đặt cho một tên gọi đặc biệt là “Quốc lão” (vị lão thần của một quốc gia).

(216). Nhan cảo : tức Nhan Cảo Khanh, người đời Đường ; khi ông khởi binh đánh giặc An-Lộc-Sơn, bị chúng đến vây thành, bắt được, ông chửi giặc không ngớt lời, giặc cắt lưỡi ông rồi giết đi. Được khen là người trung tiết.

Tử-Phòng : tên tự của Trương-Tử-Phòng, người đời Hán, giỏi mưu lược. Sau khi giúp Cao-Tổ dựng nên đế nghiệp ; ông xin về đi học đạo thần tiên, được khen là người hiền, có khí tượng bậc nho giả. Đây tác giả mượn Cảo-Khanh và Tử-Phòng để khen ngợi công năng của vị thuốc Quốc lão.

(217). Dược binh : đạo quân của bài thuốc (vẫn cái ý “dụng thuốc như dụng binh”).



Ngụ bổ ngụ công : ngụ bổ trong thuốc công, ngụ công trong thuốc bổ.

(218). Tư nhân tư mệnh : người ấy bịnh ấy.

(219). Mễ cam : xem chú thích 38 trên.

(220). Mễ thang : nước cơm.

(221). Lưu bạch : để cùi trắng, xem chú thích 62 trên.

(222). Cẩn phong : gói kín.

(223). Ôn thang : uống với nước nóng.

(224). Mười lăm : 15 thang, xem Phụ phương ở dưới.

(225). Tứ thì : xem chú thích 208 ở trên.

(226). Tráng nhiệt : sốt dữ.

(227). Sốt thăng : sốt lên.

(228). Thiên ban : nhiều thứ.

(229). Lao phiền : nhọc phiền.

(230). Nhân sâm bại độc : tức NHÂN SÂM BẠI ĐỘC TÁN (Hoạt nhân thư). Có tác dụng phát hãn, giải biểu, khu phong, trừ thấp, chủ trị các chứng cảm mạo phong hàn thấp, rét run, nóng dữ, đau đầu, cứng gáy, chân tay mình mẩy đau dần, không mồ hôi, ngạt mũi, nặng tiếng, ho có đờm. các bịnh thời dịch, kiết lỵ, sốt rét dịnh kỳ, mụn nhọt, .. mà có những biểu chứng kể trên, đều có thể dùng bài này (nhiều vụ dịch lớn đời Minh, đều dùng bài này mà chữa khỏi được cả)

(231). Quảng đông : một tỉnh của Trung Quốc, ở giáp giới phía Bắc Việt-Nam.

(232-233). Đại đồng : không rõ ở đâu.



Phiên di : nguyên nghĩa là rợ mọi ; đây dùng chỉ các nước ở phía ngoài cõi biên. Những địa danh mà tác giả nêu lên ở đây, thì Quảng đông, phiên di là nơi cõi đất nước ngoài, còn Sơn tây, Tuyên quang, Hưng hoá là các tỉnh miền Tây bắc VN ; Thuận hoá, Quảng nam là các tỉnh miền Nam VN. (nói địa giới thời Lê), đều những nơi rừng núi xa xôi, khí hậu không lành mạnh cả.

(234). Kiếp chướng : tiêu trừ lam chướng.

(235). Khử bạch : bỏ cùi trắng, xem chú thích 62 trên.

(236). Khử mộc : bỏ chất gỗ nhỏ ở trong (Phục linh là một loài nấm, sinh ở dưới gốc cây thông, nên thường có chất gỗ rễ thông đâm vào, khi dùng Phục linh, phải bỏ nó đi).



Bì ban : vỏ đốm, vỏ sù sì bên ngoài (cũng bỏ đi).

(237). Khử hạch : bỏ hột.

(238). Khương trắp điền quân : nước gừng tẩm điều hoà.

(239). Tảo thần : buổi sáng sớm.

(240). Chướng ngược : xem chú thích 78 trên.

(241). Đồ kinh : tức Đồ kinh bản thảo, xem chú thích 5 ở bài Phú thuốc Nam.

(242). Bảo bình thổ nguyên : giữ bình nguyên khí của Tỳ thổ.

(243). Thái Dương tinh : tinh khí của mặt trời kết thành.

(244). Xà yết : rắn và bọ cạp

Hải kinh : kinh sợ.

(245). Ngô công, độc xà : rết và rắn độc.

(246). Phương Nam : một phương thuộc hoả, thuộc mùa Hè.

(247). Bất hoán : tức BẤT HOÁN KIM CHÍNH KHÍ TÁN, bài một số trên.



Thập thần, Ngũ tích : tức bài số 10 và bài số 11 ở dưới.

(248). Cơ bịnh : chỉ nguyên nhân và quá trình biến hoá bịnh tật.

(249). Hợp y phương nào : nên theo phương nào.

(250). Ngược khát : sốt rét khát nước.

(251). Khối : tích khối.

(252). Ghe phương : nhiều phương. Ý nói đã dùng các phương thuốc hoà, triệt, bổ (hoà giải, cắt cơn sốt và bổ khí lực), mà bịnh không khỏi.

(253). Lưu hạch : để cùi trắng, xem chú thích 62 trên.

(254). ải quan : ý chỉ đường đi đại tiện : vị Đại hoàng biệt danh là “Tướng quân”, có khả năng dánh thẳng vào Trường Vị, mà khai thông đại tiện, ví như một vị tướng quân có tài chém tướng cướp cửa ải, nên nói là thông đường ải quan.

(255). Lộ khí sương sa : khí sương móc sa xuống trong đêm trường.

(256). Trục hạ : trục xuống, tống xuống.

(257). Đa đoan : nhiều mối, nhiều bề.
X
(258). Tai ương : tai vạ.

(259). Hàn phong : thứ gió rét lạnh.

(260). Phục âm : khí âm trái thời, chỉ mùa Hè mà lại có cái khí rét lạnh. Sách Tả truyện có câu : “Đông vô khiên Dương, Hạ vô phục Âm” ; nghĩa là mùa Đông không có khí Dương sai tiết ; mùa Hè không có khí Âm trái thời. Tức là khí hậu đều được điều hoà cả. Chữ “khiên” chữ “phục” đều nói cái ý sai trái, nên người ta thường dùng từ “khiên phục” để chỉ sự sai trái, mất điều hoà của âm dương và tứ thời (xem thêm chú thích 400 ở tập “Thương hàn tam thập thất truỳ pháp”.

(261). Gió dương : gió thổi.

(262). Mộc vũ tẩm dâm : mộc là gội ướt, tẩm dâm là ngấm dầm ; ý nói mùa Thu mà lại có những trận mưa trái tiết, gội ướt, ngấm dầm, làm tổn thương đến cơ thể con người.

(263). Khiên dương : khí Dương sai tiết, chỉ mùa Đông mà lại có cái khí ấm nóng. Từ “khiên dương” đây, cũng như từ “phục âm” trên, đều lấy ý nghĩa ở sách Tả truỵên (xem chú thích 260 trên).

(264). Một ban : một thứ, một loài.

(265). Bồn chôn : bồn chồn, buồn bầy (đặt âm chôn cho dễ đọc).

(266). Khương thông , Táo: gừng, hành và táo.

Hoà quân : hoà đều.

(267). Thanh : xem chú thích 76 trên.

(268). Sảng khí : sảng là khoan khoái, thư thái, sảng khí như nói thư khí.

(269). Khử lô : bỏ cuống (chỗ đầu rể nối với thân cây).

(270). Gieo : xem chú thích 60 trên.

(271). Quân khương : xem chú thích 166 trên.
XI
(272). Thấp âm : không rõ nghĩa, nghi nói bộ phận sinh dục bị ẩm thấp.

Tề nặng : vùng bụng rốn nặng nề.

(273). Hung phiền phúc minh : ngực buồn bực, bụng sôi.

(274). Phong cùng khí trệ : chứng phong và chứng khí trệ.

(275). Khử tiết : xm chú thích 48 trên.

(276). Đồ trùng : sâu mọt.

(277). Thuỷ quân : đổ nước cho vừa đều.

(278). Tự hãn, đạo hãn : mồ hôi tự ra và mồ hôi trộm.

(279). Hoả di đại trường : hoả tà di (lưu) độc ở Đại trường.

(280). Thân qui : tức Qui thân.

(281). Hổ cốt tô chích : “tô” là sữa bò hoặc dê đã nấu rồi, dùng nó tẩm “hổ cốt”(xương hổ) mà chích, gọi là tô chích

(282). Đồng tiền : xem chú thích 39 trên.

(283). Phong khí : bịnh do khí gió gây nên.

(284). Trễ tràng : biếng nhác, không động đậy được.

(285). Đại phu : tức Đại Phụ tử (Phụ tử thứ củ to)



Bào chín : nướng chín (gói củ Phụ tử vài lần giấy ướt, đem vùi trong lửa than, khi nào nó sém vàng và nứt nẻ ra là được).

Khử tề bỏ da : tề là cái rốn ở đầu củ Phụ tử, da là vỏ ; nói sau khi bào chín phải cắt bỏ rốn và gọt vỏ đi.

(286). Than hoán : tay chân tê bại, bên tả gọi là “than”, thuộc huyết hư ; bên hữu gọi là “hoán”, thuộc khí hư.

(287). Tường suy : suy xét cho tinh tường.

(288). Mệnh cả : mệnh lớn, tức tính mệnh sống chết của con người



Thiên cơ : máy trời, lẽ huyền vi của Trời.
XII
(289). Ngũ tích : bài này có 2 phép dùng :

1- các vị thuốc trong bài, đều tán bột rồi đem sắc thang, gọi là “Sinh liệu (dược liệu sống) ngũ tích”.

2- các vị thuốc trừ Quế, Chỉ, đều trộn chung lại mà sao lên ; sau cho Quế, Chỉ vào, lại sao với dấm 1 lần nữa rồi đem tán bột mà sắc thang, gọi là “Thục liệu (dược liệu chín) ngũ tích”. Ở đây dùng Sinh liệu ngũ tích.

(290). Tân ôn : vị cay, tính ôn.

(291). Bài này chữa cả 5 chứng tích : hàn, thấp, đờm, khí, huyết, nên đặt tên là “NGŨ TÍCH”.

(292). Giang hồ : sông hồ.

(293). Thê tử song thân : vợ con và cha mẹ.

(294). Tân cần : vất vả khó khọc.

(295). Toạ, ngoạ : ngồi nằm

Cừu thuỳ : tức cừ thuỵ (ngủ lâu). Ý nói những người nằm, ngồi hoặc ngủ lâu, thì tất khí trệ mà sinh bịnh.

(296). Chung : xem chú thích 79 trên.

(297). Tiểu trường sán khí : xem chú thích 129 trên.

(298). Đạm cam : vị ngọt mà nhạt.

(299). Phế hư : theo Y phương tập giải, TỨ QUÂN TỬ là bài thuốc chữa cả Tỳ hư và Phế hư, xem Phụ phương ở dưới.

(300). Khô sáp : vinh vệ bị khô sắt lại.

(301). Phục ôn : uống ấm.

(302). Phì bạch khí hư : người béo trắng mà khí hư.

(303). Gieo : xem chú thích 60 trên.

(304). Đoản khí : hơi thở ngắn (khí kém).

(305). Lãnh tả phúc thống : tiết tả do lạnh mà có đau bụng.

(306). Ngược : chứng sốt rét.

(307). Thường sơn tửu chế : vị Thường sơn chế rượu ; xem chú thích 175 trên.

(308). Khí khối : xem chú thích 53 trên.

(309). Qui liệu : định liệu.
Kết luận
(310). Mạt cai : mạt là ngọn, cai là gốc ; mạt cai như gốc ngọn.

(311). Phiền lao nhục bì : phiền nhọc thịt da.

(312). Hoắc lê : “hoắc” là lá rau đậu, “lê” là một loại rau ; những thức ăn hàng ngày của nhân dân nghèo. Do đó, người ta thường dùng từ “hoắc lê hay lê hoắc” để chỉ lớp nhân dân nghèo.

(313). Nam nữ quả phòng : những nam nữ goá vợ hoặc chồng (chữ phòng đặt thay cho cá nhân vợ hoặc chồng).

(314). Nhẫn lòng ẩn chí : nhịn lòng náu chí.

(315). Giềng : chữ Hán là “cương” tức đường dây to ở mép cái lưới, nó là một đường dây chủ chốt dùng để giăng lưới ra (không có nó thì không giăng được lưới) ; nên những sự việc gì có tính chất chủ chốt, đều gọi là Cương như cương lĩnh, cương quyết… Đây muốn nói trị bịnh tốt, phải tìm cho được cái điểm mấu chốt của nó ở chỗ nào, hư hay thực ? ; phong hay thấp ?... ví như muốn giăng lưới ra (mở lưới), thì phải tìm xem cái giềng của nó ở đâu mới được.

(316). Nhược nhân, tráng nhân : người yếu, người khoẻ.

(317-318). Quân, thần, sứ, thông :tức ý quân, thần, tá, sứ của các vị thuốc trong một thang thuốc.

(319). Chứng nịch phù điên : “chứng nịch” là cứu vớt người chết đuối ; “phù điên” là nâng đỡ người nhào ngả, chỉ sự cứu giúp những người hoạn nạn, bịnh tật.

(320). Sư lịch : xem chú thích 11 trên.

(321). Tề sinh : cứu giúp sinh mệnh của con người.

VI – THƯƠNG HÀN CÁCH PHÁP(1) TRỊ LỆ
THƯƠNG HÀN TAM THẬP THẤT TRUỲ

(ba mươi bảy truỳ pháp chữa bịnh Thương hàn)





Táp thất (2) phương dùng càng màu nhiệm,

Sát xa truỳ (3) thần nghiệm của yêu (4)

Thương hàn điều lệ rộng nhiều,

Pháp làm nghiêm cẩn, người đều khôn hay.

Kìa ai phải một hai ngày,

Bất khát tự lợi (5), chảy ngay lềnh lềnh.

Chẳng đau đầu, chẳng nóng mình,

Tay thường lấy áo để giành đắp qua.

Ấy là trực trúng (6) hàn tà,

Nên “chân hàn” chứng, thật đà phân minh.

Hoặc đau lâu đã quá kinh (7)

Hãy còn sốt rét, nóng mình, cứng lưng.

Nhức đầu, chóng mặt thung thăng,

Ráo khô lỗ mũi, chẳng từng nằm yên.

Ấy còn biểu chứng thương hàn (8)

Chớ nề nhiệt số, luống toan kể ngày.

Hợp xem đôi mạch cùng tay,

Định nên khẩn hoãn, biết hay phù trầm.

Lại xem mạch chứng thiển thâm (9)

Biểu, lý, hãn, hạ (10) dùng làm đúng phương.

Bịnh thương hàn có nhiều tác hại, vì nó là một thứ khí độc dữ, trúng nhằm khí đó mà phát bịnh ngay, gọi là “thương hàn”. Nếu chưa phát bịnh ngay, hàn độc ẩn náu trong cơ phu, sang Xuân sẽ biến thành “Ôn bịnh”. Sang Hè biến thành “Thử bịnh”, nóng nhiều nặng hơn ôn bịnh. Vì thời tiết phát bịnh khác nhau cho nên cách chữa không thể lẫn lộn được.



Tại sao hàn tà mới trúng, lại vào phần biểu trước ?

Vì kinh mạch Thái Dương hàn thuỷ đi từ đầu suốt qua sống lưng, nên có các chứng nhức đầu, cứng xơng sống mà ghê rét, ở các kinh mạch khác thì không có chứng này. Huống chi kinh này là giường mói của toàn thân, là chủ khí của các kinh dương ; ví như con đường đi thông qua ngã tư ngã tám, nếu chữa lầm thì tai biến không thể nói xiết được.


I
Thứ nhất thang THĂNG DƯƠNG PHÁT BIỂU,

Chủ thương hàn phép bảo rằng hay.

Ba Đông lạnh lẽo rét thay !

Xông sương đột giá (11), đang tay việc vàn (12)

Đêm ngày khó nhọc dám van,

Sức khôn chịu được phong hàn sở thương (13)

Phải liền đau đớn ghê dường,

Nhức đầu như bổ, đau lưng như gò.

Đến khi cơn rét nằm co,

Mồ hôi chẳng có ráo khô lại làm.

Thấy mạch phù khẩn lại tham (14)

Sơ tà phát biểu, khó làm khai thông.

Quế chi, Ma hoàng, Phòng phong

Khương hoạt, Bạch chỉ, Xuyên khung đẳng phần (15)

Thăng ma, Cam thảo, Hạnh nhân,

Trước sau 9 vị, cùng cân cho tày.

Đong 2 bát nước vừa đầy,

Khương tam, Táo nhị (16) thuở này sắc qua.

Truỳ pháp (17) Giao di (18) lại gia,

Ôn ôn phục dã (19), vậy hoà liền yên.

Bản kinh (20) bịnh ấy suyễn lên,

Ma hoàng bỏ rẫy, Cát căn gia vào.

Biết mạch, biết chứng trước sau,

Dùng rày ắt hiệu, thực mau những là.

  1. THĂNG DƯƠNG PHÁT BIỂU thang

Tức MA HOÀNG THANG gia giảm, chủ tại bịnh chính thương hàn mùa Đông : nhức đầu, phát sốt, ghê rét, cứng sống lưng, không có mồ hôi, mạch phù khẩn. Đó là kinh Thái Dương BÀNG QUANG bị hàn tà, đầu nhức như búa bổ, mình nóng như lửa đốt, nên dùng thang này.


Ma hoàng

Quế chi

Hạnh nhân

Cam thảo

Phòng phong

Bạch chỉ

Khương hoạt

Xuyên khung

Thăng ma

Các vị đều bằng nhau, Gừng 3 lát, Táo 2 quả, nước 2 bát.



Truỳ pháp : thêm Giao di 2 thìa, sắc uống ấm.

Bản kinh có chứng nhức đầu, ghê rét, không mồ hôi mà suyễn : dùng phương này bỏ Ma hoàng, gia Cát căn.


II
Thứ hai thang SƠ TÀ THỰC BIỂU,

Chữa “thương phong” phép bảo rằng hay.

Trời Đông giá rét hơi may,

Gội sương chải gió (21) đang tay làm dùng.

Đêm ngày khó nhọc đột xông,

Sức khôn chịu được cảm phong thương hàn.

Phải liền đau đớn thiên ban (22),

Nóng mình sốt rét, chẳng an trong lòng.

Nhức đầu, rái gió, sởn, rùng (23)

Đau lưng luống những ròng ròng mồ hôi.

Thấy mạch phù hoãn thường lai (24)

Đích “thương phong” chứng chẳng sai đâu là.

Hợp dùng Thực biểu sơ tà,

Tự nhiên biểu giải lý hoà nên công.

Quế chi, Thược dược, Xuyên khung,

Cam thảo, Khương hoạt, Phòng phong dùng tầy.

Đong 2 bát nước cho đầy,

Khương tam, Táo nhị , thuở này sắc qua.

Truỳ pháp Thông bạch (25) lại gia,

Sắc sôi 3 dạo, ôn hoà phục chi (26)

Hãn bất chỉ (27) gia Hoàng kỳ,

Thấy có suyễn chứng, ta thì mựa (28) lo.

Gia thêm Hạnh nhân, Sài hồ,

Trong ngực bức bội, dường no, tức buồn.

Chỉ xác, Cát cánh thêm luôn,

Hoàng kỳ mật chích gia dồn khá nên.

Dù mà thấy bịnh chửa yên,

(tiểu) Sài hồ thang nọ lại toan tức thì.

Gia Bạch Thược dược, Quế chi,

Phục rồi thực biểu vừa khi sơ tà.


  1. SƠ TÀ THỰC BIỂU thang (29)

Tức QUẾ CHI THANG gia giảm ; chữa chứng chính thương phong về mùa Đông : nhức đầu, phát sốt, ghê gió, cứng sống lưng, tự đổ mồ hôi, mạch phù hoãn. Đó là kinh Túc Thái dương cảm phong tà ; cách chữa phải thực biểu tán tà, nếu không ra mồ hôi, thì không dùng được.


Quế chi

Thược dược

Cam thảo

Phòng phong

Khương hoạt

Xuyên khung

Các vị đều bằng nhau, Gừng 3 lát, Táo 2 quả, nước 2 chén, sắc còn 1 chén.



Truỳ pháp : thêm nước củ Hành 5 thìa, lại sắc sôi 3 dạo, uống ấm. Nếu mồ hôi ra không ngừng, gia Hoàng kỳ, tức XUNG HOÀ thang, vẫn không ngừng, dùng TIỂU SÀI HỒ thang gia 2 vị Quế chi, Thược dược ; suyễn gia Sài hồ, Hạnh nhân ; trong ngực đầy tức : gia Chỉ xác, Cát cánh, Hoàng kỳ mật chích (?)
III
Thứ ba thang XUNG HOÀ KHƯƠNG HOẠT,

Chữa Xuân Hạ Thu tiết phải đau.

Ba đồng xung đột bấy lâu,

Khí nhiều sức mạnh, chẳng âu việc vàn.

Sang Xuân phát bịnh chẳng an,

Bởi xưa mạo (30) thuở Đông thiên (31) phong hàn.

Nhức đầu, rét dữ, thiên ban,

Mồ hôi chẳng có hợp toan mà dùng.

Cam thảo, Khương hoạt, Phòng phong.

Tế tân, Bạch chỉ, Xuyên khung, Hoàng cầm.

Thương truật, Sinh địa khá làm,

Thông nhị (32), Táo nhị, Khương tam hoà cùng.

Truỳ pháp nhập Sị (33) cho thông,

Có văn vũ hoả (34) hợp dùng đồng tiên (35)

Ôn phục thử hãn hữu thần (36),

Đầu trùm chăn kín, đằm thân (37) mới hèo (38).

Bịnh đở chẳng khá uống nhiều,

Lại thêm bịnh khác, có điều bảo ra.

Xuân ôn, Hạ nhiệt, Thu hoà (?)

Đều cũng chữa được, thật là hiệu thang.

Hung trung bão muộn (39) tức đầy,

Hợp gia Cát cánh, bỏ nay Địa hoàng.

Tháng Hè dùng vốn có phương,

Thạch cao, Tri mẫu, ta thường khá cho.

Bất hãn (40) dùng lá Tía tô,

Nóng mình, ngấy rét, o o những đờm.

Bỏ Địa hoàng, gia Hạnh nhân,

Hãn hậu bất giải (41) có phần gian nan.

Bịnh còn như cũ chửa an,

Hợp cho uống lại, thực nên thuốc lành.

Dù muốn hãn hạ kiêm hành (42)

Gia Đại hoàng mạt, rành rành hiệu thang.

Ôn ôn phục được đang tay,

Trừu tân (43) phép ấy, chữa hay thiên vàn (44)

Dù thấy phi thời thường hàn (45)

Mạch phù tự hãn, kíp toan dùng liền.

Bỏ rẫy Thương truật chớ yên,

Đổi dùng Bạch truật thêm vào khá nên.

Hư hãn bất chỉ (46) càng phiền,

Hoàng kỳ mật chích, khá nên gia vào.

Nóng mình, sốt, rét thêm đau,

Thương truật (?), Thược dược, hợp cầu cho yên.

Vậy liền bỏ rẫy Hạnh nhân (?)

Mình co, mặt đỏ, bội phần gian nan.

Bởi chưng chẳng lợi tiểu biền (47)

Thăng ma, Bạch chỉ, Hạnh nhân khử trừ.

Sài hồ, Thược dược lại gia,

Lọc rồi cho uống bằng xưa rất hào.

Cảm hàn chứng nặng “khôn sao”

Phục thang bất hãn (48), chước nào khá lo.

Lại hai ba tễ tiếp cho,

Vẫn không tác hãn (49), đáng lo chứng nghèo.

Lượng đòi nặng nhẹ, ít nhiều,

Theo phương gia giảm, thấy hèo quá ư.!


  1. KHƯƠNG HOẠT XUNG HOÀ Thang (50)

Chữa 3 mùa (51) cảm nhiễm hàn khí đột ngột nhức đầu, phát sốt, ghê rét, không mồ hôi, bịnh thuộc kinh Túc Thái dương.



Xuyên khung

Bạch chỉ

Phòng phong

Khương hoạt

Thương truật

Tế tân

Hoàng cầm

Sinh địa

Cam thảo

Các vị đều bằng nhau, không nên nhiều ít (52) ; Gừng 3 lát, Táo 2 quả, Hành 2 củ, nước 2 chén.



Truỳ pháp : gia 1 dúm Đậu sị, sắc uống ấm, rồi đắp chăn dầy, trùm kín cả đầu, cho ra được mồ hôi, mới có công hiệu. Thuốc trúng bịnh thì thoi, không nên uống nhiều, uống nhiều sẽ sinh bịnh khác. Phương này không những chữa 3 mùa cảm hàn khí đột ngột, mà có thể mùa Xuân dùng chữa bịnh ÔN, Hạ bịnh NHIỆT, Thu bịnh THẤP (53) ; và chữa tạp bịnh cũng có công hiệu tốt.

Gia giảm :

  • Trong ngực đầy tức, bỏ Sinh địa, gia Cát cánh, Chỉ xác.

  • Mùa Hè dùng bài này gia Thạch cao, Tri mẫu, gọi là thang THẦN TRUẬT.

  • Thuốc uống rồi, mà chưa ra mồ hôi gia Tử Tô diệp.

  • Ra mồ hôi rồi, mà bịnh chưa giải, lại uống tễ nữa.

  • Suyễn mà ghê rét, bỏ Sinh địa, gia Hạnh nhân.

  • Hãn hạ kiêm hành, gia Đại hoàng, dùng phương pháp “phủ để trừu tân” (54)

  • Ba mùa cảm chứng thương hàn trái thời, cũng có nhức đầu, phát sốt, ghê rét, tự ra mồ hôi, mạch phù, cẩn phải thực biểu : bỏ Thương truật, gia Bạch truật ; mồ hôi ra không ngừng : gia Hoàng kỳ.

  • Phát sốt, ghê rét, đau mình mẩy, dùng phương này gia bỏ Hạnh nhân (?), gia Thương truật (?), Thược dược.

  • Mình co quắp, mặt đỏ bừng, là do không đi tiểu tiện được : bỏ Bạch chỉ, Thăng ma (?), Hạnh nhân (?), gia Sài hồ, Bạch thược.

  • Cảm hàn nặng, uống 1 thang chưa ra mồ hôi, nên uống 2-3 thang nữa ; nếu vẫn không ra mồ hôi, thì chết. Phải tuỳ bịnh nặng nhẹ, mà dùng thuốc nhiều ít cho chính đáng.


IV
Thứ tư thang LỤC THẦN THÔNG GIẢI,

Chủ vãn phát (55) tiết phải tháng ba.

Nhức đầu, sốt rét đấy là.

Mạch lai (56) hồng sác, Xung hoà phục sơ (57)

Chửa sưng (58) Thông giải lại gia,

Cầm, Kỳ, Cam thảo, cùng là Xuyên khung.

Thạch cao, Hoat thạch lại dùng,

Khương hoạt, Thương truật miễn (59) cùng Tế tân.

Khương, thuỷ sắc đến bán phần (60)

Truỳ pháp Thông, Sị (61) bội phần hiệu thay.

Nhiệt phục thủ hãn (62) đang tay,

Trúng bịnh tức chỉ (63), hiệu thay lạ thường !


  1. LỤC THẦN THÔNG GIẢI Thang (64)

Chữa bịnh thời khí phát về tháng ba, gọi là “vãn phát :nhức đầu, nóng mình, ghê rét, mạch hồng sác. Trước đã dùng Xung Hoà thang không khỏi, thì sau cho uống thang này.




Ma hoàng

Hoàng kỳ

Tế tân

Xuyên khung

Khương hoạt

Thương truật

Hoàng cầm

Cam thảo

Thạch cao

Hoạt thạch






Các vị trên : Gừng 3 lát, nước 2 chén.



Truỳ pháp : thêm Đậu sị 1 dúm, Hành 2 củ ; sắc uống nóng cho ra mồ hôi. Trúng bịnh thì khỏi.
V
Thứ năm thang GIẢI CƠ SÀI CÁT,

Túc Dương minh Vị nhiệt truyền kinh.

Đầu đau, quầng mắt nhức quanh,

Mũi khô, không ngủ, nhiều hành buồn song (?)

Dù thấy mạch đến vi hồng (65)

Theo mùa gia giảm, hợp dùng khá cho.

Cát căn, Cam thảo, Sài hồ,

Khương hoạt, Bạch chỉ, dùng no đủ liều.

Hoàng cầm, Cát cánh cũng nhiều.

Trước sau 7 vị, lượng đều bằng nhau.

Táo, Khương, thanh thuỷ sắc ngao (66)

Truỳ pháp gia Nhuyễn Thạch cao 1 đồng.

Bản kinh (67) phải thuở mùa Đông,

Mồ hôi không có, rét rùng khôn đang.

Bỏ Hoàng cầm, gia Ma hoàng,

Xuân lại khác đường, thiểu thiểu gia chi (68)

Hè, Thu tịnh khử bất nghi (69)

Ta lại cùng thì gia lá Tía tô.

Mồ hôi khát nước chẳng lo,

Như thần Bạch hổ (70) mặc dù khá hay.!

  1. SÀI CÁT GIẢI CƠ Thang (71)

Tức CÁT CĂN THANG gia giảm. Chữa bịnh chứng Túc Dương minh Vị : đầu đau quầng mắt nhức, mũi khô, không ngủ, mạch hơi hồng.




Sài hồ

Cát căn

Hoàng cầm

Cam thảo

Khương hoạt

Bạch chỉ

Cát cánh






Các vị trên : Gừng 3 lát, Táo 1 quả, nước 2 chén.



Truỳ pháp : gia Thạch cao 1 đồng cân, sắc uống.

Nếu không có mồ hôi, ghê rét nhiều, thì bỏ Hoàng cầm, gia Ma hoàng , (vì Ma hoàng này, mùa Đông nên gia nhiều, mùa Xuân gia ít, mùa Hạ, mùa Thu thì không gia mà thay bằng lá Tía tô). Nếu có mồ hôi mà khát nước thì chữa bằng bài “Như thần Bạch Hổ thang” dưới đây.


VI
Thứ sáu : SÀI HỒ SONG GIẢI ẨM,

Túc Dương minh truyền nhập Đởm kinh.

Trước liều sốt rét nóng mình,

Tức sườn, ụa oẹ, lềnh lềnh vang tai (72)

Cổ khô, miệng đắng đầy thang,

Bán biểu bán ý mạch lai sác huyền.

Hãn, hạ, thổ, chẳng khá nên,

Hợp dùng hoà giải, bịnh liền giai tô (73)

Nhân sâm, Cam thảo, Sài hồ,

Hoàng cầm, Bán hạ, hợp cho Trần bì.

Thược dược đẳng phân cùng hì,

Khương tam, Táo nhị, thuỷ nhì sắc qua.

Truỳ pháp Ngải diệp vắt ra,

Sắc còn một chén, ôn hoà uống thôi.

Tiểu tiện chẳng thấy lợi đôi,

Bạch Phục linh mạt, kíp vồi (74) tại gia.

Dù thấy ụa oẹ mửa ra,

Khương trấp, Trúc nhự, cùng hoà khá yên.

Đờm gia Hạnh nhân cũng nên,

Qua lâu, Bối mẫu, bịnh thuyên (75) tức thì.

Đau cạnh sườn gia Thanh bì,

Tựa ngược (76) thêm có Quế chi gia vào.

Răng khô, lại có Thạch cao,

Khát gia Tri mẫu, Qua lâu căn này.

Suyễn gia Ngũ vị tử nay,

Có Kim phi thảo (77) giống tầy Cúc hoa.

Dưới tâm đầy tức chưa trừ (78)

Chỉn thực biểu tà còn ở nương long (79)

Chửa thành truyền chứng kết hung (80)

Ta sẽ tạm dùng TIỂU SÀI HỒ Thang.

Lại gia Chỉ thực cám rang (81)

Chửa hiệu bằng dường đối (?) Tiểu hãm hung (82)

Lại gia Cát cánh hợp dùng,

Loại thương hàn chứng, trong lòng phiền hư (83)

Trúc diệp, Nhu mễ khá trừ,

Thấy Bản kinh (84) bịnh hợp hoà Dương minh.

Cát căn, Thược dược càng lành,

Bằng nhật hạt cải (?) rành rành chẳng ngoa.

Nhiệt nhập huyết thất (85) đàn bà.

Gia Đương qui vĩ, Hồng hoa khá dùng.

Nhiệt nhập huyết thất đàn ông,

Sinh Địa hoàng mạt gia cùng cũng nên.

Dù thấy hư nhược lão nhân,

Thương hàn vô hãn, bội phần sốt thay.

Kíp gia Đại hoàng chớ chầy,

Hoặc là chứng đã thêm rầy Mang tiêu.

Thấy có hoại chứng thương sao,

Tìm tôi Miết giáp, gia vào khá nên.

  1. SÀI HỒ SONG GIẢI ẨM

Tức Tiểu Sài hồ thang gia giảm (gia Trần bì, Thược dược). Chữa kinh Túc Thiếu Dương ĐỞM. Thực tà, sốt rét, tai điếc, sườn đau, miệng đắng, lưỡi khô, nôn mửa, mạch huyền sác ; thuộc chứng bán biểu bán lý, nên dùng phương pháp hoà giải. Đởm phủ không có lối ra vào, mà đường kinh của nó, ở bán biểu bán lý, nên cấm dùng ba pháp hãn, thổ, hạ ; chỉ có một bài hoà giải này, tuỳ chứng mà gia giảm, không có bài nào khác nữa.




Sài hồ

Hoàng cầm

Bán hạ

Nhân sâm

Cam thảo

Thược dược

Trần bì






Các vị trên : Gừng 3 lát, Táo 2 quả, nước 2 chén.



Truỳ pháp : thêm 3 thìa nước cốt lá Ngải tươi, sắc uống ấm.

Gia giảm :

  • Tiểu tiện không lợi, gia Phục linh.

  • Nôn mửa, gia Khương trấp, Trúc nhự.

  • Có đờm, gia Qua lâu, Hạnh nhân, Bối mẫu.

  • Đau sườn, gia Thanh bì.

  • Sốt rét tựa chứng Ngược, gia Quế chi.

  • Khát nước, gia Thiên hoa phấn, Tri mẫu.

  • Răng khô không có tân dịch, gia Thạch cao.

  • Ho suyễn, gia Ngũ vị tử, Kim phi thảo.

  • Dưới Tâm đầy tức chưa giải được, đó là biểu tà truyền vào lồng ngực, chưa vào phủ. Tuy có đầy tức, nhưng tà vẫn còn ở biểu ; chỉ nên dùng Tiểu Sài hồ thang gia Chỉ thực. Nếu vẫn chưa giải, thì dùng bài này đối (?) với bài Tiểu hãm hung gia Cát cánh, uống một lần tự thấy công hiệu như thần.

  • Hư phiền, giống chứng thương hàn : gia Trúc nhự, Nhu mễ sao.

  • Thiếu dương, Dương minh hợp bịnh : gia Cát căn, Thược dược, thì như nhặt hạt cải (không rõ nghĩa ; nghe nói thu công dễ dàng).

  • Đàn bà nhiệt nhập huyết thất : gia Đương qui vĩ, Hồng hoa.

  • Đàn ông nhiệt nhập huyết thất : gia Sinh Địa hoàng.

  • Người già bị thương hàn, không có biểu chứng, nếu thấy nhiệt nhiều : gia Đại hoàng, nặng nữa thì gia cả Mang tiêu.

  • Hoại chứng : gia Miết giáp.


VII
Thứ bảy thang ĐẠI HOÀNG QUAN QUẾ,

Túc Dương minh truyền chỉ Tỳ gia (86)

Bởi nẽo dương kinh nhiệt tà,

Âm kinh truyền đến, thực là phải hay.

Phúc trung thống mãn (87) hằng đầy,

Miệng khô mà khát, chân tay ôn hoà.

Mạch trầm có lực càng ra,

Tức hạ Vị phủ (88) nhiệt tà lợi đi.

Sài hồ, Thược dược, Quế chi,

Cam thảo, Chỉ xác, gia chi (89) Đại hoàng.

Thuỷ tiên (90), Đại táo, Sinh khương,

Truỳ pháp ma thuỷ Tân lang (91) 3 thìa.

Suyễn đầy, không ớn rét thì,

Gia Đại phúc bì, Cam thảo bỏ ra.


  1. QUẾ CHI ĐẠI HOÀNG Thang

Chữa bịnh ở kinh Túc Thái âm TỲ : bụng đầy mà đau, họng khô mà khát, chân tay ôn hoà, mạch trầm có lực ; đó là nhiệt tà từ kinh dương truyền vào kinh âm.




Quế chi

Thược dược

Sài hồ

Cam thảo

Chỉ thực

Đại hoàng

Các vị trên : Gừng 3 lát, Táo 2 quả, nước 2 chén, sắc uống lúc sáng sớm.



Truỳ pháp : dùng nước mài Tân lang 3 thìa, hoà uống ấm.

Kinh này bụng đầy, không ghê rét, mà suyễn ; bỏ Cam thảo, gia Đại phúc bì.




VIII
Thứ tám GIA VỊ LÝ TRUNG ẨM,

Túc Thiếu âm THẬN cảm tà lai,

Tự lợi, bất lợi (92) khôn nài,

Hữu khát, vô khát (93)mạch lai hư trầm.

Tạng hàn tiết lợi chẳng kham,

Can khương, Bạch truật, Nhân sâm, Trần bì.

Cam thảo Phục linh, Quế chi.

Khương, Táo, thanh thuỷ, Thìa thìa (94) sắc qua.

Sao Trần bích thổ thiểu hoà (95)

Để giúp Vị khí, thực là hiệu thay.

Bản kinh trong bụng trệ đầy,

Nên giảm Cam thảo, biết hay lẽ dùng.

Dù thấy ẩu thổ chẳng thông,

Bán hạ, Khương trấp, đều dùng khá cho.

Hoặc là quyền ngoạ (96), nằm co,

Lợi trọng bất chỉ (97) âu lo nhiều bề.

Thục Phụ tử thiểu gia chi,

Lợi hậu (98) thân thể thường rày những đau.

Kíp ôn, Phụ tử gia vào.

Tự lợi, phúc thống, làm nau (99) chẳng dừng.

Mộc hương mài với nước Gừng,

Ôn ôn phục dã, phép rằng hoà trung.

Quyết âm hiệp hư chẳng thông ((100),

Hoà thêm khí nghịch thượng xung đôi lần.

Đói thời cơm chẳng muốn ăn,

Ăn vào đau đớn, có phân (phần) thổ hồi (101)

Đại tiện rắn tựa hạt roi,

Đại hoàng, ít mật, gia đòi chớ quên.
8, GIA VỊ LÝ TRUNG ẨM
Chữa kinh Túc Thiếu âm THẬN bị bịnh. Đại tiện lỏng hoặc không thông, khát nước hoặc không khát, mình không nóng, mạch trầm vô lực ; đó là chứng tạng hàn.


Bạch truật

Nhân sâm

Can khương

Cam thảo

Nhục quế

Trần bì

Bạch linh






Các vị trên + Gừng 3 lát, Táo 2 quả, nước 2 chén, sắc lên.



Truỳ pháp : khi uống, cho vào 1 thìa bột đất vách cũ đã sao rồi, tức là dùng thổ khí để giúp Vị khí.

Gia giảm :

  • Bản kinh bụng trệ đầy, có lúc nhẹ, thì giảm Cam thảo.

  • Ẩu thổ, gia Bán hạ, Khương trấp.

  • Nằm co, bịnh trầm trọng, đại tiện tự lợi không ngừng : gia ít Phụ tử.

  • Sau khi đại tiện tự lợi, mình mẩy đau nhức, phải cấp ôn ngay Phụ tử.

  • Đại tiện tự lợi mà có đau bụng : gia Mộc hương mài với nước Gừng, hoà uống.

  • Bịnh Quyết âm : tiêu khát, khí xung lên Tâm, đói không muốn ăn, ăn vào mửa ra giun, cũng dùng bài nầy ; nếu đại tiện rắn, gia Đại hoàng và ít mật để thông lợi.


IX
Thứ chín phương NHÂN TRẦN THANG ẨM

Túc Thái âm TỲ cảm tà thương,

Bụng đầy, mình, mắt phát vàng,

Tiểu tiện không lợi, Đại trường thực kiên (103)

Đầu hãn đáo cảnh nhi hoàn (104)

Mạch lai trầm trọng, khát phiền (105) đôi khi.

Nhân trần liền có Sơn chi,

Đại hoàng, Chỉ thực, cũng thì khá thông.

Hoàng cầm, Cam thảo, hợp dùng,

Sinh khương, thanh thuỷ, hợp cùng sắc qua,

Truỳ pháp Đăng tâm lại gia,

Tiểu tiện thanh lợi (106) thực là thuốc yêu.

Dù thấy đại tiện tự điều (107)

Đại hoàng, Hậu phát, cũng đều bỏ đi.

Lại gia lấy Đại phúc bì,

Thuốc lành uống được, đương khi thấy hèo.

Tiểu tiện dù thấy chưa nhiều.

Gia thêm Hoàng bá, thuốc yêu lạ thường.


  1. NHÂN TRẦN TƯỚNG QUÂN THANG (108)

Chữa kinh Túc Thái âm TỲ bị bịnh. Bụng đầy, mình mắt đều phát vàng, tiểu tiện không lợi, đại tiện táo, thường khát nước, hoặc ra mồ hôi ở đầu xuống đến cổ thôi, mạch trầm trọng, nên dùng thang này.




Nhân trần

Đại hoàng

Sơn chi tử

Hoàng cầm

Hậu phát

Chỉ thực

Cam thảo






Các vị trên + Gừng 3 lát, nước 2 chén.



Truỳ pháp : thêm Đăng tâm 1 nắm, sắc uống ấm.

Đại tiện tự điều hoà thì bỏ Đại hoàng, Hậu phát gia Đại phúc bì để thông.


X
Thứ mười phương danh rằng ĐẠO XÍCH,

Chủ nhiệt tà xúc tích Hạ tiêu.

Tiểu tiện chẳng thấy lợi nhiều,

Vừa khó, vừa ít, khát khao càng phiền.

Phép dùng vĩ lợi vi tiên (109)

Phục được thuốc ấy, thì liền lợi ra.

Dù thấy Dương minh hãn đa (110)

Dĩ lợi vi giới (111), thực là khá răn.

Hợp dùng Sơn chi tử nhân,

Xích phục, Trạch tả, cùng phần Trư linh.

Quế chi, Bạch truật càng lành,

Hoạt thạch, Cam thảo, đã đành thuốc yêu.

Đăng tâm, Khương, thuỷ no liều,

Nhập diêm Nhị tự (112) khá điều uống lui.

Trúng thấp, mình mặt vàng môi,

Gia Nhân trần lại uống thôi, khá dùng.

Có thuỷ khí lại kết hung (113)

Đăng tâm thêm có Mộc thông gia vào.

Tiểu tiện chẳng thấy lợi nhiều,

Mồ hôi ra những trên đầu, khá hay.

Ấy chứng dương thoát (114) thực thay,

Khởi sự mắc bịnh mấy ngày mà thưa (?)

Chẳng còn sốt nóng đâu là,

Mách nhàm, buồn bực, mình hoà chẳng an.

Thấy người mặt chẳng muốn nhìn,

Bấy nhiêu chứng ấy (115) đều nên ứng dùng.


  1. ĐẠO XÍCH ẨM

Chữa chứng thương hàn tiểu tiện không lợi. Bụng dưới đầy, hoặc hạ tiêu tích nhiệt, hoặc uống nước quá nhiều, hoặc tiểu tiện sẻn, đỏ mà khát nước ; mạch trầm sác ; thì trước hết phải thông lợi tiểu tiện. Chỉ sau khi phát hãn mất tân dịch và chứng Dương minh ra nhiều mồ hôi, thì chớ có lợi tiểu tiện nữa.




Bạch truật

Xích phục linh

Trư linh

Trạch tả

Quế chi

Sơn chi tử

Hoạt thạch

Cam thảo



Các vị trên + Gừng 1 lát, Đăng tâm 20 cọng, nước 2 chén.



Truỳ pháp : cho vào muối ăn bằng nửa đồng xúc, hoà uống.

  • Trúng thấp, mình mắt phát vàng : gia Nhân trần.

  • Có chứng “thuỷ kết hung” : gia Mộc thông, Đăng tâm.

  • Nếu tiểu tiện không lợi, mà thấy ra mồ hôi ở đầu, là chứng “dương thoát”, không dùng được bài này.

  • Nếu khi khỏi bịnh không sốt nóng, chỉ nói lảm nhảm, phiền táo không yên, tinh thần mỏi mệt, không muốn tiếp xúc với người : cũng chữa bằng bài này.


XI
Thứ mười một LỤC NHẤT THUẬN KHÍ,

Chủ nhiệt tà truyền lý sơ phân (?)

Tung chăn, vứt áo, nằm trần,

Bồn chồn vật vã, tay chân càng phiền.

Kết thực, khẩu táo, yên can (116)

Sợ nóng, nói sảng, vọng ngôn (117) loạn cuồng.

Dương quyết, triều nhiệt, ban hoàng (118)

Tự hãn, phúc trướng (119) rắn càng đau ê.

Lại thêm bĩ mãn nhiễu tề (120)

Chữa bấy nhiêu chứng, đương khi hiểm nghèo.

Thược dược, Chỉ thực cám sao,

Sài hồ, Cam thảo, Mang tiêu, Đại hoàng.

Hoàng cầm, Hậu phát tương đương,

Chế rồi ta sẽ cân bằng mới nên.

Nước trong 2 chén sơ tiên (121)

Liệu vừa 3 dạo sôi lên cho đều.

Sau tám vị sẽ tra vào,

Sắc đến ào ào, cạn còn tám phân (phần)

Lúc uống truỳ pháp như thần,

Chế nước Gỉ sắt ước nên 3 thìa.

Táo thực (122) nói sảng, nhiều bề,

Chính dương Vị phủ (123) thực thì phải xong.

Tiết tả ra những nước trong.

Thiếu âm Tâm hạ ngạnh đông (124) chứng này.

Ráo miệng khô họng buồn thay,

Đại tiện cứng rắn, rặn nay è è.

Nói sảng, khát nước thường lề.

Kết thực, nhiễu tề, ngạnh thống (125) càng đau.

Dái co, lưỡi cuốn, khôn sao,

Quyết âm (126) chứng ấy, thuốc nào cho xưng (127).

Nhiệt lâm, mục bất liễu minh (128),

Thần vong thuỷ kiệt (129) nhiều phần thương thay.

Đều dùng cấp hạ phương này,

Canh y (130) lợi đỡ, dừng rầy uống sau (131)

Kết hung tâm hạ rắn đau,

Táo khát, nói sảng, lại cầu bản phương.

Bỏ rẫy Cam thảo chẳng màng,

Can toại, Cát cánh, hợp phương gia rầy.

Thương hàn quá kinh lâu ngày,

Còn có biểu chứng, khôn thay đều cùng.

Hoặc là khí huyết đều hư,

Lão nhân, sản phụ, bấy giờ không hay,

Đều cùng khả dụng (132) phương này.

Mang tiêu bỏ hết, đang tay chớ nề.

Học cho biết lấy thực hư,

Hư thì khá bổ, thực thì mới đang.


  1. LỤC NHẤT THUẬN KHÍ THANG (133)

Chữa chứng thương hàn, nhiệt tà đã truyền vào phần lý. Đại tiện kết rắn, miệng ráo, họng khô, sợ nóng, noi sảng, nói càn, tung chăn cởi áo, vung tay dậm chân, da vàng mà phát ban, sốt cơn, nhiệt quyết, tự ra mồ hôi, bụng trướng rắn, quanh rốn đau tức, đều chữa được cả, công hiệu không kể xiết được.




Đại hoàng

Mang tiêu

Hậu phát

Chỉ thực

Sài hồ

Hoàng cầm

Cam thảo

Thược dược



Các thuốc trên tất cả 8 vị, trước hết dùng 2 chén nước, đun sôi 3 dạo, rồi cho các vị thuốc vào, sắc còn 8 phần.



Truỳ pháp : cho vào 3 thìa nước Gỉ sắt, hoà uống, kiến hiệu ngay. Sắt có tính chất trầm nặng, dùng giải nhiệt, khai kinh rất thần hiệu ; thật là một bí quyết nghìn vàng.

  • Sốt cơn tự ra mồ hôi, khát nước, nói sảng, mê cuồng, càn dỡ, da vàng mà phát ban, tung chăn cởi áo, vung tay dậm chân, đại tiện thực, đều thuộc bịnh Dương minh Vị chủ : dùng y phương này.

  • Nếu đại tiện tiết tả, đi ra thuần nước trong, dưới tâm rắn đau, mà khát nước, là thuộc bịnh Thiếu âm : dùng y phương này.

  • Nói sảng, khát nước, đại tiện thực, quanh vùng rốn rắn đau, là có phân táo : dùng y phương này.

  • Lưỡi cuốn, dái co, thì khó chữa, nên cho hạ gấp, dùng phương này.

  • Bịnh nhiệt, mà mờ mắt, do thần thuỷ đã bị khô kiệt, nên không trông rõ các vật, đó là bịnh nặng lắm rồi, cần phải hạ ngay, dùng y phương này.

  • Nếu mắt lờ mờ, trông không rõ, mà đại tiện khó, lại hay đi trung tiện, khí thường tiết xuống, đó là trong có phân táo, cần phải tả hạ ; dùng y phương này ; nếu đi đại tiện được là khỏi.

  • Chứng kết hung dưới tâm rắn đau, tay không sờ vào được, ráo khát, nói sảng, đại tiện thực cũng dùng phương này ; bỏ Cam thảo, gia Cam toại, Cát cánh.

  • Pháp chứng thương hàn quá kinh, và người già yếu, người khí huyết đều hư, cùng phụ nữ sau đẻ, mà có chứng phải hạ, hoặc hạ rồi không khỏi, hoặc biểu chứng chưa trừ, mà lý chứng lại cấp, đều không thể hạ được, thì dùng phương pháp này bỏ Mang tiêu mà thông lợi đi là khỏi, nhưng sợ nóng vội, nên có lời răn này (134).


XII
Mười hai thang NHƯ THẦN BẠCH HỔ,

Khát, nóng mình, lại đổ mồ hôi.

Thấy mạch Phù hồng thường lai,

Hãn đa bất giải (135) khát thay càng buồn.

Thạch cao, Tri mẫu, Mạch môn,

Cam thảo lại còn có Sơn chi nhân.

Ngũ vị, Nhân sâm, đẳng phân,

Táo, Gừng, Trúc (136) nước, mọi phần sắc ngay.

Sắc rồi uống ấm đang tay,

Tâm phiền, Trúc nhự gia nay một đoàn (137)

Khát thay lưng có ố hàn (138),

Gia Thiên hoa phấn, bỏ liền Chi nhân.

Dù chẳng có khát mỗ phần,(139)

Chớ uống phương ấy, khá răn mọi đường.


  1. NHƯ THẦN BẠCH HỔ thang (140)

Chữa chứng mình nóng, khát nước, ra mồ hôi mà không giải, hoặc đã qua phát hãn, mồ hôi ra nhiều mà vẫn không giải, mạch phù hồng : nên dùng bài này.




Thạch cao

Tri mẫu

Nhân sâm

Cam thảo

Mạch môn đông

Ngũ vị tử

Sơn chi nhân






Các vị trên + Gừng 3 lát, Táo 1 quả, nước 2 chén.



Truỳ pháp : gia Đạm trúc diệp 10 lá, sắc uống ấm.

  • Trong tâm buồn phiền, gia Trúc nhự 1 nắm.

  • Khát nước nhiều, tâm buồn phiền, lưng ớn lạnh, theo phương này, bỏ Sơn chi nhân, gia Thiên hoa phấn.

  • Nếu không khát nước, thì không dùng được phương này.


XIII
Mười ba thang TAM HOÀNG phương giải (141)

Chủ Dương độc (142) bịnh phải sốt thay,

Mình vàng, vàng cả chân tay,

Ngoài da lốm đốm, xem tầy bôi son.

Hai con mắt đỏ ngòn ngòn,

Táo khát muốn chết, chỉn khôn làm dùng.

Lục mạch đều thấy đại hồng,

Kêu rêu, cuồng dại, nói rông, khôn hàn (143).

Xỉ hoàng, diện xích, tỵ can (144)

Quá kinh hoại chứng, hầu nên bịnh nghèo.

Biểu lý kết nhiệt (145) buồn sao,

Hầu mong phát hãn, bệnh nào khôn lui.

Lại mong thuốc hạ cho rồi,

Đại tiện tần sác (146) nhật thôi (?) khốn nàn.

Tiểu tiện chẳng lợi gian nan,

Ắt có lầm chữa, biến nên chứng này.

Hoặc là 7, 8, 9 ngày,

Đã qua hãn hạ, chẳng hay bề dừng (147)

Mạch còn hòng sác tâng tâng,

Sốt rét co quắp, mình hằng đặng thay.

Hầu mong nội trị chứng này,

Do biểu vị giải (148) khôn hay làm dùng.

Lại mong làm thuốc ngoại công (149)

Lý chứng lại cấp , chẳng xong một bề.

Tra tay chẳng dám rụt rè,

Chờ chết thôi đó, chứng khi khốn nghèo.

Chẳng hay bịnh ở Tam tiêu,

Bế tắc kinh lạc, thuốc liều khôn xong.

Tân dịch vinh vệ bất thông,

Bèn nên chứng ấy, trong lòng biết hay.

Lại rằng hãn hạ lâu ngày,

Tam tiêu sinh nhiệt, mạch nay sác hồng.

Mơ màng, mách nhảm, nói rông,

Đêm ngày suyễn cấp, mũi ròng máu ra.

Vàng khắp đầu, mặt, mình, da,

Kêu gào muốn chạy, thật là gian nguy.

Phương này đều khá trị chi (150)

Dùng cho được thực, chẳng thì liệu sao.

Cầm, Liên, Hoàng, Bá, Thạch cao,

Ma hoàng, Hương sị (151) lại cầu Sơn chi.

Khương tam, Táo nhất, Thuỷ nhì,

Tế trà (152) một dúm, dùng truỳ pháp nay.

Sắc rồi uống ấm chén này,

Nội hoà ngoại giải, hiệu thay bội phần.

Dương độc nhiệt bịnh trừ căn,

Thuốc thánh phương thần, hiệu nghiệm khôn đang.


  1. TAM HOÀNG THẠCH CAO Thang

Chữa chứng Dương độc : da vàng, phát ban, mình như bôi son, kêu la chạy cuồng, mạch hồng đại, táo khát muốn chết, mũi khô, mặt đỏ, răng vàng, bịnh quá kinh mà không giải được, đã thành hoại chứng, biểu lý kết nhiệt, phát hãn mà sốt không lui, lại cho uống thuốc hạ mà đại tiện đi luôn, tiểu tiện không lợi. Cũng có khi do ôn bịnh chữa lầm thuốc mà thành hoạt chứng ; lại có khi bịnh qua 8-9 ngày, đã cho phát hãn và hạ rồi, mình nóng dữ, co quắp, mạch hồng sác, bịnh khá trầm trọng, muốn chữa lý, thì chứng biểu chưa giải, muốn phát biểu thì chứng lý lại gấp ; lần chần không dám hạ tay chữa, chỉ chờ chết mà thôi. Không biết rằng bịnh do Tam tiêu sinh nhiệt, mạch hồng sác, nói sảng không thôi, kêu gào muốn chạy, ngày đêm suyễn thở, mũi thường chảy máu, mình mắt đều vàng, tất cả các chứng đó, bài thuốc này chữa rất hay mà người không biết.




Hoàng liên

Hoàng cầm

Hoàng bá

Thạch cao

Ma hoàng

Chi tử

Đậu sị






Các vị trên + Gừng 3 lát, Táo 1 quả, nước 2 chén.



Truỳ pháp : cho vào Tế trà một dúm, sắc uống nóng.
XIV
Mười bốn, thang TAM HOÀNG CỰ THẮNG.

Chủ Dương độc, các chứng bảo hay.

Phát ban, cuồng loạn, sốt thang,

Vọng ngôn, mục xích (153) đêm ngày kêu rên.

Mạch hồng lục chí (154) hăng mau,

Đại tiện kết thực, lẽ nào khôn thông.

Thượng khí suyễn cấp (155) chẳng xong,

Dái co, lưỡi cuốn, chữa tòng (156) cho hay.

Dùng quyền (157) lập một phương này,

Chữa bấy nhiêu chứng, hiệu thay lạ dường.

Lại dùng làm THẠCH CAO thang (158)

Bỏ rẫy Ma, Sị, gia Hoàng, Mang (159) nay.

Khương nhất, Táo nhị, thực hay,

Đong 2 chén nước cho đầy sắc đi.

Truỳ pháp nhập Thanh tương nê (160)

Xúc lấy 2 thìa, hoà uống hiệu công. (161)


  1. TAM HOÀNG CỰ THẮNG THANG

Chữa chứng Dương độc. Da vàng mà phát ban, mặt đỏ, mà cuồng, nói sảng, keu la, khát nước nhiều, mạch sác, đại tiện táo bón, không thông, khí đưa ngược lên suyễn thở gấp, nếu lưỡi cuốn dái co thì khó chữa. Quyền lập phương này, để tháo độc ra.

Tức TAM HOÀNG THẠCH CAO THANG, bỏ Ma hoàng, Đậu sị gia Đại hoàng, Mang tiêu. Các vị dùng Gừng 1 lát, Táo 2 quả, nước 2 chén sắc uống.

Truỳ pháp : thuốc sắc được rồi, thêm nước bùn trong , 2 thìa mà uống, yên ngay.
XV
Mười lăm, XUNG HOÀ LINH BẢO ẨM.

Chủ thương hàn lưỡng cảm (162) khôn xong.

Sơ bịnh khởi tự đầu Đông (163)

Ố hàn phát nhiệt (164) trong lòng chẳng an.

Rồi liên khẩu táo, thiệt can (165)

Dương thụ bịnh trước, vậy liền đầu chi (166)

Phải phương liền khỏi tức thì,

Biết hay biểu lý hợp suy mà dùng.

Thạch cao, Khương hoạt, Phòng phong,

Tế tân, Bạch chỉ, Xuyên khung, Sài hồ.

Can khương, Cam thảo hợp cho,

Hoàng cầm, Sinh địa, toàn no dùng tầy.

Đong hai bát nước cho đầy,

Oi khương 3 miếng, Táo rầy nhị mai (167)

Tra vào cùng sắc cho sôi,

Truỳ pháp gia đòi Hắc đậu dúm tay.

Ôn ôn uống được một bài,

Thấy có vi hãn (168) hiệu rầy khôn dương.

Biểu đa, nặng chứng hàn thương (169)

Dùng lấy Ma hoàng, Cát căn giải cơ.

Hoặc là thấy lý chứng đa (170)

Điều vị thừa khí thì ta khả hành (171)

Hoặc là trực trúng Âm kinh,

Phát nhiệt tự lợi, lềnh lềnh chảy ngay.

Nước chẳng khát, mình đau thay,

Trầm tế vô lực, mạch này không xong.

Trầm hòn quyền ngoạ (172) mơ mòng,

Cấp sơ cúu lý (173) khá dùng Hồi dương (174)

Cho hay quyền biến đạo thường,

Cứu biểu, cứu lý, hai đường khá phân.


  1. XUNG HOÀ LINH BẢO ẨM

Chữa chứng thương hàn lưỡng cảm. Khởi đầu thấy nhức đầu, phát sốt, ớn rét, miệng khô, lưỡi ráo ; đó là Dương kinh mắc bịnh trước. Nên dùng thang này ; trúng bịnh thì khỏi ngay.




Khương hoạt

Phòng phong

Xuyên khung

Tế tân

Sài hồ

Hoàng cầm

Can khương

Bạch chỉ

Sinh địa

Thạch cao

Cam thảo



Các vị trên + Gừng 3 lát, Táo 2 quả, nước 2 chén.



Truỳ pháp : cho vào đậu đen một dúm, sắc uống ấm ; ra mồ hôi râm rấp là khỏi. Nếu không khỏi, mà thấy biểu chứng nhiều, ớn rét nặng, thì có thể dùng Ma hoàng, Cát căn để giải biểu ; còn lý chứng nhiều mà cấp lắm, thì nên trước dùng ĐIỀU VỊ THỪA KHÍ để công lý. Nếu bịnh trực trúng vào Âm kinh, phát sốt, đại tiện tự lợi, mình mẩy đau nhức, không khát nước, mạch trầm tế vô lực, thì lại nên dùng Hồi dương cứu cấp thang. Phải phân biẹt biểu lý mà chữa, đó là phép quyền biến lớn vậy.

XVI
Mười sáu, thang ĐÀO NHÂN THỪA KHÍ.

Chủ nhiệt tà truyền lý sở thương (176)

Bởi nhân “nhiệt kết Bàng Quang”(177)

Khiến người cuồng dại, bằng đường tỉnh say.

Tiểu tiện tự lợi ra rầy,

Đại tiện phẩn hắc (178) rắn nay thành hòn.

Tiểu phúc (179) đầy tức, bồn chồn,

Vàng da, nói sảng, cuồng ngôn, khát phiền (180)

Mạch hồng hữu lực khá nên,

Hạ hết hắc vật (181) vậy liền được yên.

Dù thấy Vị phục chi tiên (182)

Nhi huyết tự hạ (183) chẳng nên uống rầy.

Chứng nhiều, uống đỡ liền tay,

Có mười vị thuóc, mà hay lạ dường !

Đào nhân, Quế chi, Đại hoàng,

Sài hồ, Bạch thược, Tiêu mang (184) Thanh bì.

Cam thảo, Chỉ xác, Đương qui,

Khương, Táo, Thanh thuỷ, thìa thìa (18) sắc sôi.

Sắc riêng Tô mộc một nơi,

Dùng làm truỳ pháp, uống rồi lại yên.


  1. ĐÀO NHÂN THỪA KHÍ ẨM TỬ

Chữa chứng thương hàn tà truyền vào lý, nhiệt kết ở Bàng quang. Người như mê cuồng, tiểu tiện tự lợi, đại tiện phân đen, bụng dưới đầy đau, mình mắt vàng, nói nhảm, táo khát, mạch trầm có lực, là chứng “xúc huyết”(186). Nên dùng thang này, để hạ hết phân đen, là khỏi ; nếu chưa uống thuốc, mà thấy huyết tự ra trước là sắp khỏi thì không phải uống nữa.




Đào nhân

Quế chi

Đại hoàng

Mang tiêu

Thược dược

Đương qui

Chỉ xác

Thanh bì

Sài hồ

Cam thảo






Các vị trên + Gừng 3 lát, nước 2 chén, sắc lên.



Truỳ pháp : sắc riêng nước Tô mộc, lấy 3 thìa, hoà lẫn mà uống.
XVII
Mười bảy thang TIÊU BAN THANH ĐẠI.

Chủ nhiệt là nội ngoại thực hư.(187)

Bởi nhân huyết nhiệt bất trừ,(188)

Cho nên nhiệt độc thừa ư biểu bì (189)

Mọc ra mình mẩy đôi khi,

Bé như mụn sởi, nặng thì gấm văn (190)

Bồn chồn ngứa ngáy mười phân,

Chẳng hay lở nát, nhiều phần hôi tanh.

Hoặc là vốn thuộc Dương kinh,

Lầm cho thuốc nhiệt, mới thành gian nguy.

Hoặc nên hạ, chẳng hạ đi,

Hạ rồi chẳng khỏi, cùng thì biến ra.

Đều chẳng khá hãn ?(191) chi là,

Đại tiện táo rắn, hợp gia Đại hoàng.

Bỏ rẫy Nhân sâm chẳng màng,

Biểu hư, lý thực, đích phương bí truyền.

Thạch cao, Cam thảo, Hoàng liên,

Sài hồ, Tri mẫu, cùng Huyền sâm nay.

Có quả Dành núi, sừng Tây (192)

Nhân sâm, Sinh địa, đen thay bột Chàm (193)

Táo, Khương, dùng nước sắc thang,

Truỳ pháp Khổ tửu (194) dùng làm khá nên.


  1. TIÊU BAN THANH ĐẠI ẨM

Chữa chứng nhiệt tà truyền vào lý, lý thực biểu hư. Huyết nhiệt không tiêu tán, nên nhiệt độc thừa hư lấn ra ngoài bì phu, mà phát thành ban đỏ ; hoặc vốn thuộc chứng Dương, lầm cho thuốc nóng ; hoặc bịnh nên hạ mà không hạ, hoặc hạ rồi mà chưa giải được, đều có thể biến thành chứng này. Không được dùng thuốc phát hãn, làm cho mụn ban lở loét thêm, nếu đại tiện táo bón, thì bỏ Nhân sâm, gia Đại hoàng.




Hoàng liên

Tri mẫu

Thạch cao

Nhân sâm

Sài hồ

Cảm thảo

Huyền sâm

Sinh địa

Sơn chi tử

Tê giác

Thanh đại



Các vị trên + Gừng 3 lát, Táo 2 quả, nước 2 chén, sắc lên.



Truỳ pháp : khi uống, hoà thêm 1 thìa dấm..
XVIII
Mười tám, thang CẦM LIÊN SINH ĐỊA.

Chủ chư huyết, nục tỵ thành lưu (195)

Nhiệt độc nhập Vị (196) khá âu,

Kíp dùng phương ấy, thuốc hèo khắc yên.

Sài hồ, Cam thảo, Hoàng liên,

Cát cánh, Bạch truật, Khung xuyên (197) Địa hoàng.

Lên núi lấy quả Dành vàng (198)

Hoàng cầm khử hủ (199), mạt sừng muông Tây (200)

Sắc sôi lọc đã đang tay,

Vắt Mao căn trấp (201) mài rầy Mực nho (202)

Không Mao, Ngẫu (203) cũng khá cho,

Uống rồi, cầm máu, bịnh tô (204) như thần.

Máu nhiều, thuốc ít khôn ngăn,

Nhắm mắt, nói sảng, thất thần, toát không. (205)

Người ta han hỏi chẳng thông (206)

Lại làm phương ấy, đòi dùng khá đang.



  1. SINH ĐỊA CẦM LIÊN Thang

Chữa các chứng huyết, mũi chảy máu ròng ròng, lâu không dứt, hoặc nhiệt độc vào Vị, mà thổ huyết không ngừng, cũng dùng phương này.




Sinh địa

Hoàng cầm

Hoàng liên

Sài hồ

Cát cánh

Sơn chi tử

Thược dược

Xuyên khung

Cam thảo

Tê giác (nếu không có Tê giác, thì thay bằng Thăng ma)

Các vị trên + Gừng 3 lát, Táo 2 quả, nước 2 chén, sắc còn 8 phân.

Truỳ pháp : dùng rễ cỏ Tranh, vắt lấy nước nguyên chất, và mài thêm mực tầu, hoà uống ; nếu không có rễ Tranh, thì dùng nước nguyên chất Ngó sen cũng được. Nếu ra huyết nhiều, nói sảng, mất tinh thần, bắt chuồn chuồn, nhắm mắt hôn mê không biết gì, cũng chữa theo phép này.
XIX
Mười chín, thang ĐỊA HOÀNG GIA VỊ.

Chủ táo phiền, thấu thuỷ bất an (207)

Thượng tiêu ứ huyết gian nan,

Nuốt nước không xuống, xẩy nên vậy là.

Đương qui, Thược dược, Hồng hoa,

Sinh địa, Tê giác, cùng là Mẫu đơn.

Cam thảo, Cát cánh, khá nên,

Trần bì khử bạch (208) vậy liền sao qua.

Sắc vừa còn bẩy cạn ba,

Truỳ pháp Ngẫu tiết (209) lại gia ba thìa.

Điều hoà ôn noãn phục chi (210)

Dùng làm phải phép thực thì yên thay.


  1. GIA VỊ TÊ GIÁC ĐỊA HOÀNG Thang

Chữa chứng phiền táo, súc miệng, mà không nuốt nước xuống, do Thượng tiêu có ứ huyết, nên dùng bài này.



Sinh địa

Bạch thược dược

Đan bì

Tê giác

Đương qui

Hồng hoa

Cát cánh

Trần bì

Cam thảo

Các vị trên + Gừng 3 lát, nước 2 chén, sắc lên.



Truỳ pháp : dùng Ngó sen tươi giã lấy nước nguyên chất 3 thìa, hoà uống ấm.
XX
Hai mươi thang, HỒI DƯƠNG CỨU CẤP,

Trị hàn tà trực nhập Âm kinh.

Nên “chân hàn” chứng đã đành,

Thoạt tiên chẳng có nóng mình sốt đâu.

Những nhưng (211) cũng chẳng nhức đầu.

Chân tay run rẩy, dạ đau bồi hồi.

Chẳng khát, mửa tháo (212) đòi thôi.

Kéo áo tự đắp, nằm ngồi quắp co.

Móng tay, môi mép xanh mò,

Đàm diên (213) bọt rãi, mặc dầu nó ra.

Mạch trầm vô lực đó là,

Hoặc khi “vô mạch”(214) chứng đà chỉn khôn.

Hợp dùng bổ tễ cấp ôn,

Can khương, Phụ tử, chớ còn hồ nghi.

Bạch truật, Cam thảo, Quế chi,

Phục linh, Ngũ vị, Trần bì, Nhân sâm.

Bán hạ khương chế dùng làm,

Khương tam, Táo nhị, dầm dầm (215) sắc đi.

Truỳ pháp nhập Xạ ba ly,

Trúng bịnh tắc chỉ, thấy khi ôn hoà.

Chớ còn uống nữa chi là,

Lo khi quá trớn, lại gia bịnh (216) rầy.

Hoặc sau khí dụng phương này,

LÝ TRUNG gia giảm, biết hay lẽ làm.

Mửa đờm đau bụng chẳng kham,

Ngô thù du lại sao diêm (217) sẽ dùng.

Vô mạch, Trư đảm (218) hợp cùng,

Tiết tả lại dùng Hoàng kỳ, Thăng ma.

Ẩu thổ khương trấp lại gia,

Dùng làm dường ấy thật là khá khen.


  1. HỒI DƯƠNG CẤP CỨU Thang

Chủ trị chứng hàn tà trúng thẳng vào Âm kinh. Khởi đầu không có đau đầu và nóng mình, chỉ ớn rét, chân tay lạnh ngược, run rẩy, đau bụng, thổ tả. Không khát nước, tự kéo áo đắp, nằm co, mạch trầm trì vô lực, nên dùng bài này.




Nhân sâm

Bạch linh

Bạch truật

Chích thảo

Can khương

Thục Phụ tử

Nhục quế

Trần bì

Bán hạ

Ngũ vị tử






Các vị trên + Gừng 3 lát, nước 2 chén, sắc lên.



Truỳ pháp : cho vào Xạ hương 3 ly, hoà uống ấm. Nếu thấy người ôn hoà, tức là trúng bịnh, thì ngừng thuốc, không nên uống nhiều, sẽ sinh bịnh khác. Sau nên dùng LÝ TRUNG thang gia giảm, thì không hại gì.

  • Nôn thổ bọt rãi, hoặc đau bụng dưới : gia Ngô thù du tẩm nước muối sao.

  • Vô mạch : gia nước mật Lợn 1 thìa.

  • Tiết tả không ngừng : gia Thăng ma, Hoàng kỳ.

  • Nôn thổ không ngừng : gia Khương trấp.


XXI
Hai mươi mốt, HỒI DƯƠNG PHẢN BỔN (bản)

Chủ “Âm thịnh” hư tổn “cách Dương”(219)

Âm cực phát táo (220) không đương,

Mặt đỏ, hơi khát, bằng dường sốt thay.

Hoặc muốn ngồi giếng nước đầy,

Hoặc muốn nằm ướt, lăn ngay giữa bùn.

Mạch lai vô lực, bồn chồn,

Hoặc toàn vô mạch, chỉn khôn thay là.

Nhân trai (221) xưa đã nói ra,

“Khát bất dục ẩm”(222) thì ta khá dùng.

Can khương, Thục phụ hợp cùng,

Nhân sâm, Cam thảo, Mạch đông đồng thì.

Lạp trà (223) Ngũ vị, Trần bì,

Đong 2 chén nước, thìa thìa sắc lên.

Chờ nguội uống hết khá nên,

Ôn ôn thủ hãn (224) vậy liền hiệu thay.

Diện sắc đới Dương (225) thuở này,

Hạ hư chứng ấy, thật nay rành rành.

Lại gia Thông bạch bẩy hành (226)

Hoàng liên chút ít, thuốc lành Nê tương. (227)


  1. HỒI DƯƠNG PHẢN BẢN Thang

Chữa chứng “Âm thịnh cách Dương”, “Âm cực phát táo”. Hơi khát, mặt đỏ, muốn nằm ngồi ở nơi bùn đất, trong giếng nước ; mạch vô lực, hoặc muốn tuyệt hay toàn không có mạch trái thì nên dùng bài này. Nhân-Trai nói : “Miệng khát mà không muốn uống nước, là đúng chứng ấy (âm thịnh cách dương). Nếu uông nước vào , là không đúng.”





Thục Phụ tử

Can khương

Nhân sâm

Cam thảo

Mạch môn

Ngũ vị tử

Trần bì

Lạp trà



Các vị trên + nước 2 chén, sắc lên.



Truỳ pháp : sắc xong, chế vào 5 thìa Mật, để nguội uống một lần hết, cần ra được mồ hôi là công hiệu. Nếu mặt bốc đỏ, hiệu chứng “đới Dương”, là do hạ tiêu hư hàn : gia Hành 7 nhánh, và Hoàng liên chút ít ; rồi dùng nước bùn lắng trong mà sắc uống.
XXII
Hai mươi hai : SÀI HỒ BÁCH HỢP,

Chủ sái hậu (228) trà tạp, trầm hôn )229)

Thất thần (230) nói sảng, bồn chồn,

Bách hợp, lao phục (231), lẽ khôn dùng làm.

Sài hồ, Tri mẫu, Hoàng cầm,

Cam thảo, Bách hợp, dùng Nhân sâm rầy.

Sinh địa, Trần bì đang tay,

Hai chén nước đầy, Khương, Táo sắc lên.

Thố chích Miết giáp (232) cho yên,

Dùng làm truỳ pháp, vậy bèn uống thôi.

Khát : Thiên hoa phấn gia đôi,

Ngực nóng, kíp vồi (233)gia Sơn chi nhân.

Vi hãn, đầu thống (234) khôn ngăn,

Xuyên khung, Khương hoạt đẳng phần lại gia.

Hoặc có ụa oẹ mửa ra,

Khương sao Bán hạ (235) vậy mà sắc thêm.

Nếu thấy trong ngực hư phiền (236)

Trúc diệp, Trúc nhự, khá nên gia vào.

Bịnh vừa mới khỏi về sau,

Thất thần, nói sảng, dương hầu ụa khan.

Nhưng thường rên rỉ chẳng yên,

Lại gia Tê giác, Hoàng liên đẳng phần.

Khái thấu thì gia Hạnh nhân,

Thấy chứng bách hợp, gia phân Ma hoàng.

Trong lòng kinh sợ lạ thường,

Vinh hư (237) huyết thiểu, gia Đương qui rầy.

Phục linh, Viễn chí cùng tầy,

Dù thấy hư hãn (238) gia nay Hoàng kỳ.

Tỳ hư : Bạch truật gia chi (239)

Sôi bụng gặp khí : gia Ổi sinh Khương (240)

Lao phục thời nhiệt (241) không dương,

Đình lịch, Khương trấp, cùng dường Ô mai.

  1. SÀI HỒ BÁCH HỢP Thang

Chữa bịnh thương hàn mới khỏi. Bổng người mê lịm, phát sốt, khát nước, nói sảng, mất tinh thần… và các chứng lao phục, bách hợp.




Sài hồ

Nhân sâm

Hoàng cầm

Cam thảo

Bách hợp

Tri mẫu

Sinh địa hoàng




Trần bì

Các vị trên + Gừng 3 lát, Táo 1 quả, nước 2 chén.



Truỳ pháp : gia Miết giáp tẩm Dấm nướng, sắc uống ấm.

  • Khát nước : gia Thiên hoa phấn.

  • Trong ngực nóng, bứt rứt : gia Sơn chi nhân.

  • Mồ hôi ra chút ít và nhức đầu gia Xuyên khung, Khương hoạt.

  • Nôn thổ gia Bán hạ tẩm Gừng sao.

  • Trong ngực hư phiền gia Trúc nhự, Trúc diệp.

  • Bịnh mới khỏi (242) ụa khan, nói sảng, mất thần, rên rỉ, mê muội chẳng yên, gia Hoàng liên, Tê giác.

  • Khái thấu gia Hạnh nhân.

  • Bịnh bách hợp nên gia Ma hoàng.

  • Trong tâm kinh sợ là huyết kém, gia Đương qui, Phục linh, Viễn chí.

  • Mồ hôi thuộc chứng hư : gia Hoàng kỳ.

  • Tỳ hư : gia Bạch truật.

  • Sôi bụng gia Gừng tươi lùi chín.

  • Bịnh lao phục thỉnh thoảng lại phát sốt : gia Đình lịch, Ô mai, Sinh khương trấp.


XXIII
Hai mươi ba dùng thang NHƯ THÁNH,

Chủ cương nhu cảnh (243) bịnh càng khôn (244)

Lắc đầu, ngậm miệng, bồn chồn.

Chân tay co quắp, rẩy run chờ vờ.

Hèn vi tròng mắt trương ra,

Đỏ mắt, cứng cổ, thực là khôn xong.

Chữa cùng “khế túng” (245) phép chung.

Học thực, dùng thực, kẻo lòng ngờ lo.

Phòng phong, Khương hoạt, Sài hồ,

Hoàng cầm, Bạch chỉ, Nhục Ô mai (246) cùng.

Đương qui, Thược dược, Xuyên khung,

Khương chế, Bán hạ (247) hợp cùng đẳng phân.

Khương, Thuỷ (248), sắc còn bẩy phần.

Khương trấp, Trúc lịch, đôi lần lọc ra.

Lấy làm truỳ pháp lại gia,

Ôn ôn uống đã, thực là hiệu thay.

Thấy có mồ hôi ra nay,

Cương cảnh, nhu cảnh biết hay mựa (249) ngờ.

Quế chi, Bạch truật lại gia,

Uống rồi phương ấy, bằng xưa yên hoà.

Dù không thấy mồ hôi ra,

Ấy chứng cương cảnh, thật đà khôn xong.

Dưỡng chính (250) Ma hoàng hợp cùng,

Cương nhu hai lẽ, khôn thông một đường.

Dù thấy ngậm miệng, nghiến răng,

Đại tiện kết thực, Đại hoàng thêm luôn.


  1. NHư THÁNH ẨM (251)

Chữa hai chứng cương cảnh, nhu cảnh lắc đầu, ngậm miệng, mình uốn ván chân tay co rút, mặt đỏ, cổ cứng, phép chữa cũng như bịnh “Khế túng”.




Khương hoạt

Phòng phong

Xuyên khung

Bạch chỉ

Thược dược

Đương qui

Sài hồ

Hoàng cầm

Bán hạ

Ô mai (một phương có Trần bì ; 1 phương có Cam thảo)

Các vị trên + Gừng 3 lát, nước 2 chén, sắc lên.



Truỳ pháp : thêm nước Khương trấp và Trúc lịch hoà uống ấm.

  • Có mồ hôi là chứng nhu cảnh, gia Bạch truật , Quế chi.

  • Không mồ hôi là chứng cương cảnh, gia Ma hoàng, Thương truật.

  • Cấm khẩu, nghiến răng, nếu đại tiện thực, gia Đại hoàng để thông lợi.


XXIV
Hai bốn, ÔN KINH ÍCH NGUYÊN TÁN,

Chủ trị nhân hậu hãn (252) đại hư.

Quay đầu, chóng mặt, bơ thờ,

Người thường lảo đảo, ngồi phờ, ngả lăn.

Hoặc là máy thịt, động gân,

Hoặc nhân hãn hậu (253) bội phần quá đa.

Vệ hư, vong dương chẳng hoà,

Mồ hôi hằng có thấy ra chẳng dừng.

Huyết dinh, khí vệ trái thường,

Bởi nhân hãn hậu mình càng đau ê.

Trước dùng Nhân sâm, Hoàng kỳ,

Phục linh, Bạch truật, Đương qui, Địa hoàng.

Thục phụ (254), Nhục quế tương đương,

Thược dược, Cam thảo, cùng rang Trần bì (255)

Khương tam, Táo nhất, Thuỷ nhì,

Nhu mễ một nắm, dùng truỳ pháp nay,

Dù thấy bão muộn (256) tức đầy

Dùng sao Chỉ xác (257) bỏ nay Địa hoàng.

Người gầy, tầm vóc làng nhàng,

Bỏ rầy Thược dược, lề (258) rằng cho hay.

Thấy có phiền nhiệt sốt thay,

Thời bỏ Phụ tử, dùng rầy chẳng nên.

Thấy có hạ lợi khôn ngăn,

Thăn ma, Bạch truật, cùng Trần thổ (259) nay.

Đương qui lại bỏ chớ chầy,

Dù có ẩu huyết, chứng này không sao.

Khương chế, Bán hạ gia vào,

Vắt sinh Khương trấp, thuốc heo mười phần.

Dù thấy khát nước khôn ngăn,

Gia Thiên hoa phấn, bội phần khá ưa.

Hãn hậu nhân thuộc biểu hư,

Nhơ nhơn sởn rét, mình đà có ghê (260)

Hợp gia Bạc quế, Giao di (261)

Sinh địa, Phụ tử, bỏ đi chẳng màng.


  1. ÔN KINH ÍCH NGUYÊN TÁN (262)

Trị sau khi phát mồ hôi, người hư nhiều, đầu choáng, lảo đảo muốn ngả xuống đất, máy thịt giật gân ; hoặc do phát hãn nhiều, vệ hư, dương vong, mồ hôi ra không ngừng ; hoặc sau khi tả hạ, đại tiện đi mãi không cầm, mình mẩy đau nhức.



Phụ tử

Nhân sâm

Bạch truật

Cam thảo

Hoàng kỳ

Bạch thược dược

Đương qui

Sinh địa

Bạch linh

Nhục quế

Trần bì



Các vị trên + Gừng 3 lát, Táo 1 quả, nước 2 chén.



Truỳ pháp : thêm Gạo nếp 1 dúm, sắc uống ấm.

  • Đầy tức : bỏ Sinh địa, gia Chỉ xác

  • Người gầy bỏ Thược dược.

  • Phiền nhiệt, bỏ Phụ tử.

  • Đại tiện hạ lợi không ngừng, bỏ Đương qui, gia Bạch truật sao, Thăng ma, Trần bích thổ.

  • Nôn thỏ, gia Bán hạ chế nước Gừng.

  • Khát nước, gia Thiên hoa phấn.

  • Sau khí phát mồ hôi, sợ gió lạnh, là biểu hư : bỏ Phụ tử, Nhục quế, Sinh địa hoàng ; gia Quế chi, Giao di.



XXV
Hai mươi lăm, TIÊU DAO THANG phục (263)

Bởi nhân lầm dâm dục mà nên.

Vì trước cảm mạo phong hàn,

Tỏn thương khí huyết, vậy bèn phải đau.

Mới khỏi chửa được bao lâu,

Ăn ngon nằm ngủ, chẳng âu sự gì.

Tuy rằng hôm sớm đi về,

Song nơi thần xá (264) nó thì chửa yên.

Một cơn gió giập thổi tràn,

Động nơi lửa dục cháy lên rầm rầm.

Nhiễm nên tật dữ chẳng lầm,

Cấp như phong hoả (265) cao bằng núi non.

Ấy là “lao phục” (266) bịnh nhân,

Này “Âm dương dịch” (267), lại bàn cho hay.

Chồng đau vợ phải chịu thay,

Gọi là “Dương dịch” chứng này khá lo.

Vợ đau chồng phải chịu cho,

Gọi là “Âm dịch” mặc dù đổi thay.

Trượng phu ghìn (268) đấy cho hay,

Ấy gươm hồng phấn (269) nó hay giết ngầm.

Trót đà mờ mịt dại lầm,

Vội tìm đơn thuốc thiên câm (kim) (270) gia truyền.

Tiêu dao thuốc ấy thuốc tiên,

Sâm,Tri, Cam, Cửu, Sài, Liên, Tê, Hoàng.

Khương tam, Táo nhị, sắc dùng.

Lọc rồi, than đốt con đương (271) hoà đều.

Thấy có vi hãn (272) ra theo,

Nang súc âm thũng (273) nạn nghèo lại an (yên)

Dặn người niên thiếu hồng nhan (274)

Lánh nơi phòng thất mựa loàn phải thương (275).


  1. TIÊU DAO THANG (276)

Chữa người mắc bịnh thương hàn mới khỏi, huyết khí chưa bình phục, nhân lao lực mà trợ nhiệt, nhiệt tà trở lại trong kinh lạc, lại thêm sự vợ chồng giao hợp, mà bịnh tái phát ; và phát ra ở chính người bịnh đó, thì gọi là “lao phục” ; còn do giao hợp mà phát ra ở người khoẻ (tức chồng hoặc vợ), thì gọi là “âm dương dịch”. Chứng này rất khó chữa, thường thấy nhiều người lưỡi thè ra vài tấc mà chết.




Nhân sâm

Sinh địa hoàng

Hoàng liên

Tê giác

Hoạt thạch

Trúc thanh

Sài hồ

Cam thảo (sống)

Cửu căn (rễ Hẹ)

Tri mẫu (hòn cà rụt và bụng đau thì dùng bội lên) (277)

Các vị trên + Gừng 3 lát, Táo 2 quả, nước 2 chén, sắc lên.



Truỳ pháp : dùng đũng quần, đốt thành than, tán nhỏ, 1 đồng 5 phân, hoà uống, thấy ra mồ hôi dinh dính là khỏi ; nếu chưa có mồ hôi, thì lại cho uống nữa, hể tiểu tiện lợi, đầu ngọc hành sưng lên là khỏi.
XXVI
Hai mươi sáu : THĂNG DưƠNG TÁN HOẢ

Chủ bịnh nhân thoa thủ mạo hung (278)

Hai tay chắp ở nương long,

Mò giường lần áo, mơ mòng chẳng hay.

Mách nhàm (279)nói quái tỉnh say,

Người ta han hỏi chẳng hay sự gì.

Hại thay phải hạng dung y (280)

Quyết là phong chứng, tức thì chữa phong.

Lầm người bởi nghĩ chẳng thông.

Ai hay chứng ấy “toát không”(281) đâu là.

Bởi nhân nguyên khí cửu hư (282)

Vậy nên can nhiệt lai thừa (283) Phế câm (kim)

Khí hư khôn chước giữ cầm,

Bao nhiêu thầy thuốc cũng lầm chẳng hay.

Tiểu tiện có lợi lành thay !

Dùng được thuốc này, mệnh người phúc ta.

Nhân sâm, Bạch truật cắt ra,

Phục linh, Cam thảo, cùng là Đương qui.

Sài hồ, Hoàng cầm, Trần bì,

Mạch môn, Thược dược, cùng thì tày nhau.

Khương, Táo, Thuỷ tiên, sắc ngao (284)

Nhập kim thủ sức (285) mời hầu phục đưa.

Hoặc là thấy có đờm ra,

Khương trấp, Bán hạ (286) sao qua sẽ dùng.

Tiện thực, phát khát, mách rông (287)

Gia Đại hoàng mạt, liền thông tức thì.

Dù thấy tả tiết hay đi,

Bội dùng Bạch truật, gia thì Thăng ma.


  1. THĂNG DưƠNG TÁN HOẢ Thang

Chữa người bịnh chắp tay ấp vào ngực, lần áo sờ giường, nói sảng, nói mê lịm không biết gì. Thầy thuốc tục không hiểu, cho là bịnh phong, liền dùng thuốc chữa phong, lầm làm chết người rất nhiều. Họ không biết đó là chứng Can nhiệt lấn át Phế kim, nguyên khí hư nhược, không tự chủ được, gọi là chứng “toát không” . Nếu tiểu tiện thông lợi thì chữa được, không thông lợi thì không chữa được.




Nhân sâm

Bạch truật

Bạch linh

Cam thảo

Xuyên qui

Bạch thược

Sài hồ

Trần bì

Mạch môn

Hoàng cầm






Các vị trên +Gừng 3 lát, Táo 2 quả, nước 2 chén.



Truỳ pháp : thả thêm đồ thủ sức bằng vàng vào, sắc uống nóng.

  • Có đờm : gia Bán hạ tẩm nước gừng sao.

  • Đại tiện rắn, nói sảng, khát nước : gia Đại hoàng.

  • Tiết tả, bội Bạch truật, gia Thăng ma (có sách nói : trong Nguyên phương : vị Bạch truật để sống, nếu tiết tả thì sao lên).


XXVII
Hai mươi bảy, phương rằng TÁI TẠO,

Bất tác hãn (288) chứng bảo “vô dương

Sợ bịnh nhức đầu, đau lưng,

Nóng mình sốt rét, chẳng từng mồ hôi.

Tựa Thái dương chứng bấy ôi,

Thầy hèn chẳng biết, rẫy bồi (?) khôn phân.

Thuốc dùng trọng dược (289) đôi lần,

Hoả kiếp thủ hãn (290) bội phần khá thương.

Nào hay rằng vốn vô dương,

Chứng lầm, thuốc lỡ, nhiều đường chẳng thông.

Thục phụ, Khương hoạt, Phòng phong,

Nhân sâm, Cam thảo, Xuyên khung, Hoàng kỳ.

Ổi sinh khương (291) lạt Quế chi (292)

Táo Khương, Thanh thuỷ, cùng thì sắc qua.

Truỳ pháp Bạch thược sao gia,

Lại sôi ba dạo, ôn hoà phục chi (293)

Hoặc là gặp tiết tháng Hè,

Hoàng cầm cùng thì gia nhuyễn Thạch cao.

Tháng Đông chẳng lọ gia vào,

Biết hay thời bịnh (294) thuốc cầu khá đương.


  1. TÁI TẠO Tán (295)

Chữa chứng nhức đầu, phát sốt, cứng gáy và sống lưng, ghê rét, không mồ hôi, đã dùng thuốc phát hãn 2-3 tễ, mà mồ hôi không ra ; thầy kém không biết chứng này, không kể thời bịnh, thường dùng Ma hoàng thuốc mạnh và lửa nóng mà bức cho ra mồ hôi, lầm làm chết người rất nhiều. Đâu có biết dương khí không có, thì mồ hôi không ra, do đó mới có chứng này, gọi là chứng “vô dương




Hoàng kỳ

Nhân sâm

Quế chi

Cam thảo

Phụ tử

Khương hoạt

Phòng phong

Xuyên khung

Ổi khương (gừng lùi)

Các vị trên + Gừng 3 lát, Táo 2 quả, nước 2 chén, sắc còn 1 chén.

Truỳ pháp : gia Bạch thược sao 1 dúm, lại sắc sôi 3 dạo, cho uống ấm. Mùa Hè gia Hoàng cầm, Thạch cao ; mùa Đông thì chớ gia.
XXVIII
Hai mươi tám, HOÀNG LONG thang dược,

Trị “nhiệt kết lợi” (296), nước thuần trong (297)

Rắn đau, phiền khát, quanh lòng (298)

Uống vào thời lại dòng dòng chảy ra.

Thầy hèn chẳng biết thế là,

Ngỡ rằng “lậu để” (299) thuốc hoà cầm ngăn.

Ví bằng cứu hoả phóng tân (300)

Rơm chữa nhà cháy, bội phần khá thương.

Lầm người thác nghỉ (301) khôn lường,

Nào hay là chứng nội thương nhiệt tà.

Vị trung táo thực (302) chẳng ngoa,

Gọi “nhiệt kết lợi”, chứng là phải hay.

Chẳng phải nói hàn lợi rầy,

Mà dùng thuốc nhiệt ngăn nay cho dừng.

Bởi nhân nhiệt khát chửa xưng (303)

Trực nhật tự ẩm thuỷ thang (304) nên vầy.

Có sốt khá dùng phương này,

Không sốt LỤC NHẤT (305) chứng hay chọn dùng.

“Nhân thông” lại khá “dùng thông”(306)

Đại hoàng, Chỉ thực, miễn cùng (307) Mang tiêu.

Nhân sâm, Cam thảo, no liều,

Hậu phác, Cát cánh, miễn điều (308) Đương qui.

Khương, Táo, Thanh thuỷ sắc đi,

Uống rồi, lợi đỡ (309) nhưng khi thấy hèo.

Khí huyết hư, tuổi đã nhiều.

Thì ta nên bỏ Mang tiêu mựa (310) dùng.


  1. HOÀNG LONG Thang

Chữa bịnh dưới tâm đau rắn, đại tiện ra thuần nước trong, nói sảng, mình nóng, khát nước ; thầy kém không biết chứng này, thấy đi ngoài nhiều nước, cho ngay là chứng “thương hàn lậu để, liền dùng thuốc nóng để cầm lại, khác nào ôm củi tới lửa cháy, lầm làm chết người rất nhiều ; không biết rằng nhiệt tà truyền vào lý. Vị phủ bị táo uất, kết thực, dù có đi ngoài ra nhiều nước, nhưng không phải là nội hàn, mà là những chất nước uống hàng ngày nó tự tháo ra, đó gọi là chứng “nhiệt kết lợi” , phải cấp dùng thuốc tả hạ mới được. Mình nóng thì dùng thang này, không nóng thì dùng thang LỤC NHẤT THUẬN KHÍ ở trên.




Đại hoàng

Mang tiêu

Hậu phát

Chỉ thực

Cam thảo

Nhân sâm

Đương qui

Cát cánh



Các vị trên + Gừng 3 lát, Táo 2 quả, nước 2 chén ; sắc lên ; khí sắp được, cho vị Cát cánh vào, lại sắc sôi 1 dạo nữa, uống nóng. Người già, khí huyết hư, thì bỏ Mang tiêu.


XXIX
Hai mươi chín, ĐIỀU VINH DưỠNG VỆ

Chủ lao lực hàn khí cảm thương,

Nhức đầu, sốt rét khôn đương,

Khát nước nhưng thường hãn xuất trấp nhiên (311)

Hoà mình (?) phiền muộn đau liền,

Mạch hư vô lực, hiện lên không phù. (312)

Thầy hèn chẳng biết chứng cho,

Thấy có sốt rét bèn hô (313) thương hàn.

Mạch chứng chẳng biết khôn toan,

Lại phát đại hãn (314) chứng nên bất tường (315)

Nào hay khí huyết nội thương,

Phong hàn ngoại cảm, lẽ thường khôn phân.

Bởi nhân lao lực, bịnh nhân (316)

Gội mưa chải gió, nhọc nhằn sẩy nên.

Thuốc dùng nên bớt tân ôn,

Cam ôn trừ nhiệt (317) chữ còn trong kinh.

Thấy có hạ chứng đã rành,

Đại sài hồ dược (318) chính danh khá dùng.

Tế tân, Khương hoạt, Phòng phong.

Nhân sâm, Bạch truật, Xuyên khung, Trần bì.

Sinh địa, Cam thảo, Đương qui,

Lại Sài hồ với Hoàng kỳ đẳng phân.

Khương, Táo, nước sắc làm ngần,

Truỳ pháp hậu nhập Thông căn nhị hành (319)

Nguyên khí bất túc chẳng lành,

Thăng ma chút ít, đã dành lại gia.

Suyễn khái : Hạnh nhân, Thăng ma (?)

Chỉ khát : Tri mẫu, Thiên hoa phấn này.

Mồ hôi chẳng dừng chảy ngay,

Gia Bạch thược được, bỏ rầy Tế tân.

Nương long buồn bực mười phân,

Hợp gia Trúc nhự, Chi nhân liền dùng.

Nôn khan, ụa oẹ ngập ngừng,

Lại gia Bán hạ nược Gừng sao qua.

Hung trung bão muộn (320) xít xa,

Cát cánh, Chỉ xác, lại gia dùng làm.

Bớt ít Địa, Truật, Kỳ, Cam,

Thấy có nhiều đờm, lại bỏ Tế tân.

Gia Bối mẫu, Qua lâu nhân,

Phúc trung thích thống (321) đôi lần đau ê.

Trước bỏ Bạch truật, Hoàng kỳ,

Lại gia Thược dược, cùng thì Can khương.

Bởi nhân uất huyết, nội thương,

Đại tiện hắc phẩn (322) đau thường có nơi.

Hồng hoa, Đào nhân gia đôi,

Tế tân, Thược dược, kíp vời bỏ đi.

Bỏ cả Phòng, Khương, Truật, Kỳ,

Dù thấy chăng nữa, ta thì có phương.

Lại gia cẩm văn Đại hoàng (323)

Hạ hết ứ huyết, một dường yên nhưng. (324)

Chưng sau lại nắm bản phương,

Mỗi phục bình thường, (325) Đại hoàng bỏ ra.

Chứng khôn, thuốc nhiệm (326) thế là,

Học thực, dùng thực, vậy hoà khá đương.


  1. ĐIỀU VINH DưỠNG VỆ Thang (327),

Chữa chứng đầu đau, mình nóng, ghê rét, hơi khát nước, mồ hôi ra dâm dấp, mình mẩy nhức, chân đùi đau ê, không có sức, người trầm lặng, mỏi mệt, mạch phù hư vô lực, thầy kém không hiểu biết, thấy các chứng đầu đau, ghê rét, phát sốt, liền gọi là bịnh chính thương hàn, rồi dùng thuốc phát hãn quá mạnh, nên bịnh nhẹ biến nặng, làm hại người rất nhiều, không viết rằng bịnh do lao lực, trong đã khí huyết tổn thương, ngoại lại cảm nhiễm hàn tà, gọi là chứng “thương hàn lao lực” ; phải dùng tễ thuốc “cam ôn” mói chữa khỏi được. Nội Kinh nói : “Lao giả ôn chi” : lao lực thì dùng thuốc ôn, và “cam ôn trừ đại nhiệt” : thuốc cam ôn trừ được bịnh đại nhiệt, chính là nghĩa đó. Nếu có chứng nôn hạ, thì dùng ĐẠI SÀI HỒ Thang.



Nhân sâm

Hoàng kỳ

Bạch truật

Cam thảo

Sinh địa

Xuyên qui

Xuyên khung

Sài hồ

Phòng phong

Tế tân

Khương hoạt

Trần bì

Các vị trên + Gừng 3 lát, Táo 2 quả, nước 2 chén.



Truỳ pháp : lại gia Hành trắng 2 củ, sắc uống ấm.

  • Nguyên khí bất túc gia Thăng ma chút ít.

  • Khát nước , gia Thiên hoa phấn, Tri mẫu.

  • Ho suyễn : gia Hạnh nhân, Thăng ma (?)

  • Mồ hôi ra không ngừng : bỏ Thăng ma, Tế tân ; gia Thược dược.

  • Trong ngực phiền nóng : gia Trúc nhự, Sơn chi nhân.

  • Nôn khan : gia Bán hạ tẩm Gừng sao.

  • Trong ngực đầy tức : gia Cát cánh, Chỉ xác ; giảm Địa hoàng, Cam thảo, Hoàng kỳ, Bạch truật, chỉ dùng chút ít.

  • Đờm nhiều : bỏ Tế tân ; gia Qua lâu nhân, Bối mẫu.

  • Đau bụng : bỏ Hoàng kỳ, Bạch truật ; gia Thược dược, Can khương để điều hoà.

  • Nếu có uất huyết nội thương, chỗ đau thường cố định, hoặc đại tiện ra phân đen thì bỏ Thược dược, Tế tân, Phòng phong, Khương hoạt, Hoàng kỳ, Bạch truật ; gia Đào nhân, Hồng hoa ; nặng hơn thì gia Đại hoàng. Thấy đi ngoài ra huyết ứ thì khỏi ; sau cứ dùng phương này bỏ Đại hoàng điều phục.


XXX
Ba mươi, thang ĐẠO XÍCH CÁC BÁN,

Chủ “Việt kinh” (328) tâm loạn thần hôn.

Thày hay chữa được chứng không (329)

Ngỏ thông cảm thụ, căn nguyên suy cầm (330)

Thương hàn mới phải chưng sau,

Tâm phúc (331) chẳng rắn, chẳng đau, chẳng đầy.

Chẳng có sốt rét đâu nay,

Đại tiểu tiện rầy bình thường người ta.

Sẩy nên biến chứng đấy là,

Thần hồn bất ngữ (332) lẽ đà khôn xong.

Ngủ nằm những nói mơ mòng,

Một hai lời nói chẳng thông hiểu điều.

Hoặc là nhãn xích thần tiều (333)

Thiện can bất ẩm (334) chứng nghèo khôn hay.

Cho thì ăn uống chút thay !

Chẳng cho thì chớ, nào hay lo tìm.

Bằng người say ngủ rim rim,

Thầy hèn chẳng biết, luống thêm lẫn lầm.

Nhiệt tà truyền lý Thiếu-âm (335)

Tâm hoả viêm thượng (336) Phế câm (kim) thụ tà.

Gọi “Việt kinh” thực chẳng ngoa,

Trước ngõ bịnh chứng, sau ta sẽ dùng.

Sơn chi cùng Mạch môn đông,

Hoạt thạch, Cam thảo, hợp chung Liên, Cầm.

Nhân sâm, Tri mẫu, Phục thần.

Có Tê giác tiết (337) đẳng phân dùng làm.

Thuỷ nhì, Táo nhất, Khương tam,

Truỳ pháp một nắm Đăng tâm nhập cùng.

Sắc vừa còn đến một chung (338)

Bỏ bã, uống ấm, nên công lạ dường !


  1. ĐẠO XÍCH CÁC BÁN Thang (339)

Chữa sau khí mắc bịnh Thương hàn, dưới tâm không rắn, bụng không đầy, mình không rét nóng, đại tiểu tiện như thường dần dần biến thành chứng tinh thần hôn mê, không nói năng, hoặc khi ngủ nói lảm nhảm một mình ; độ 1-2 tuần thì mắt đỏ, môi lưỡi khô, không khát nước, cho nước chút ít thì nuốt, không cho thì thôi, giống như người say. Thầy kém không hiểu, lầm làm chết người rất nhiều ; không biết rằng đó là nhiệt tà truyền vào Thiếu âm TÂM, TÂM HOẢ, bức lên PHẾ, nên tinh thần hôn mê, gọi là chứng “VIỆT KINH”.




Hoàng liên

Hoàng cầm

Tri mẫu

Sơn chi nhân

Hoạt thạch

Tê giác

Nhân sâm

Mạch môn

Phục thần

Cam thảo






Các vị trên + Gừng 3 lát, Táo 1 quả, nước 2 chén.



Truỳ pháp : gia Đăng tâm 1 nắm, sắc uống ấm.
XXXI
Ba mươi mốt, ÍCH NGUYÊN thang sử (340)

Chủ nguyên khí hư, hoả thượng thăng (341)

Chứng nên diện xích đới dương (342)

Thầy quê chẳng biết lẽ thường khôn xong.

Học cho biết lẽ biến thông,

Toàn vô thân nhiệt, đầu đông, tâm phiền (343)

Ráo khô, vật vã (344) chẳng yên,

Ẩm thuỷ bất đắc, hại nhân (345) dường này.

Thầy hén chẳng biết khôn hay,

Gọi là nhiệt chứng, dùng rầy hàn lương.

Lầm người oan thác khá thương,

Nào hay là chứng đới dương hư phiền (346)

Nhân sâm, Cam thảo, Hoàng liên,

Mạch môn, Tri mẫu, Thông căn (347) hợp rầy.

Thục Phụ nóng, Can khương cay,

Ngũ vị, Ngải diệp, cùng tầy bằng nhau.

Thuỷ tiên (348) Khương, Táo tra vào,

Truỳ pháp lại cầu Đồng tiện khá đương.


  1. ÍCH NGUYÊN Thang (349)

Chữa chứng Thương hàn tịnh không nhức đầu, ghê rét, nóng mình, tâm không buồn phiền, chỉ mặt đỏ, chân tay vật vã, khát nước mà không uống vào được. Thầy kém không hiểu, gọi là chứng nhiệt : dùng thuốc hàn lương, làm chết người rất nhiều ; không biết rằng đó là nguyên khí suy nhược, hư hoả bốc lên, gọi là chứng “ĐỚI DưƠNG”




Thục Phụ tử

Can khương

Cam thảo

Nhân sâm

Mạch môn

Ngũ vị tử

Hoàng liên

Tri mẫu

Ngải diệp

Thông căn






Các vị trên + Gừng 3 lát, Táo 1 quả, nước 2 chén, sắc lên.



Truỳ pháp : chế vào Tiểu tiện trẻ em 3 thìa, uống nguội 1 lần hết.
XXXII
Ba mươi hai, QUẾ CHI thang thuyết (350)

Chủ như cuồng, nhiệt kết Bàng Quang (351)

Tính thái bất dữ tương đương (352)

Táo khát, không sốt, phát cuồng chẳng yên.

Thầy hèn chẳng biết căn nguyên,

Liền cho thuốc hạ, sẩy nên lầm người.

Thấm nhiệt tự tiểu tiện lai (353)

Quế chi, Trạch tả, tìm đòi Trư linh.

Bạch truật, Cam thảo thuốc lành,

Lá Tía tô, hạt quả Dành toàn no.

Tri mẫu, Hoàng bá hợp cho,

Trước sau 9 vị, kể no cùng tầy.

Khương, Táo, hai chén nước đầy,

Sắc còn 1 chén, liền tay nhập truỳ.

Gia bột Hoạt thạch 2 thìa,

Sôi lại 3 dạo, tức thì uống ôn.


  1. QUẾ LINH ẨM (354)

Chữa chứng Thương hàn mói mắc, mình không nóng, nói cuồng, phiền táo không yên, tinh thần mõi mệt, không muốn tiếp xúc với người. Thầy kém không biết, cho là chứng phát cuồng, lầm dùng thuốc hạ, làm chết nhiều người ; không biết rằng chứng này do “nhiệt kết Bàng Quang” gọi là chứng “như cuồng.




Bạch truật

Trư linh

Trạch tả

Quế chi

Cam thảo

Tri mẫu

Hoàng bá

Sơn chi tử

Lá Tía tô

Các vị trên + Gừng 3 lát, nước 2 chén, sắc còn 1 chén.



Truỳ pháp : gia bột Hoạt thạch 1 đồng cân ; lại sắc sôi 3 dạo, cho uống ấm, thấy ra được ít mồ hôi thì khỏi.
XXXIII
Ba mươi ba, ĐưƠNG QUI HOẠT HUYẾT,

Trị “như tí”(355) không biết không thông.

Chẳng có ố hàn, đầu đông (356)

Thấy những mình nóng, trong lòng khát khao.

Tiểu tiện lợi đã ào ào,

Đại tiện hắc phẩn (357) đen sao sì sì.

Miệng nói chẳng nhớ lời chi,

Gọi rằng nhiệt chứng, dung y (358) dùng lầm.

Lấy những lương dược (359) mà làm,

Chứng lầm, thuốc lỡ, chẳng cam thửa lòng (360)

“Hiệp huyết” (361) chứng ấy khôn thông,

Tà truyền Tâm vị, trong lòng hôn mê.

Sinh địa cùng Đào nhân nê (362)

Quế tâm, Thược dược, Đương qui, Sài hồ.

Nhân sâm, Hồng hoa toàn no,

Can khương, Chỉ xác sao phu (363) khá làm.

Truỳ pháp Thuỷ nhị, Khương tam,

Sắc rồi, Trần tửu phục kham (364) 3 thìa.

Uống liền ba thiếp (365) sau khi,

Đào, Hồng, Khương, Quế bỏ đi cho rồi.

Phục linh, Bạch truật gia đài,

Lợi tiện táo kết (?) kíp vồi cho hay.


  1. ĐưƠNG QUI HOẠT HUYẾT Thang (366)

Chữa chứng Thương hàn không đau đầu, không ghê rét, chỉ thấy nóng mình, khát nước, và tiểu tiện lợi, đại tiện phân đen, miệng ngọng không nói được. Thầy kém không hiểu, cho là chứng nhiệt, dùng thuốc hàn lương, làm chết nhiều người. Không biết đó là tà nhiệt truyền vào 2 kinh TÂM, VỊ ; khiến người ta hôn mê trầm trọng ; gọi là chứng “hiệp huyết như tí (367).



Đương qui

Xích thược

Sinh địa hoàng

Hồng hoa

Đào nhân nê

Chỉ xác

Nhân sâm

Sài hồ

Quế tâm

Can khương






Các vị trên + Gừng 3 lát, nước 2 chén, sắc lên.



Truỳ pháp : cho vào Rượu cũ 3 thìa, hoà uống. Sau khí uống 3 thang, thì bỏ Đào nhân, Hồng hoa, Can khương, Quế tâm ; gia Bạch truật , Phục linh.
XXXIV
Ba mươi tư, ĐẠO ĐÀM GIA VỊ,

Chủ “hiệp đàm như tí” (368) chỉn luôn.

Đầu đông (369) trầm trọng mê hôn.

Thượng khí, suyễn tức bôn chôn (370) nhiều đường.

Tăng hàn tráng nhiệt (371) khôn đang,

Miệng nhiều bọt dãi, nhưng thường nhổ ra.

Thầy hèn khôn biết đấy là,

Rằng thương hàn chứng thuốc mà trị chi (372)

Chẳng hay tâm động, thần bì (373)

Thất tình, lục dục, (374) nó thì quấy ta.

Thần bất trú xá khỏi nhà (375)

Đàm mê tâm khiếu, tí tà (376) hiện nên.

Chứng ấy đàm loại thương hàn (377)

Đạo đàm gia vị, Nhị trần đặt danh (378)

Trần bì, Cam thảo, Phục linh,

Chỉ thực, Bán hạ, Nam tinh, Hoàng cầm.

Qua lâu, Cát cánh, Nhân sâm,

Hòang liên, Bạch truật, dùng làm cho nên.

Đong 2 chén nước đầy tràn,

Khương tam, Táo nhị, sắc lên thìa thìa (379)

Sắc còn một nửa làm kỳ, (380)

Khương trấp, Trúc lịch, pháp truỳ uống thôi.

Sức còn mạnh khoẻ hơn người,

Trước gây nôn đã, sau lui sẽ dùng.


  1. GIA VỊ ĐẠO ĐÀM Thang

Chữa chứng rét run, nóng dữ, nhức đầu, hon mê, lặng thỉu, khí nghịch, suyễn cấp, miengj chảy đờm dãi. Thầy kém không hiểu, cho là chứng thương hàn làm hịa nhiều người, không biết rằng bịnh do nội thương thất tình gây nên đàm mê tâm khiếu, thần bị khuấy động, không ở yên nơi nhà ở (thần bất trú xá), mà thoát ra ngoài ; thần đã thoát ra, thì nhà ở trống rỗng, mà đờm phát sinh, rồi làm bế tắc luôn. Đó gọi là chứng “hiệp đàm như tí. Phàm những chứng đờm giống như thương hàn, đều chữa tho phép này.




Phục linh

Trần bì

Bán hạ

Nam tinh

Cam thảo

Nhân sâm

Bạch truật

Chỉ thực

Cát cánh

Qua lâu nhân

Hoàng liên

Hoàng cầm

Các vị trên + Gừng 3 lát, Táo 2 quả, nước 2 chén, sắc lên



Truỳ pháp : sắc được rồi, chế Trúc lịch và Khương trấp vào, uống ấm. Người có sức khoẻ thì trước dùng thuốc gây nôn, sau mới dùng thang này.
XXXV
Ba mươi lăm, ĐIỀU TRUNG GIA GIẢM

Chủ “thực tích, loại cảm hàn thương (381)

Nhức đầu, sốt rét, nhiều đường,

Khí khẩu, khẩn thịnh (382) mạch cường khá suy.

Mình mẩy chẳng đau đớn gì,

Tý chứng thực tính, bảo thì cho hay.

Trong kinh còn có lời này :

“Âm thực tự bội, thương nay Vị Tỳ”(383)

Nhẹ nhẹ dùng tiêu hoá đi,

Nặng hơn, thỏ hạ, tức thì lại yên.

Thương truật, Bạch truật, Hoàng liên.

Thần khúc, Cam thảo, cùng Can khương rầy.

Sơn tra, Thảo quả, thơm cay.

Hậu phác, Chỉ thực, yêu thay Trần bì.

Sinh khương, Thanh huỷ sắc đi,

Mài nước Mộc hương, nhập truỳ pháp này.

Phúc trung thống mãn (384) đâu đầy,

Đào nhân chẳng đỡ, khá thay Đại hoàng.

Bỏ rẫy Tra, Khúc, Thảo, Khương,

Trung tâm ngột ngột (385) bằng dường chẳng yên.

Can hoắc loạn (386) những mửa khan,

Nước sôi chỉn thực thuốc tiên nên dùng.

Nấu sôi một bát nước trong,

Lấy muối hoà cùng Tạo mạt (387) 5 phân.

Uống rồi thổ đã bằng thần (388)

Thuốc hay chẳng tiếc nghìn cân bạc vàng.


  1. GIA VỊ ĐIỀU TRUNG ẨM

Chữa chứng thực tích giống như thương hàn, có nhức đầu, phát sốt, gai rét, và mạch khí khẩu khẩn thịnh ; chỉ không đau mình là khác với chứng thương hàn thôi. Nội-kinh nói : ẩm thực tự bội, tỳ vị nãi thương” nghĩa là ăn uống sai trái, Tỳ Vị sẽ bị tổn thương. Nhẹ thì dùng thuốc tiêu hoá, nặng thì dùng thuốc thổ hoặc hạ, đó là phép hay.




Thương truật

Bạch truật

Hậu phát

Trần bì

Cam thảo

Thảo quả

Sơn tra

Trần khúc

Chỉ thực

Hoàng liên

Can khương



Các vị trên + Gừng 3 lát, nước 2 chén, sắc lên



Truỳ pháp : mài nước Mộc hương hoà uống, khắc có hiệu.

  • Đau bụng : gia Đào nhân.- đau dữ, đại tiện rắn, thì bỏ Sơn tra, Thần khúc, Thảo quả, Can khương ; gia Đại hoàng để hạ đi.

  • Trong bụng nhộn nhạo muố thổ : dùng nước sôi 1 bát hoà vào 1 dúm muối và bột Tạo giác 5 phân cho uống, thì thổ ra ngay.


XXXVI
Ba mươi sáu : GIA GIẢM TỤC MỆNH,

Chủ cước khí tà thịnh dâng toan (389)

Lời rằng chứng loại thương hàn (390)

Nóng mình sốt rét, những van nhức đầu.

Khắp người chi tiết (391) thường đau,

Khuất nhược (392) chuyển động co vào chẳng hay.

Tiện bí, ẩu nghịch (393) thương thay,

Chân, gối đau nhức, chứng rầy khác nhau (394)

Cấm hết bổ tễ, chẳng cầu,

Hoặc lầm hoặc lỡ, trước sau mựa dùng.

Trước tìm Khương hoạt, Phòng phong,

Thương truật, Bạch tuât, Xuyên khung, Ma hoàng.

Quế chi, Phụ tử tương đương,

Thược dược, Cam thảo, miễn Phường (phòng)kỷ nay.

Mười một vị, thái cùng tầy,

Táo, Khương, 2 bát nước đầy khá nên.

Đăng tâm nhị thập hành tiên (395)

Truỳ nhập, Khương trấp, vậy bèn uống lui.

Dù thấy mạch sác thường lai.

Thương thử, trúng thử (396) thực nay chớ ngờ.

Vậy liền bỏ Phụ, Quế, Ma,

Tìm Sài, Cầm, Bá, lại gia thêm rầy.

Mạch trì, hàn trúng, lạnh thay (397)

Lại gia Phụ tử cho tầy phân sơ.

Trúng thấp mạch nhược mà hư,

Lại gia Ngưu tất, Mộc qua bấy chừ.

Trúng phong dù thấy mạch phù,

Lại gia Khương hoạt hay khu (398) phong tà.

Dù thấy nguyên khí cửu hư (399)

Nhân sâm chút ít lại gia thêm vào.

Đại tiện bí sáp buồn sao !

Gia Đại hoàng bột một liều lại thông.


  1. GIA GIẢM TỤC MỆNH Thang

Chữa chứng cước khí giống như thương hàn, đầu nhức, mình nóng, ớn rét, đại tiện bí kết, nôn xốc, khớp xương chân tay đau nhức, chân mềm yếu, không co lại và chuyển động được. Chứng này khác với chứng thương hàn, là chân tay và đầu gối đau nhức trước. Cấm không được dùng thuốc bổ và ngâm rửa.




Bạch truật

Thương truật

Thược dược

Ma hoàng

Phụ tử

Quế chi

Xuyên khung

Phong phong

Khương hoạt

Phòng kỷ

Cam thảo



Các vị trên + Gừng 3 lát, Táo 2 quả, Đăng tâm 20 đoạn, nước 2 chén, sắc lên.



Truỳ pháp : gia nước Gừng hoà uống.

  • Khi nắng trúng vào 3 kinh Dương, tất phát sốt, mạch sác :bỏ Phụ tử, Quế chi, Ma hoàng ; gia Hoàng bá, Hoàng cầm, Sài hồ.

  • Khí lạnh trúng vào 3 kinh Âm, tất mình lạnh, mạch trì : gia Phụ tử.

  • Bịnh phát do phong thì mạch phù : gia Khương hoạt

  • Nguyên khí hư : gia Nhân sâm chút ít.

  • Đại tiện bí : gia Đại hoàng, Chỉ thực.


XXXVII
Ba mươi bẩy : CẦM LIÊN TIÊU ĐỘC,

Chủ âm dương, khiên phục vãng lai (400)

Thiên thời hành bịnh vi tai (401),

Đầu cổ sưng nhức, nằm ngồi càng đau.

Nóng mình, gai rét, nhức đầu,

Mạch lai hồng sác, dầu dầu sốt thay.

Xá phân (?) trước vốn cho hay,

Xung hoà Khương hoạt tạm rầy phục sơ (402)

Chửa xưng (403) Tiêu độc lại gia,

Khương hoạt, Cam thảo, cùng là Phòng phong.

Liên kiều, Bạch chỉ, Xuyên khung,

Chỉ xác, Cát cánh, miễn cùng Xạ can.

Sài hồ, Hoàng cầm, Hoàng liên,

Thêm Kinh giới tuệ, cho nên đủ dùng.

Khương tam, Thanh thuỷ nhị chung (404)

Sắc còn 1 chén, gia cùng Thử niêm (405)

Sôi lên một chốc sẽ xem,

Khương trấp, Trúc lịch, lại thêm một truỳ.

Trước gia Đại hoàng lợi chi (406)

Nhất, nhị, tam thứ (407) thông đi cho rồi.

Theo bản phương, uống liền thôi,

Dù muốn điều lý, tìm đòi Sâm, Qui.

Kinh khuyên thượng đẳng các y (408)

Chữa chứng thiên thì (thời)soi lấy làm gương.


  1. CẦM LIÊN TIÊU ĐỘC ẨM

Chữa chứng thời khí “đại đầu ôn” (409) : phát sốt, gai rét, đầu cổ sưng đau, mạch hồng sác ; nên chữa theo chứng “đàm hoả, chứng “hầu tí” (410) cũng dùng bài này.




Hoàng cầm

Hoàng liên

Liên kiều

Kinh giới

Phòng phong

Khương hoạt

Bạch chỉ

Sài hồ

Xạ can

Cam thảo (các vị bằng nhau)

Các vị trên + Gừng 3 lát, nước 2 chén, sắc còn 1 chén, thêm vào Thử niêm tử 1 dúm, lại sắc sôi 1 dạo.



Truỳ pháp : hoà thêm Trúc lịch, Khương trấp mà uống.

Trước gia Đại hoàng cho đi đại tiện 2, 3 lần ; sau bỏ Đại hoàng, cứ theo phương này gia Nhân sâm, Đương qui để điều lý.


*

* *
Trước sau ba mươi bảy phương



Chứng nào thuốc ấy, học tương chép ra.

Học rồi biết nửa (?) thế là,

Muốn cho con trẻ, đàn bà cùng hay.

Đòi dùng thấy hiệu đang tay,

Xứng đáng bậc thay, chữa nước, chữa dân.

Màu thay thuốc thánh phương thần,

Hoà (?) chẳng biết đấy, có phân (phần) hổ lòng.

Chữa người rắp ý nói rông,

Đến khi chữa bịnh làm dùng chẳng hay.

Rụt rè chẳng dám ra tay,

Luống rằng phúc cả, cậy nay Bụt, Trời.

Muốn nên thầy thuốc chữa người.

Y chi tự mệnh (411) vậy người xá (?)lường.

Xem tam giáo (412) cũng một dường,

Nhân nghĩa thời tường, đạo đức thời sung (413)

Tiền tài ấy của lưu thông,

Dù ta có phúc của cùng về ta.

Buổi nay đời chẳng thực thà

Tham sân si bạo (414), hung tà gian ngoan.

Đến khi có bịnh gian nan,

Bấy giờ tham bạo, gian ngoan chước nào.

Vội vàng giẫy đắp gò cao (415)

Khấn trời, khấn đất, lễ (416) nào khôn hay.

Tốn tiền làm tiếu (417) làm chay,

Chẳng bằng chước thuốc gần rày lại hơn.

Khi ấy vàng bạc chẳng toan,

Đã dù một chén trăm quan cũng liều.

Mới hay là thuốc thì yêu,

Ba mươi bảy điều, vậy bèn chép ra.

Rằng kinh (?) truỳ pháp chẳng ngoa,

Lão Mai (418) tay cất bút hoa chép làm.

CHÚ THÍCH
(của THưƠNG HÀN TAM THẬP THẤT TRUỲ)
(1). Cách pháp : như nói qui tắc.

(2). Táp thất : ba mươi bảy. Chữ táp là 30, do 3 chữ thập ghép thành.

(3). Truỳ : cái dùi gõ trống. Ở đây, mỗi bài thuốc chữa thương hàn, đều có dùng cái phương pháp đánh thật mạnh vào căn bịnh ; ví như cái dùi gõ tiếng trống hùng mạnh để tiến quân diệt địch ; nên gọi “truỳ pháp”

Sát xa : không rõ nghĩa, nghi là nói cái phương pháp đánh bịnh mạnh, có thể trị khỏi bịnh được, cũng như cái dùi trống tiến quân hùng mạnh, có thể tiêu diệt xe địch được.

(4). Của yêu : như nói của quí.

(5). bất khát, tự lợi : miệng không khát nước, đại tiện tự lợi.

(6). Trực trúng : hàn tà không truyền qua 3 kinh Dương, mà trúng thẳng vào 3 kinh Âm, do đó nó chỉ xuất hiện những triệu chứng của 3 kinh Âm, mà không có triệu chứng 3 kinh Dương ; cũng gọi “trực trúng 3 âm”.

(7). Qúa kinh :

1- chỉ bịnh thương hàn, đã từ một kinh này truyền qua một kinh khác ; như chứng hậu Thái-dương đã qus kinh, xuất hiện chứng hậu của Thiếu-dương, tức là lúc ấy các chứng Thái-dương đã giải trừ rồi.

2- các chứng hậu kéo dài quá thời hạn truyền kinh như chứng hậu Thái-dương quá 7 ngày trở lên (bịnh thương hàn truyền kinh, lấy 7 ngày làm một giai đoạn) gọi là “quá kinh”. Đây dùng theo nghĩa thứ hai.

(8). Biểu chứng thương hàn : các chứng thương hàn còn ở phần biểu.

(9). Thiển thâm : nông sâu.

(10). Biểu lý, hãn hạ : bịnh ở phần biểu hay phần lý, thuốc dùng phép hãn hay phép hạ.




  1. Thăng dương phát biểu thang

(11). Xông sương đột giá : xông đột (xông pha) dưới làn sương giá.

(12). Việc vàn : việc kể hàng vạn, ý nói việc nhiều.

(13). Sở phương : sự tác hại do phong hàn gây nên (chữ sở là đại danh từ, chỉ sự gây hài của phong hàn.)

(14). Tham : tham khảo.

(15). Đẳng phần : tức đẳng phân, phân lạng bằng nhau (đặt âm “phần” cho có âm điệu bằng trắc)

(16). Khương tam, Táo nhị : Gừng 3 lát, Táo 2 quả.

(17). Truỳ pháp : xem chú thích (3) ở trên.

(18). Giao di : kẹo Mạch nha.

(19). Phục dã : uống rồi. Những chữ “phục”trong tập này, phần nhiều nghĩa là “uống” cả.

(20). Bản kinh : chỉ kinh Túc Thái-dương.


  1. Sơ tà thực biểu thang

(21). Gội sương chải gió : nói dầu dãi trong sương gió, như đầu bị gội sương, tóc bị chải gió vậy. Sách Nho có câu : “Trất phong mộc vũ”: chải gió gội mưa.

(22). Thiên ban : nghìn cách, nhiều cách.

(23). Rái gió, sởn, rùng : ghê gió, sởn gai, rùng mình.

(24). Lai : lại, đến, (chỉ mạch). Dưới đây, những chữ “lai” nói về ạch, như “mạch lai” đều nghĩa như thế.

(25). Thông bạch : Hành trắng.

(26). Ôn hoà phục chi : uống ấm ấm. Chữ “chi” là đại danh từ, dùng thay cho thang thuốc đã sắc rồi. Dưới đây, những chữ “phục chi” đều nghĩa như thế.

(27). Hãn bất chỉ : mồ hôi ra không ngừng.

(28). Mựa : chớ (tiếng cổ). Những từ “mựa” dưới đây, đều nghĩa như vậy.

(29). Phương này, theo Thọ thế bảo nguyên , trong có vị Bạch truật nữa.




  1. Khương hoạt xung hoà thang

(30). Mạo : nhiễm phải, cảm mạo.

(31). Đông thiên : trời Đông, tức mùa Đông.

(32). Thông nhị : Hành 2 củ.

(33). Nhập Sị : gia vào vị Đậu sị.

(34). Văn vũ hoả : lửa nhỏ (văn) và lửa to (vũ)

(35). Đồng tiên : cùng sắc, sắc chung.

(36). Ôn phục thủ hãn hữu thần : uống ấm cho ra được mồ hôi mới có hiệu quả.

(37). Đằm thân : mồ hôi ra đẵm mình, tiếp ý “thủ hãn” ở câu trên.

(38). Hèo : hiệu nghiệm, hay (từ “hèo” do từ Hán là “hiệu”đọc chuyển đi)

(39). Hung trung bão muộn : trong vùng ngực đầy tức, bức bối khó chịu.

(40). Bất hãn : không ra mồ hôi.

(41). Hãn hậu bất giải : sau khi đã cho ra mồ hôi mà bịnh không giải.

(42). Hãn hạ kiêm hành : kiêm dùng cả 2 phép phát mồ hôi và hạ đại tiện.

(43). Trừu tân : rút củi, lấy ý ở câu sách nho “Dương thang chỉ phí, bất như phủ để trừu tân. Nghĩa là giệu nồi nước sôi cho không sôi lên nữa, không bằng rút củi đốt ở đáy nồi ; ý nói muốn cho nồi nước không sôi nữa, phải rút củi đốt dưới nồi đi, dùng một giải pháp căn bản mới được. Đây dùng chỉ phương pháp tiết xuống ở phía dưới, như dùng Đại hoàng, để rút chứng nóng bốc lên trên, đó là phương pháp chữa gốc.

(44). Thiên vàn : tức thiên vạn, là nghìn vạn, đặt âm “vàn” cho có vần.

(45). Phi thời thương hàn : thương hàn trái mùa.

(46). Hư hàn bất chỉ : mồ hôi hư tổn (mồ hôi thuộc chứng hư) ra mãi không thôi.

(47). Tiểu biền : tức tiểu tiện. Chữ “tiện” có 2 âm : tiện và biền, nghĩa cũng như nhau.

(48). Phục thang bất hãn : uống thuốc rồi mà không ra mồ hôi.

(49). Tác hãn : ra mồ hôi.

(50). KHưƠNG HOẠT XUNG HÒA THANG : cũng gọi “Cửu Vị, Khương hoạt thang ”. Bài này do Trương-Nguyên-Tổ đời Kim sáng tác ra, ông nói : “Có mồ hôi, không được dùng Ma hoàng thang ; không mồ hôi, không được dùng Quế chi thang. Dùng Ma hoàng và Quế chi, nếu không khỏi, sẽ sinh biến chứng không thể nói được.”; cho nên lập ra phương này, để không phạm đến cấm kỵ về chứng TAM DưƠNG ; là một phương giải biểu thần diệu.

(51). Ba mùa : tức mùa Xuân, Hạ, Thu. Đây nói chứng cảm hàn khí đột ngột của 3 mùa Xuân, Hạ, Thu, chứ không phải chứng chính Thương hàn mùa Đông.

(52). Bài này, đây dùng các vị đều bằng nhau, nhưng theo Thọ Tế Bảo Nguyên và Y Học Nhập Môn, thì lượng Cam thảo và Tế tân chỉ bằng 1/3 hay 1/5 các vị khác.

(53). Đây nói bài này chữa 3 mùa cãm hàn khí đột ngột, và 3 chứng Ôn, Nhiệt, Thấp ; nhưng theo Tương-Nguyên-Tố, thỉ 4 mùa đều dùng được, Đông chữa hàn, Xuân chữa ôn, Hạ chữa nhiệt, Thu chữa thấp.

(54). Phủ để trừu tân : xem chú thích (43) trên.




  1. Lục Thần Thông Giải thang

(55). Vãn phát : phát ra muộn. Bịnh chứng Thái-dương phát vào thời kỳ từ tiết Thanh minh đến tiết Hạ chí ; gọi là vãn phát. Nhất thuyết vãn phát là bịnh chứng Thái dương phát vào mùa Thu.

(56). Mạch lai : mạch đến. Xem chú thích (24) trên.

(57). Xung hòa : tức thang KHưƠNG HOẠT XUNG HÒA trên.



Phục sơ : uống nước, nói trước đã uống thang Xung hòa rồi.

(58). Xưng : khỏi (tiếng cổ). Những từ “xưng” dưới đây đều nghĩa như thế.

(59). Miển : như nói với, và (tiếng cổ). Những từ “miển” như “miển cùng” dưới đây đều nghĩa như thế.

(60). Khương, thủy : Gừng và nước.



Bán phần : nửa phần, nói sắc còn nửa phần nước.

(61). Thông, Sị : tức Thông bạch (củ Hành) và Đậu sị.

(62). Nhiệt phục thủ hãn : uống nóng cho ra mồ hôi (thủ hãn là cho ra mồ hôi ; còn uống ấm thì gọi là “ôn phục”, mà uống nóng thì gọi là “nhiệt phục”).

(63). Trúng bịnh tức chỉ : trúng bịnh thì thôi.

(64). Lục thần thông giải thang : bài này, nguyên của Trương-Cổ (Trương thị Y Thông). Chữa bịnh thời khí, dịch lệ mới phát, nóng sốt, phiền táo, không có mồ hôi. Trong bài không có Tế tân nhưng cũng không có Hoàng kỳ ; nghĩ ở đây chép thừa vị Hoàng kỳ.


  1. Sài cát giải cơ thang

(65). Vi hồng : mạch hơi hồng.

(66). Sắc ngao : như nói sắc nấu (ngao là cô lại, đây dùng như nghĩa sắc , nấu)

(67). Bản kinh : chỉ kinh Túc Dương-minh.

(68). Thiểu thiểu gia chi : gia vào chút ít (chữ chi là đại danh từ, đặt thay cho vị Ma hoàng). Đây nói nếu có chứng ghê rét nhiều, thì bỏ Hoàng cầm, gia Ma hoàng ; nhưng mùa Đông dùng nhiều, mà mùa Xuân thì dùng ít, liều lượng khác nhau.

(69). Tịnh khử bất nghi : bất nghi là không nên, ý nói đều bỏ Ma hoàng hông nên dùng.

(70). Như thần Bạch hổ : tức NHư THẦN BẠCH HỔ Thang (bài thứ 12) dưới đây.

(71). Sài cát giải cơ thang : bài này, nguyên của Đào-Hoa (Tiết am) chế ra, dùng thay CÁT CĂNG THANG (Trọng-Cảnh). Trong có Thược dược ; các sách Thọ Thế Bảo nguyên, Y học nhập môn, Y phương tập giải , đều chép như thế, nghĩ đây chép thiếu.




  1. Sài hồ song giải ẩm

(72). Lềnh lềnh vang tai : ý nói tai điếc không nghe thấy gì.

(73). Giai tô : đều tỉnh dậy, đều khỏi.

(74). Kíp vồi : tức kíp vội (âm trắc đọc chuyển âm bằng cho hợp vận).

(75). Thuyên : bịnh khỏi.

(76). Ngược : chứng sốt rét có định kỳ. Đây nói bịnh kinh Thiếu-dương có sốt và rét, giống như chứng ngược.

(77). Kim phi thảo : tức Tuyền phúc hoa, hoa giống hoa cúc.

(78). Chưa trừ : chưa giải được, nói đã uống thang SÀI HỒ SONG GIẢI ẨM mà chứng dưới tâm đầy tức vẫn xuất hiện.

(79). Nương long : vùng ngực.

(80). Kết hung : tức chứng nhiệt tà với thủy ẩm kết tụ ở vùng ngực. Đây nói chứng đưới tâm đầy tức là biểu tà còn ở vùng ngực, chứ không phải chứng kết hung.

(81). Chỉ thực cám rang : Chỉ thực sao với cám.

(82). Tiểu hãm hung : một thang chữa chứng kết hung ở Thương-hàn luận của Trương-Trọng-Cảnh.

(83). Phiền hư : tức hư phiền (đặt đảo lên cho có vần). Xem chú thích (103) ở “bài Phú Dược tính chỉ nam trực giải”.

(84). Bản kinh : chỉ kinh Túc Thiếu-dương.

(85). Huyết thất :

1- chỉ bào cung.

2- chỉ Xung mạch. Vì Xung mạch khởi ở Bào cung, chủ huyết hải (bể huyết) ; và Xung mạch thịnh vượng, thì bào cung có kinh nguyệt ; như thế bào cung với Xung mạch có sự tương quan mật thiết, nên “huyết thất” là chỉ cả Bào cung và Xung mạch. Còn huyết thất ở đây, riêng chỉ về Xung mạch, Xung mạch bì tà nhiệt xâm nhập, gây thành chứng trạng ngày yên tĩnh, đêm phát sốt. nói nhảm, như thấy ma quỉ ; gọi là chứng “nhiệt nhập huyết thất” và nam nữ đều có chứng này. Xem thêm chú thích (152) ở “Bài phú Dược tính chỉ nam trực giải.”


  1. Quế chi Đại hoàng thang

(86). Truyền chi : truyền đến.



Tỳ gia : nhà Tỳ, tức tạng Tỳ, kinh Tỳ.

(87). Phúc trung thống mãn : trong bụng đau mà đầy.

(88). Tức hạ Vị phủ : liều dùng thuốc hạ qua đường Vị phủ (hạ bịnh Tỳ qua Vị).

(89). Gia chi : thêm vào đấy (chữ chi đặt thay cho các vị thuốc trên).

(90). Thủy tiên : dùng nước sắc lên.

(91). Thủy ma Tân lang : vị Tân lang mài với nước.




  1. Gia vị Lý trung ẩm

(92). Tự lợi bất lợi : đại tiện tự lợi hoặc không thông.

(93). Hữu khát, vô khát : có khát nước hoặc không khát.

(94). Thìa thìa : không rõ nghĩa , nghi là một từ tả trạng thái khi nước thuốc sôi lên. Dưới đây có câu : “Khương, Táo, Thanh thủy, thìa thìa sắc sôi” (bải 16 : Đào nhân thừa khí ẩm tử), lại có câu : “Khương tam, Táo nhị, sắc lên thìa thìa” (bài 34 Gia vị đạo đàm thang).

(95). Thiểu hòa : hòa thêm vào một ít.

(96). Quyền ngọa : nằm co.

(97). Lợi trọng bất chỉ : đại tiện tự lợi nặng tới mức không ngừng.

(98). Lợi hậu : sau khi đại tiện tự lợi.

(99). Tự lợi phúc thống : đại tiện tự lợi mà có đau bụng.

Làm nau : làm rầy rà, khốn khó. (Cung oán ngâm khúc : có câu : “Tử, sinh, kinh cụ làm nau mấy lần”).

(100). Đoạn này từ câu “Quyết-âm, hiệp hư chẳng thôngtrở xuống cuối, nói bịnh kinh Quyết-âm (khí nghịch, đói chẳng muốn ăn, nôn ra giun, đều là chứng hậu của Quyết-âm) cũng dùng được bài Gia vị Lý trung ẩm. Nếu đại tiện táo, thì gia Đại hoàng và ít Mật.

(101). Thổ hồi : nôn ra giun đũa.

(102). Gia vị Lý trung ẩm : bài này, nguyên là bài Lý trung thang của Đào-Tiết-Am, trong vẫn có vị Bạch linh, còn ở Thọ thế bảo nguyên thì chép là Gia vị Lý trung thang, và không có Bạch linh.




  1. Nhân trần tướng quân thang

(103). Thực kiên : táo bón.

(104). Đầu hãn đáo cảnh nhi hoàn : mồ hôi chỉ ra ở đầu xuống cổ thôi (nhi hoàn : là trở về, tức cổ trở lên).

(105). Khát phiền : khát nước và buồn phiền.

(106). Thanh lợi : tiểu tiện trong và thông lợi.

(107). Tự điều : tự điều hòa.

(108). Nhân trần tướng quân thang : bài này, Thọ-Thế có thêm vị Hoạt thạch.


  1. Đạo xích ẩm

(109). Dĩ lợi vi tiện : lấy việc lợi tiểu tiện làm đầu.

(110). Dương minh hãn đa : chứng Dương-minh ra nhiều mồ hôi.

(111). Dĩ lợi vi giới : lấy việc lợi tiểu tiện làm răn sợ.

(112). Nhập diêm nhị tự : cho vào muối ăn bằng nửa đồng tiền xúc. Tự là chữ đúc trên đồng tiền thời xưa ; những đồng tiền tiêu dùng, trên mặt có đúc 4 chữ theo niên hiệu từng triều đại (như “Cảnh-Hưng thông bảo”, “Kiền Long thông bảo”…), và các nhà thuốc thường dùng nó làm liều lượng xúc thuốc bột. Nay lấy xúc muối trong hạn độ 2 chữ, tức là nửa đồng tiền vậy.

(113). Thủy khí kết hung : cũng gọi “thủy kết hung”, tức chứng nhiệt tà với thủy ẩm kết tụ ở vùng ngực.

(114). Dương thoát : chỉ chứng tiểu tiện không lợi mà mồ hôi ra ở đầu.

(115). Bấy nhiêu chứng ấy : chỉ những chứng mách (nói) nhảm, phiền táo không yên, thấy người chẳng muốn nhìn nói trên ; và chủ yếu là khi khỏi bịnh không có sốt nóng.



Chú ý: những chứng này, đây chữa bằng bài Đạo xích ẩm nhưng cũng những chứng này, mà do “nhiệt kết Bàng quang”, thì chữa bằng bài Quế linh ẩm (xem bài 32 ở dưới) ; 2 bài có khác nhau vài ba vị.


  1. Lục nhất thuận khí thang

(116). Kết thực, khẩu táo, yên can : đại tiện kết rắn, miệng khô, họng ráo.

(117). Vọng ngôn : nói càn.

(118). Dương quyết, triều nhiệt, ban hoàng : dương quyết tức nhiệt quyết, do âm khí suy ở dưới gây nên chứng, chân tay quyết nghịch, mình nóng, mặt đỏ, đại tiện táo kết ; triều nhiệt : là phát sốt có cơn ; ban hoàng là da vàng mà phát ban.

(119). Tự hãn, phúc trướng : tự ra mồ hôi và bụng trướng.

(120). Bĩ mãn nhiễu tề : đầy tức quanh vùng rốn.

(121). Sơ tiên : đun sôi lần đầu tiên (khi chưa cho thuốc vào, mới có nước lã thôi)

(122). Táo thực : táo bón.

(123). Chính Dương vị phủ : Dương tức Dương-minh, nói bịnh thuộc Chính Dương-minh Vị phủ.

(124). Thiếu-âm : chỉ Thiếu-âm TÂM. Tâm hạ ngạnh đông : dưới tâm rắn đau.

(125). Kết thực : đại tiện bế rắn. – Nhiễu tể ngạnh thống : quanh rốn rắn đau.

(126). Quyết-âm : chỉ Quyết-âm CAN.

(127). Xung : xem chú thích (58) ở trên.

(128). Nhiệt lâm : không rõ nghĩa, nghi nói bịnh nhiệt phát sinh.



Mục bất liễu minh : mắt trông không rõ ràng.

(129). Thần vong thủy kiệt : nghi là chữ “thần thủy khô kiệt” chép lầm, vì ở phần sau bài thuốc nói về chứng trạng “mục bất minh” (mắt không sáng), có giải là “thần thủy di kiệt” (thần thủy đã khô kiệt). Thần thủy tức cái chất nước trong sáng trong con mắt, nay bị khô kiệt, nên mắt mờ, không không rõ nữa.

(130). Canh y : di đại tiện. canh y nguyên nghĩa là thay áo, người xưa, mỗi khi đi đại tiện, thường thay áo, nhân đó gọi đi đại tiện là “canh y”.

(131). Uống sau : do chữ “hậu phục”, chỉ nước thuốc uống lần sau ; đây nói nếu uống nước thuốc trước, mà đi được đại tiện rồi, thì nước thuốc sau thời không uống nữa.

(132). Khả dụng : nên dùng (đây tác giả muốn dùng nguyên từ chữ Hán, để nhấn mạnh việc sử dụng phương thuốc này có một ý nghĩa tất yếu).

(133). Lục nhất thuận khí thang : bài này, nguyên của Đào-tiết-Am, tức Đại thừa khí thang gia Sài hồ, Hoàng cầm,Cam thảo, không có Thược dược ; nhưng các sách Cổ kim y giám, Thọ thế bảo nguyên, đều thêm Thược dược, nên ở đây cũng theo như thế. Theo Đào-Tiết-Am, một bài này có thể dùng thay cho cả 6 bài : Đại thừa khí, Tiểu thừa khí, Điều vị thừa khí, Tam nhất thừa khí, Đại sài hồ, Đại hãn trung, nên gọi là “LỤC NHẤT” (6 bài hợp làm 1)

(134). Lời răn : chỉ lời dặn phân biệt thực hư, “hư bổ, thực công” ở cuối bài ca.


  1. Như thần Bạch hổ thang

(135). Hãn đa bất giải : mồ hôi ra nhiều mà bịnh không giải.

(136). Trúc : tức Đạm trúc diệp.

(137). Một đoan : một nắm.

(138). ố hàn : ớn lạnh, sợ rét.

(139). Mô phần : phần nào ; nói không khát nước một chút nào.

(140). Như thần Bạch hổ thang :phương này cũng của Đào-tiết-Am, tức Bạch hổ thang hợp Sinh mạch tán, bỏ Canh mễ, gia Sơn chi nhân.


  1. Tam hoàng Thạch cao thang

(141). Phương giải : tức Phương giải thạch, một thứ đá khoáng, hình giống Thạch cao, nhưng là 2 loài khác nhau. ở đây tác giả theo các thầy thuốc Đường, Tống, cho Phương giải với Thạch cao là một loài, nên dùng đặt thang cho Thạch cao ; không đúng (xem chú thích ở Bài phú thuốc nam).

(142). Dương độc : một chứng do nhiệt độc gây nên, mình nóng, phiền táo, khát nước, nói cuồng, chạy rông, mình phát ban đỏ, biểu lý đều nóng, mạch hồng đại.

(143). Khôn hàn : khó chữa.

(144). Xí hoàng, diện xích, tỵ can : răng vàng, mặt đỏ, mũi khô.

(145). Biểu lý kết nhiệt : cả biểu và lý đều bị kết nhiệt.

(146). Tần sác : đại tiện đi luôn.

(147). Dừng : giải trừ.

(148). Do biểu vị giải : do bịnh ở phần biểu chưa giải được.

(149). Ngoại công : như nói ngoại trị, tức phát biểu.

(150). Trị chi : chữa được (chữ chi là đại danh từ, đặt thay cho các chứng bịnh nói trên).

(151). Hương sị : tức Đậu sị (vị nó thơm, nên gọi là hương).

(152). Tễ trà : thứ trà nhỏ cánh.

14. Tam hoàng cự thắng thang
(153). Vọng ngôn, mục xích : nói càn, mắt đỏ.

(154). Lục chí : một hơi thở, mạch sáu lần đến, tức mạch nhanh.

(155). Thượng khí suyễn cấp : khí đưa ngược, suyễn thở gấp.

(156). Chữa tòng : chữ tòng không rõ nghĩa, nghi nói theo chứng mà chữa.

(157). Quyền : quyền biến, quyền nghi (chữ quyền trong câu “quyền lập phương này” ở dưới cũng nghĩa nầy)

(158). Thạch cao thang : tức Tam hoàng Thạch cao thang.

(159). Ma, Sị, Hoàng, Mang : tức Ma hoàng, Đậu sị (2 vị bỏ), và Đại hoàng, Mang tiêu (2 vị gia)

(160). Thanh tương nê : nước bùn trong.

(161). Hiệu công : tức công hiệu (đặt đảo âm)


  1. Xung hòa linh bảo ẩm

(162). Lưỡng cảm : có 2 nghĩa :

1- hai kinh âm dương biểu lý đồng thời bị bịnh, gọi chứng thương hàn lưỡng cảm, như đã có biểu chứng Thái-dương phát sốt, đau đầu, lại có lý chứng Thiếu-âm : tinh thần mỏi mệt, chân tay lạnh mạch vi.

2- trùng cảm thụ về bịnh tà cũng gọi trùng cảm. Như trong tạng phủ vốn có nhiệt tà tích kết, ngoài lại cảm thêm phong hàn, đồng thời xuất hiện cả 2 chứng biểu lý.

(163). Đầu đông : đầu nhức.

(164). ố hàn phát nhiệt : ớn rét phát sốt.

(165). Khẩu táo, thiệt can : miệng ráo, lưỡi khô.

(166). Đầu chi : cho uống thang thuốc ấy (đầu là cho uống, chi chỉ thang Xung hòa linh bảo)

(167). Nhị mại : 2 quả.

(168). Vi hãn : mồ hôi ra râm rấp.

(169). Hàn thương : tức thương hàn (đảo vần). ý nói biểu chứng nhiều do cảm nặng về hàn tà.

(170). Lý chứng đa : lý chứng nhiều hơn.

(171). Khả hành : khá làm, khá dùng.

(172). Trầm hôn, quyền ngọa : mê lịm, nằm co.

(173). Cấp sơ cứu lý : trước phải cấp cữu chứng lý.

(174). Hồi dương : tức Hồi dương cứu cấp thang.(bài 20 ở dưới)

(175). Xung hòa linh bảo ẩm : bài này, ở Thọ-Thế, không có Can khương, mà có Cát căn.


  1. Đào nhân thừa khí ẩm tử

(176). Sở thương : xem chú thích (13) ở trên.

(177). Nhiệt kết Bàng quang : Bàng quang ở vị trí hạ tiêu, và là phủ của kinh Túc Thái-dương. Nếu bịnh Thái-dương thương hàn không giải, hóa nhiệt truyền vào lý, kết ở Bàng quang, gây nên các chứng bụng dưới rắn đầy, đau gò, phát sốt mà không ớn rét, thần khí như cuồng. Gọi là nhiệt kết Bàng quang.

(178). Phân hắc : phân đen.

(179). Tiểu phúc : bụng dưới.

(180). Cuồng ngôn khát phiền : nói càn và khát nước, buồn phiền.

(181). Hắc vật : vật đen, tức phân đen.

(182). Vi phục chi tiên : trước khi chưa uống thuốc.

(183). Nhi huyết tự hạ : mà huyết tự tiết xuống. Câu này tiếp ý câu trên, nói nếu chưa uống thuốc mà huyết đã tự ra trước, là bịnh sắp khỏi (2 câu này là một nghĩa, nên giữa có chữ chi)

(184). Tiêu mang : tức Mang tiêu. Đặt đảo lên cho hiệp vần.

(185). Thìa thìa : xem chú thích (94) ở trên.

(186). Xúc huyết : chứng huyết ứ ở hạ tiêu. Nhiệt tà từ kinh Thái-dương truyền vào Bàng-quang, và tác động đến huyết phận ở hạ tiêu. Nếu nhiệt bức huyết tiết xuống thì nhiệt theo huyết ra mà bịnh khỏi. Nếu nhiệt quyến với huyết, tích kết ở hạ tiêu, gây nên chứng bụng dưới cấp trướng, đại tiện phân đen… gọi là xúc huyết.




  1. Tiêu ban thanh đại ẩm

(187). Nội ngoại thực hư : tức nói nội thực ngoại hư.

(188). Bất trừ : không giải trừ được.

(189). Thừa ư biểu bì : lấn ra bì phu ở phần biểu. Ý nói nhiệt độc ở phần lý lấn ra bì phu ở phần biểu mà phát thành ban đỏ (chữ ư chỉ cái hướng lấn tới của nhiệt độc).

(190). Gấm văn : tức văn gấm.

(191). Hãn : phát hãn (nói các chứng trên, đều không nên phát hãn cả).

(192). Quả Dành núi : tức Sơn chi tử.

Sừng Tây : sừng Tê giác (đặt chữ Tây cho hiệp vần)

(193). Bột Chàm : tức Thanh đại.

(194). Khổ tửu : Dấm.
18. Sinh địa cầm liên thang
(195). Chư huyết : mọi chứng huyết.

Nục tỵ thành lưu : mũi chảy máu ròng ròng (nục tỵ tức tỵ nục ; đặt đảo lên cho có vần)

(196). Nhiệt độc nhập vị : nhiệt độc vào Vị phủ. Đây nói nhiệt độc nhập Vị, gây nên chứng thổ huyết không ngừng. Cũng chữa như chứng chảy máu mũi ròng ròng (tỵ nục thành lưu)

(197). Khung xuyên : tức Xuyên khung (đặt đảo lên cho có vần)

(198). Quả Dành dành : tức Sơn chi tử.

(199). Hoàng cầm khử hủ : vị Hoàng cầm bỏ chất mục ở trong.

(200). Mạt sừng muông Tây : bột sừng Tê giác (chữ đặt là Tây cho có vần)

(201). Mao căn trấp : nước nguyên chất của rễ cỏ Tranh.

(202). Mực nho : thứ mực mà các nhà nho thời xưa thường dùng, cũng gọi mực Tàu.

(203). Mao : tức Mao căn.

Ngâu : tức Liên ngâu là Ngó sen. Đây nói không có Mao căn thì dùng Liên ngâu cũng được.

(204). Bịnh tô : bịnh khỏi. Xem chú thích 73 ở trên.

(205). Thất thần : mất tinh thần.

Toát không : bắt khoảng không (bắt tay ở khoảng trống không), bắt chuồn chuồn.

(206). Han hỏi chẳng thông : hỏi han không biết gì, hôn mê bất tỉnh nhân sự.




  1. Gia vị Tê giác địa hoàng thang

(207). Táo phiền : tức phiền táo.



Thấu thủy bất an : xúc miệng mà không nuốt nước xuống.

(208). Trần bì khử bạch : vị Trần bì bỏ màng trắng bên trong ; dùng để hạ khí (để màng trắng thì hòa Vị điều trung). Bỏ màng trắng thì hạ khí tiêu đờm.

(209). Ngẩu tiết : đốt ngó sen.

(210). Ôn noãn phục chi : uống ấm (chữ chi đặt thay cho thang thuốc). Xem chú thích 26 ở trên.




  1. Hồi dương cứu cấp thang

(211). Những nhưng : như nói rửng rưng, không cảm thấy gì cả.

(212). Mửa tháo : tức thổ và tả.

(213). Đàm diên : đờm rãi.

(214). Vô mạch : mạch trầm hẳn đi, không chẩn thấy.

(215). Dầm dầm : nghi nói sắc kỷ lưởng.

(216). Gia bịnh : thêm bịnh khác.

(217). Sao diêm : sao muối.

(218). Trư đảm : nước mật lợn.


  1. Hồi dương phản bản thang

(219). Âm thịnh cách dương : trong người âm khí quá thịnh, làm dương khí ngăn cách ở bên ngoài, gây nên chứng trong chân hàn mà ngoài giả nhiệt ; hoặc gọi tắt là cách dương.

(220). Âm cực phát táo : âm khí thịnh cực, phát sinh chứng buồn phiền, vật vã.

Phát táo : đây, thuộc chứng hàn, gọi là âm táo, khác với dương táo, thuộc chứng nhiệt.

(221). Nhân Trai : tên hiệu của Dưỡng-Sĩ-Doanh, một danh y đời Tống, có các sách Nhân trai trực chỉ, Y học chân kinh.

(222). Khát bất dục ẩm : miệng khát mà không muốn uống nước.

(223). Lạp trà : chè lâu năm.

(224). Thủ hãn : xem chú thích (62) ở trên. Đây nói đắp ấm cho ra mồ hôi.

(225). Diện sắc đới dương : dương khí phù việt (sắc mặt bốc đỏ, xuất hiện chứng dưới chân hàn trên giả nhiệt)

(226). Thông bạch : Hành trắng.

Hành : nhánh củ.

(227). Nê tương : nước bùn lắng trong.




  1. Sài hồ bách hợp thang

(228). Sái hậu : sái là mới khỏi, sái hậu chỉ bịnh thương hàn, sau khi mới khỏi.

(229). Trà tạp : không rõ nghĩa.

Trầm hôn : mê lịm.

(230). Thất thần : xem chú thích (205) ở trên.

(231). Bách hợp : một loại bịnh do Tâm Phế âm hư, thường hiện ra các chứng trầm lặng, ít nói, muốn ngủ không ngủ được, muốn đi không đi được, muốn ăn không ăn được, như rét mà không phải rét, như nóng mà không phải nóng, thần chí không yên, lẩm bẩm nói một mình, miệng đắng, tiểu tiện đỏ, mạch sác. (theo Kim quĩ yếu lược của Trương-trọng-Cảnh).

Lao phục : sau khi bịnh thương hàn mới khỏi, khí huyết chưa bình phục, hoặc dư nhiệt chưa hết ; nhân sớm lao động mà tái phát, gọi là lao phục (hoặc giải chữ lao đây, chỉ chung cả phòng sự, ăn uống, thất tình, không riêng về lao động).

(232). Thồ chích Miết giáp : thồ là Dấm thanh ; nói dùng vị Miết giáp (mai Ba ba) tẩm dấm rồi nướng lên.

(233). Kíp vồi : xem chú thích (74) ở trên.

(234). Vi hãn, đầu thống : mồ hôi ra chút ít và nhức đầu.

(235). Khương sao, Bán hạ : Bán hạ sao Gừng.

(236). Hư phiền : xem chú thích (103) ở “bài phú Dược tính chỉ nam trực giải”.

(237). Vinh hư : vinh khí bị hư tổn.

(238). Hư hãn : mồ hôi chứng hư.

(239). Gia chi : gia vào vị thuốc ấy.

(240). Ổi sinh khương : Gừng tươi lùi chín.

(241). Thời nhiệt : thỉnh thoảng lại phát sốt.

(242). Bịnh mới khỏi : do chữ “sái hậu” (bịnh thương hàn mới khỏi), nguyên bản chép lầm là “sản hậu : sau đẻ”, không đúng nghĩa chỗ này, nên chúng tôi sửa lại.




  1. Như thánh ẩm

(243). Cương nhu cảnh : tức Cương nhu xị, xem chú thích (147) tập Y luận trên (Tăng bổ tập Vạn kim nhất thống thuật).Cảnh hay nguyên là một bịnh, chỉ khác tên gọi, sách xưa (Nội-kinh) hay dùng từ , đời sau mới dùng từ cảnh.

(244). Càng khôn : càng hay.

(245). Khế túng : khế (cũng đọc âm xiết) là chứng gân mạch rút mà co lại, túng là chứng gân mạch giãn mà duỗi ra. Đây nói phép chữa chứng cương nhu cảnh cũng như chữa chứng khế túng.

(246). Nhục ô mai : như nói ô mai nhục, chất thịt vị Ô mai (vị này bỏ hột, chỉ dùng thịt)

(247). Khương chế Bán hạ : Bán hạ chế với nước Gừng.

(248). Khương, Thủy : Gừng và nước sắc thuốc.

(249). Mựa : xem chú thích (28) ở trên.

(250). Dưỡng chính : không rõ nghĩa, nghi là 2 chữ Thương truật chép lầm. Vì theo phép gia giảm nói ở dưới phương thuốc, thì chứng cương cảnh gia Thương truật, Ma hoàng, nên câu ca đặt là “Thương truật, Ma hoàng hợp cùng

(251). Bài này, nguyên của Trương-Lộ, chép ở Trương thị Y thông, trong có Ô dược, không có Ô mai. Thọ thế bảo nguyên cũng chép như thế.




  1. Ô kinh ích nguyên tán

(252). Hậu hãn : tức hãn hậu, sau khi phát mồ hôi (chữ hãn đặt xuống dưới cho có vần với chữ tán câu trên)

(253). Hãn hậu : sau phát hãn. Đây nói do phát hãn quá nhiều, gây nên chứng vệ hư, vong dương.

(254). Thục phụ : vị Phụ tử đã chế biến rồi.

(256). Bào muộn : bụng trướng đầy và buồn bực.

(257). Sao Chỉ xác : tức Chỉ xác sao.

(258). Lề : tức lệ, là thể lệ.

(259). Trần thổ : tức Trần bích thổ, là đất vách cũ.

(260). Nhơn nhơn : dờn dờn, như nói gai gai (gai rét).

Ghê : ghê rét.

(261). Bạc quế : Quế chi mỏng vỏ.



Giao di : kẹo Mạch nha.

(262). Bài này của Đào-Tiết-Am chế ra, tức THẬP TOÀN ĐẠI BỔ bỏ Xuyên khung, gia Trần bì, Phụ tử (ở Thọ thế bảo nguyên thì không có Bạch linh, Trần bì, mà có Can khương).



25. Tiêu dao thang
(263). Phục : uống.

(264). Thần xá : nhà ở của tinh thần, chỉ Tâm. Nội-kinh nói : Tâm tàng thần.

(265). Phong hỏa : bão và lửa, dùng chỉ sự việc cấp bách.

(266). Lao phục : do phòng lao mà bịnh tái phát (xem thêm chú thích 267 ở trên.

(267). Âm dương dịch : 2 chứng phạm phòng loại Âm và loại Dương. Chồng mắc bịnh mới khỏi, vợ đến giao hợp, mà vợ bị, gọi là chứng Dương dịch. Vợ mắc bịnh mới khỏi, chồng đến giao hợp, mà chồng bị, gọi là chứng Âm dịch. Còn chính bản thân, người mới khỏi bịnh do giai hợp mà tái phát, thì gọi lao phục.

(268). Trượng phu : người đàn ông, nam giới.



Ghìn : cẩn thận (từ Hán là cẩn, từ Việt là ghìn, giữ ghìn). Ý nói người đàn ông phải cẩn thận về việc giao hợp.

(269). Gươm hồng phấn : lưỡi gươm của nữ sắc, ý nói do nữ sắc mà bị giết hại.

(270). Thiên câm (kim) : nghìn vàng, nói giá trị quí báu của phương thuốc.

(271). Côn đương : đũng quần, dùng đốt thành than hòa với thuốc mà uống. (bịnh nam dùng đũng quần nữ ; bịnh nữ dùng đũng quần nam).

(272). Vi hãn : ra mồ hôi râm rấp.

(273). Nang súc âm thũng : bìu dái co lại, và đầu ngọc hành sưng lên.

(274). Hồng nhan : mặt đỏ, chỉ người trẻ tuổi sắc mặc hông hào.

(275). Phòng thất : buồng the, thường dùng chỉ sự vợ chồng giao hợp.



Mưa loàn phải thương : loàn tức loạn ; nói chớ có dâm loạn sẽ bị thương tổn.

(276). Bài này nguyên của Trương-Lộ (Trương thị Y thông), trong có Trúc thanh, Hoạt thạch ; ở đây theo các dược phẩm liệt ở dưới, thì có 2 vị này, nhưng bài ca ở trên, thì lại không có, nghi là đặt thiếu.

(277). Đây nói hòn cà rụt và bụng đau thì bội Tri mẫu, nhưng ở Thọ thế bảo nguyên thì lại nói bội Hoàng liên và Cam thảo.


  1. Thăng dương tán hòa thang

(278). Thoa thủ mạo hung : chắp tay áp vào ngực.

(279). Mách nhàm : nói nhảm.

(280). Dung y : thầy thuốc tầm thường, kém cỏi.

(281). Toát không : bắt tay ngoài khoảng không, bắt chuồn chuồn.

(282). Nguyên khí cửu hư : nguyên khí hư tổn đã lâu.

(283). Lại thừa : tới đến mà lấn át.

(284). Thủy tiên : dùng nước mà sắc.



Sắc ngao : sắc đặc, cô lại.

(285). Nhập kim thủ sức : thả vào với các vị thuốc một đồ thủ sức bằng vàng mà cùng sắc lên. Thủ sức là đồ trang sức trên đầu, như thoa, trâm ; đây dùng thủ sức bằng vàng, để làm thuốc trợ lực cho Phế kim.

(286). Khương trấp Bán hạ : Bán hạ tẩm nước Gừng.

(287). Tiện thực : đại tiện táo rắn.



Mách rông : nói rông, nói càn.


  1. Tái tạo tán

(288). Bất tác hãn : không ra mồ hôi.

(289). Trọng dược : thuốc nặng ; chỉ thuốc phát hãn có sức mạnh.

(290). Hỏa kiếp thủ hãn : dùng sức lửa mà cưỡng bức cho ra mồ hôi (như dùng lửa nóng mà hun, chườm, hoặc dùng kim đốt nóng mà châm).

(291). Ổi sinh khương : xem chú thích 240 ở trên.

(292). Lạt Quế chi : lạt là cay. Quế chi có vị cay nên gọi là lạt.

(293). Ôn hòa phục chi : cũng như ôn noãn phục chi, xem chú thích 210 ở trên.

(294). Thời bịnh : như nói thời tiết.

(295). Tái tạo tán : nguyên bản chép lầm là Tái tửu ẩm. Chúng tôi theo các sách cổ, sửa lại. Bài này, của Đào-Tiết-Am, trong có vị Tế tân, ở Thọ-thế cũng thế.


  1. Hoàng long thang

(296). Nhiệt kết lợi : chứng hạ lợi do nhiệt tà uất kết.

(297). Nước thuần trong : do chữ “hạ lợi thuần thanh thủy”, nghĩa là đi ngoài ra toàn nước trong.

(298). Quanh lòng : do chữ tâm hạ, quanh vùng dưới tâm.

(299). Lậu để : rò đáy, trồng tràng.

(300). Cứu hỏa phóng tàn : chữa cháy mà ôm củi ném vào ; ví với sự dùng thuốc nhiệt mà chữa chứng nhiệt, thật là lầm lẫn giết người. Câu “rơm chữa nhà cháy” ở dưới, cũng nghĩa thế.

(301). Thác nghỉ : chết mà yên nghỉ ở dưới đất. Ý nói người bịnh bị chết vì lầm thuốc.

(302). Vị trung táo thực : trong Vị phủ bị táo kết, rắn chắc.

(303). Xung : xem chú thích 58 ở trên.

(304). TRư.C NHẬT Tư ẨM THỦY THANG : trực nhật là hàng ngày, thủy thang là chất nước uống vào – kể cả thuốc. Ý nói đi ngoài ra nhiều nước, là do chất nước uống vào hàng ngày nó lại tháo ra.

(305). Lục nhất : tức LỤC NHẤT THUẬN KHÍ THANG ở trên (bài thứ 11).

(306). Nhân thông, dùng thông : do câu Nội-kinh “Thông nhân, thông dụng”, nghĩa là nhân bịnh thông lợi mà dùng thuốc thông lợi ; như chứng đại tiện tiết tả, do ẩm thực tích trệ, thì phải dùng thuốc công hạ, theo phương pháp “phản trị”.

(307-308). Miễn cùng, miễn điều : miễn là tiếng cổ. xem chú thích 59 ở trên.

(309). Lợi đỡ : chứng hạ lợi đã đỡ.

(310). Mựa : xem chú thích 28 ở trên.


  1. Điều vinh dưỡng vệ thang

(311). Hãn xuất trấp nhiên : mồ hôi ra dâm dấp.

(312). Không phủ : mạch phủ mà trống rỗng, tức phủ hư.

(313). Hô : gọi, gọi là.

(314). Phát đại hãn : cho ra mồ hôi quá nhiều.

(315). Bất tường : chẳng lành.

(316). Lao lực, bịnh nhân : người bịnh do lao lực mà gây nên.

(317). Cam ôn trừ nhiệt : do câu “cam ôn trừ đại nhiệt (Nội-kinh)”, nói loại thuốc vị ngọt khí ấm, có thể trừ được bịnh đại nhiệt. Những chứng mình nóng có mồ hôi, khát muốn uống nóng, ít hơi, trung khí bất túc, mạch hư đại ; phải dùng phương pháp cam ôn trừ nhiệt mới khỏi. Đây nói không nên dùng thuốc tân ôn (cay nóng), mà dùng cam ôn, để chữa chứng thương hàn lao lực này.

(318). Đại Sài hồ dược : thuốc Đại Sài hồ, tức ĐẠI SÀI HỒ THANG, một phương của Thương-hàn luận (Trọng-Cảnh), chữa bịnh thương hàn đã vào Dương-minh, nhưng chứng Thiếu-dương chưa hết : vừa công lý, vừa giải biểu, gồm các vị : Sài hồ, Bán hạ, Hoàng cầm, Thược dược, Sinh khương, Đại táo, Chỉ thực, Đại hoàng.

(319). Thông căn nhị hành : củ Hành 2 nhánh, vị này phải cho vào sau, nên nói hậu nhập.

(320). Hung trung bào muộn : trong ngực đầy tức.

(321). Phúc trung thích thống : trong bụng đau như dùi đâm.

(322). Hắc phẩn : phân đen.

(323). Cẩm văn Đại hoàng : vị Đại hoàng có văn gấm (thứ tốt)

(324). Yêu nhưng : như nói b ình yên (nhưng có nghĩa là không, khỏi hết bịnh)

(325). Mỗi phục bình thường : mỗi thang uống như thường, tức là theo như bản phương, không gia Đại hoàng nữa.

(326). Chứng không, thuốc nhiệm : như nói chứng khỏi, thuốc mầu (hay)

(327). Điều vinh dưỡng vệ thang : bài này do Đào-Tiết-Am chế ra, tức BỔ TRUNG ÍCH KHÍ THANG (Lý-Đông-Viên), gia Tế tân, Xuyên khung, Phòng phong, Khương hoạt.




  1. Đạo xích các bán thang

(328). Việt kinh : vượt kinh. Theo thứ tự “truyền kinh” của bịnh thương hàn, thì khởi đầu ở 3 kinh Dương : từ Thái-dương qua Dương-minh rồi Thiếu-dương ; hết dương kinh mới truyền vào Âm kinh : từ Thái-âm qua Thiếu-âm rồi đến Quyết-âm, mà bịnh chứng ở đây, từ dương kinh truyền vào, lại vượt qua Thái-âm, vào ngay Thiếu-âm (TÂM) nên gọi việt kinh.

(329). Chứng khôn : chứng đỡ, chứng khỏi.

(330). Cảm thụ : cảm phải, mắc phải.



Căn nguyên : căn nguyên của bịnh. Ý nói cần hiểu rõ bịnh tà mắc phải là gì ? và suy tìm căn nguyên bịnh là thế nào ?

(331). Tâm phúc : dưới tâm và trong bụng.

(332). Thần hồn bất ngữ : tinh thần hôn mê, không nói năng gì.

(333). Nhãn xích, thần tiều : mắt đỏ, môi khô xám.

(334). Thiệt can bất ẩm : lưỡi khô mà không uống nước.

(335). Thiếu-âm : chỉ Thiếu-âm TÂM.

(336). Viêm thượng : nóng bốc lên.

(337). Tê giác tiết : bột Tê giác.

(338). Chung : chén, chỉ số lượng nước sắc thuốc.

(339). Đạo xích các bán thang : bài này, Thọ-thế bảo nguyên chép là Tả tâm Đạo xích thang. Trương-thị Y thông chép là Đạo xích Tả tâm thang, vì nó có cái nội dung và tác dụng của cả 2 bài Đạo xích (Tiền-Ất) và Tả tâm (Trọng-Cảnh) hợp lại, nên gọi tên như thế, ý nghĩa rất rõ ràng. Đây chép là Đạo xích các bán thang, thì ý nghĩa không rõ, mà về văn phạm, đặt như thế cũng dỡ dang ; chỉ có Đạo xích thôi, sao gọi là “các bán” được ? (các bán là nửa bài nọ, nửa bài kia). Chúng tôi thấy theo như Thọ-thế thay Y thông đúng hơn.




  1. Ích nguyên thang

(340). Sử : sử dụng.

(341). Nguyên khí hư, hỏa thượng thăng : nguyên khí hư, hỏa bốc lên.

(342). Diện xích đới dương : hư dương phù việt mà sắc mặt bốc đỏ lên (xem thêm chú thích 225 ở trên.)

(343). Toàn vô thân nhiệt, đầu đông, tâm phiền : các chứng mình nóng, đầu nhức, tâm buồn phiền, đầu hoàn toàn không có. Đây nói không có chứng thân nhiệt, nhưng ở Thọ thế lại nói thân vi nhiệt : mình hơi nóng.

(344). Ráo khô, vật vã : miệng khát nước, mà chân tay vật vã. Đây là chứng tâm không buồn phiền mà chỉ chân tay vật vã, tức chứng “bất phiền nhi táo”

(345). Ẩm thủy bất đắc : uống nước không được.

Hại nhân : hại người. Đây là chứng miệng khát nước mà không uống vào được, vì thuộc chứng hàn (Thọ thế nói “vi khát” : hơi khát)

(346). Hư phiền : xem chú thích 103 ở “bài phú Dược tính chỉ nam trực giải”trên. Từ hư phiền mà tác giả dùng đây, không đúng ; vì hư phiền là một chứng có tâm phiền, mà bịnh chứng ở đây, thì không có tâm phiền.

(347). Thông căn : củ Hành.

(348). Thủy tiên : dùng nước sắc lên.

(349). Ích nguyên thang : bày này, nguyên của Chu-Quảng đời Tống (Hoạt nhân thư), chữa chứng “âm táo” (chứng chân tay vật vã thuộc âm hoàn), và theo Thọ thế thì trong bài không có Ngãi diệp mà có Thược dược.


  1. Quế linh ẩm

(350). Thuyết : nói đến, kể đến.

(351). Nhiệt kết Bàng quang : xem chú thích 177 bài 16. Đào nhân thừa khí ẩm tử ở trên. Chứng nhiệt kết Bàng quang thường có hiện tượng thần chí như cuồng, nên cũng gọi chứng “như cuồng”

(352). Tinh thái : tinh thân biểu lộ ra bên ngoài, gọi là tinh thái. Tinh thái bất dữ tương đương : tinh thần mõi mệt, không muốn tiếp xúc với người.

(353). Thẩm nhiệt tự tiểu tiện lai : nhiệt tà do đường tiểu tiện mà thấm ra.

(354). Bài này, Thọ-Thế chép là Quế linh ẩm tử, và trong có Đăng tâm, không có lá Tía tô.




  1. Đương qui hoạt huyết thang

(355). Tí : ma làm, ma quỉ làm ra.



Nhi tí : chứng bịnh giống như ma làm.

(356). Ố hàn, đầu đông : ghê rét và nhức đầu.

(357). Hắc phẩn : xem chú thích 322 ở trên.

(358). Dung y : xem chú thích 280 ở trên.

(359). Lương dược : thuốc hàn lương.

(360). Thửa lòng : lòng người ấy ; ý nói chứng lầm thuốc lỡ, không cam cái lòng cho người ấy.

(361). Hiệp huyết : kèm có chứng huyết.

(362). Đào nhân nê : là bùn ; vị Đào nhân giã nát như bùn, gọi Đào nhân nê.

(363). Sao phu : sao với cám.

(364). Trần tửu : rượu củ.



Phục kham : khá uống.

(365). Thiếp : mỗi thang thuốc gọi là thiếp.

(366). Bài này, Thọ-Thế có Cam thảo. Trương thị Y thông có cả Cam thảo và Phục linh, không có Nhân sâm.

(367). Hiệp huyết như tí : chứng bịnh kèm có huyết ứ, phát ra như ma làm.




  1. Gia vị đạo đàm thang

(368). Hiệp đàm như tí : chứng bịnh có kiêm đờm, mà phát ra như ma làm.

(369). Đầu đông : đầu nhức.

(370). Thượng khí, suyễn tức : khí nghịch lên và suyễn thở. Bôn chôn : như nói bồn chồn (dùng âm “bôn chôn” cho dể đọc)

(371). Tăng hàn tráng nhiệt : rét run nóng dữ. Chữ tăng nguyên nghĩa là ghét, đây dùng theo nghĩa bóng : tăng hàn là rét nhiều mà người run lên, khác với ố hàn chỉ là gai rét, ôn rét thôi.

(372). Trị chi : trị bịnh ấy (chữ chi là đại danh từ). Đây nói thầy hèn cho là bịnh thương hàn, rồi dùng thuốc thương hàn mà trị.

(373). Tâm động, thần bi : tâm khuấy động, thần mỏi mệt, chỉ sự nội thương thất tình.

(374). Thất tình : chỉ 7 loại tình chí : mừng, giận, lo, nghĩ, thương, sợ, kinh ; nó thường là nhân tố gây bịnh, làm ảnh hưởng đến khí hueets và tạng phủ của con người…



Lục dục : chỉ 6 ham muốn của tai, mắt, mũi, lưỡi, thân thểý nghĩ (theo thuyết nhà Phật) ; như tai muốn nghe tiếng hay, mắt muốn trông cái đẹp…

(375). Thần bất trú xá : là nhà ở của thần, chỉ TÂM (Tâm tàng thần), thần bất trú xá là thần không ở yên nơi nhà ở mà thoát ra ngoài (chữ trú hoặc chép là thủ cùng nghĩa thế). Khỏi nhà : giải thêm ý nghĩa “thần bất trú xá” trên.

(376). Đàm mê tâm khiếu : đờm làm bế tắc khiếu tâm (cũng gọi “đàm mông tâm khiếu”).

Tí tà : tà khí giống như ma làm.

(377). Đàm loại thương hàn :chứng đờm giống như thương hàn.

(378). Nhị trần đặt danh : nói bài GIA VỊ ĐẠO ĐÀM do bài NHỊ TRẦN mà đặt tên.

(379). Thìa thìa : xem chú thích 94 trên.

(380). Kỳ : kỳ hạn, chừng mực.


  1. Gia vị điều trung ẩm

(381). Loại cảm hàn thương : giống như mắc chứng thương hàn (hàn thương tức thương hàn đặt ngược tên cho hiệp vần)

(382). Khí khẩu : tức mạch Thốn khẩu ở cổ tay. Khí khẩu và Nhân nghinh (động mạch của kinh VỊ ở 2 bên cổ tay) là 2 bộ phận chẩn mạch trọng yếu của người xưa (Nội-kinh). Khí khẩu chủ bịnh trong, Nhân nghinh chủ bịnh ngoài (Vương-Thúc-Hòa cho tay hữu là mạch Khí khẩu, chủ bịnh trong ; tay tả là mạch Nhân nghinh, chủ bịnh ngoài, không đúng). – Nội-kinh nói : mạch Khí-khẩu thịnh kiên là nội thương ẩm thực ; mạch Nhân-nghinh thịnh kiên là ngoại thương hàn tà. Đây là bịnh thực tích, nên nói mạch Khí-khẩu thịnh, theo ý nghĩa Khí-khẩu khẩn thịnh kiên là thương thực của Nội-kinh.

(383). Câu này do câu Nội-kinh : “Âm thực tụ bội, TỲ VỊ nội thương”. Xem lời giải phương thang ở dưới.

(384). Phúc trung thống mãn : trong bụng đau đầy (2 chữ đau đầy ở cuối câu là giải cho rõ thêm).

(385). Trung tâm ngột ngạt : trong bụng nhộn nhạo muốn thổ.

(386). Can hoắc loạn : tức chứng bụng trướng, soắn đau, phiền táo, bức rức, muốn thổ không thổ được, muốn tả không tả được, nguyên là một chứng bịnh cấp tính nguy kịch. Đây mượn để chỉ chứng đau bụng mửa khan.

(387). Tạo mạt : bột Tạo giác (Bồ kết)

(388). Thổ đã bằng thần : ý nói sẽ thổ ra ngay, rất là thần hiệu.


  1. Gia giảm Tục mệnh thang

(389). Dâng toan : đau ê.

(390). Chủng loại thương hàn : chứng giống thương hàn.

(391). Chí tiết : các khớp xương chân tay (chi là tứ chi)

(392). Khuất nhược : co lại yếu đuối, nói chân không co lại được.

(393). Tiện bí, ẩu nghịch : đại tiện bí kết và nôn xốc lên.

(394). Câu này nói chứng Cước khí khác với chứng thương hàn là chân và đầu gối đau nhức trước.

(395). Nhị thập hành tiên : hành là đoạn bấc (Đăng tâm), tiên là sắc lên ; nói cho vào 20 đoạn bấc mà sắc lên.

(396). Thương thử trúng thử : thương thử hoặc trúng thử (thương nhẹ, mà trúng nặng)

(397). Hàn trúng, lạnh thay : trúng hàn mà mình lạnh.

(398). Khu : đuổi ra, trục ra.

(399). Nguyên khí cửu hư : xem chú thích (282) ở trên.




  1. Cầm liên tiêu độc ẩm

(400). Khiên phục : mất điều hòa, sai trái thời tiết. Khiên phục vãng lai : nói âm dương mất điều hòa, thường qua lại trong 4 mùa.

(401). Thiên thời hành bịnh : thời khí, phát sinh ra bịnh.

Vi tai : gây tai hại cho người.

(402). Phục sơ : uống trước, nói trước, uống thang KHưƠNG HOẠT XUNG HÒA (bài thứ 3) không khỏi, mới uống thang CẦM LIÊN TIÊU ĐỘC.

(403). Xung : xem chú thích 58 ở trên.

(404). Chung : xem chú thích 338 ở trên.

(405). Thử niêm : tức Ngưu bàng tử.

(406). Lợi chi : thông lợi đi (chữ chi đặt thay cho bịnh tà)

(407). Nhất, nhị, tam, thứ : 1,2,3 lần đi đại tiện.

(408). Thượng đẳng các y : các thầy thuốc bậc trên.

(409). Đại đầu ôn : cũng gọi đại đầu phụng hay đại đầu thương hàn, một chứng ôn dịch đầu bị sưng to (mặt cũng sưng đỏ), nặng thì tai điếc, miệng ngậm, nói sảng, thần hôn : do cảm nhiễm độc khí phong ôn mà sinh ra.

(410). Hầu tý : một chứng cổ họng sưng đau, trong họng sưng kết khối, ngoài cổ quầng, không nói và không nuốt nước được : do khí huyết cục bộ bị ứ trệ mà sinh ra.


ĐOẠN KẾT
(411). Y chi tư mệnh : do câu “Y giả nhân chi tư mệnh” ; nghĩa là thầy thuốc là người bảo vệ tính mệnh của người ta.

(412). Tam giáo : ba đạo giáo : Nho, Đạo (Lão), Thích (Phật)

(413). Tường, sung : tinh tường, sung thịnh.

(414). Tham, sân, si, bạo : tham lam, giận dữ, si mê, bạo ngược.

(415). Giẫy đắp : giẫy không rõ nghĩa, nghi là giẫy cỏ (đắp là đắp đất)

Gò : mồ mả. Tục xưa, khi ốm đau, người ta thường cho là động mả, rồi ra nơi mồ mả ông cha, giẫy cỏ và đắp đất cao lên.

(416). Lễ : cúng lễ, chỉ việc cúng lễ cầu khẩn trời đất quỉ thần phù hộ cho khỏi bịnh.

(417). Tiếu : lập đàn cầu đảo gọi là tiếu.

(418). Lão Mai : tức Lão Mai am, tên hiệu của người biên chép tập THưƠNG HÀN TAM THẬP THẤT TRỦY PHÁP này (nghi là người được Tuệ-Tĩnh trực tiếp truyền thụ cho).,.



VII – PHưƠNG PHÁP BIỆN CHỨNG LUẬN TRỊ
ĐỀ CưƠNG
Chí thiện đường (1) ngày thường xem sách,

Lão mai am (2) quét sạch, đốt hương,

Lễ thờ chư Phật thập phương,

Chức quân, sư, phụ (3) tuổi trường muôn thu.

Thảo ngay một chức khu khu,

Miệng thường niềm chữ “Nam mô Di đà”

Hiền lành tin kính thật thà,

Chữa mình sau mới chữa nhà khả nghi (4)

Vì “y giả nhân chi tư mệnh”(5)

Xưa Thần-Nông đã định phương thư (6)

Lòng nhân rộng mở thừa lưa (7)

Tiến lên cõi thọ, khí hòa gió xuân.

Tường y cùng, đạt (8) tuy phân,

Đều là giúp nước, giúp dân, giúp đời.

Kiêm lo toàn đức lợi người,

Làm phúc cho người, tam đại hữu hưng (9)

Xem đề cương những phương mầu nhiệm,

Tô-Đông-Pha mặc nghiệm (10) cầu y,

Chuyết công (11) biết thuở bình thì,

Kể hết căn bịnh, kẻo khi lỡ lầm.

Chứng nương đòi mạch suy lầm,

Mạch nương đòi chứng thiểu thâm chẳng ngờ (12)

Làu thông hàn nhiệt thực hư,

Ôn lương, bổ tả, vậy hòa được yên.
YẾU QUYẾT TÌM THẦY HỎI BỊNH
Đông-Pha (13) tiên sinh từng nói : “Xưa nay, tôi tìm thầy thuốc, nguyên từ lúc ngày thường, đã để ý nhận xét thầy hay, thầy dở ; đến khi có bịnh, mời tới. thì trước kể hết căn nguyên phát bịnh, sau mới cho chẩn mạch, để thầy thuốc biết rõ chứng bịnh ấy ở đâu, hư thực hàn nhiệt, được xác định trước ở trong tâm. Khi đó, dù mạch có hiện tượng tương tự, cũng không thể ngờ vực được, như thế, tuy gặp thầy thuốc bậc trung, mà trị bịnh cũng thường kiến hiệu. Ta chỉ cần khỏi bịnh, chứ làm khó khăn cho thầy thuốc để làm gì ??”

Lời nói trên, thật là lời răn dạy và thức tỉnh cho những người mê muội ở đời. Vì lẽ sao ?

Vì mạch với chứng phải đi đôi với nhau, xem mạch là để phân tích những điểm mà chứng chưa rõ ràng ; hỏi chứng là để tìm hiểu những điểm mà mạch còn che giấu, phải bằng mạch để phân biện chứng, thế mới gọi là “đắc thủ ứng tâm” (14). Phải hỏi chứng để tham khảo mạch, thế mới gọi là “y giả ý giả” (15). Sao chỉ được dùng mặt này mà bỏ mặt kia.

Tôi lấy làm lạ, sao người đời nay lại thường giấu bịnh mình, để cho thầy thuốc chẩn đoán, muốn thử xem thầy có giỏi không ? – Còn thầy thuốc cũng không thèm hỏi bịnh, cứ chẩn mạch bừa phứa, để tự khoe tài năng của mình, thậm chí có người bịnh trước bị lầm thuốc, hoặc ăn uống sinh hoạt có điều sai trái, đều giấy thầy thuốc dù hỏi cũng không nói hêt, đến nổi thầy thuốc phải tìm bịnh ở chỗ mơ màng, phân biện hàn nhiệt, hư thật một cách hồ đồ không chính xác, sai một ly đi một dặm, như thế có khác gì vứt bỏ tính mạng mình cho người ta dùng thuốc thử nghề không ??


I
“Chẳng có tích chẳng nên hạ lỵ”

Lời Vô-Khái xưa (16) đã chép biên,

Hoặc xích hoặc bạch biết nhìn,

Xích bạch tương tạp hỗn chen lộ đồ(17).

Hoặc là khí tựa bọt cua,

Đỗ nhiệt triền thống (18) đau gò đòi thôi

Muốn đi chẳng lấp kịp vồi (19)

Chợt đặt trôn gồi, tích liền xón ra.

Bàn hoàn, bức bách, bôn ba (20)

Về chưa đến nhà thì lại muốn đi.

Đời truyền rằng ấy đau đì,

Rặn đã è è, ngày nhẫn (21) trăm phen.

Nằm ngồi đi đứng chẳng yên,

Mời thầy chuốc thuốc, muốn xin ngăn đừng.

Vội tìm Bạch truật, Can khương,

Kha tử, Anh túc, Mộc hương, Xa tiền,

A dao, Đậu khấu, Hòng liên,

Hoài sơn, Phượng vĩ, Mao căn, Lệ phòng (22)

Vỏ Khế, vỏ Sắn, vỏ Sung,

Vỏ Dụt, Bàu bí (23), sáp Ong, trứng Gà.

Trần Mễ cùng Cẩm địa la,

Ăn cơm rang, uống nước Dừa phục thôi.

Rơm chữa nhà cháy (24) thương ôi !

Đại-trường bế sáp, rặn lòi trôn ra.

Thũng chân, nặng mặt, sưng da,

Hôi cơm, nhạt miệng, khí đà mỏng manh.

Đấng phàm (25), khong biết lỗi mình,

Đổ thừa phần mộ, yêu tinh, ngoại tà.

Lập đàn tra khảo cho ra,

Thêm có bóng bà, thủy tộc, thủy quan (26)

Nguyễn-Ngung, Hoàng-Cấn, Phạm-Nhan (27)

Rước công thờ cốt (28) nào toan tiếc gì.

Càng chữa cngf bực nhiều bề,

Tiền thì đã hêt, tật thì còn mang.

Chẳng thấy lời yếu quyết rằng :

“Lỵ xuất tích trệ” sự chăng (29) còn ngờ.

“Tích” là vật tích muốn ra,

Nhiễu tề lý cấp (30) đi đà mau chân.

“Trệ” là khí trệ cầm ngăn,

Quẫn bách hậu trọng (31) nhiều phần gian truân.

Ấy là hạ lỵ bịnh nhân (32)

Biết hay cảm thụ (33) căn nguyên chẳng ngờ.

Sắc dù xích bạch tạp nhơ,

Mạch dù cả mọn, mau thưa (34) chẳng nề.

Nhất giai thông lợi hành chi (35)

Tích tiêu khí thuận, tức thì liền thông.

Chữ rằng “hí bổ ố công” (36)

Nào hay là sự “công trung bổ tồn”(37)

Thông nhân thông dụng (38) kẻo buồn,

Hạ tiêu đóng chặt, nào còn tích đâu.?

Ấy là chữa lỵ phép mầu,

Bí phương hóa trệ đứng đầu hiệu thay.

Có tích thông lợi liền tay,

Nếu đi hết tích, tật rày liền yên.

Thấy còn tâm nhiệt, khát phiền,

Hợp Thiên thủy tán, Ích nguyên một liều.

Nước trong (39) múc lấy hòa đều,

Lỵ gia thành được, phép yêu (40) truyền lòng.

Có người huyết lỵ ròng ròng,

Rặn ra những máu hỗn đồng chẳng đang.

Ngũ-linh, Mạch-môn sắc thang,

Điều hòa Ba đậu, Đại hoàng (41) 5 viên.

Dù còn đau đớn chưa yên,

Khung, Qui đại bổ tâm can liền ngừng.

Phương kinh nghiệm lại truyền rằng :

Xuyên Đương qui vĩ, Đại hoàng cẩm văn (42)

Rượu dầm sắc đến 7 phân,

Đói lòng chọn lúc giờ Dần (43) uống thôi.

Hành tâm (44) trục huyết cho rồi,

Thuốc lành bịnh đã, mừng vui cả nhà.
YẾU QUYẾT CHA BỊNH KIẾT LỴ
Vô-Khái nói : “Không có tích thì không thành bịnh lỵ”. Lỵ là do tích trệ mà ra, tích là vật tích ; trệ là khí trệ. Vật tích muốn ra, nhưng vì khí trệ, bị giằng giữ lại, không ra được cho nên có chứng trạng hạ trụy lý cấp (45). Bổng mắc đi, bổng lại thôi ; có khi ngày đêm đi tới 100 lần, ai mà chẳng muốn cho cầm ngay. Nhưng không biết bịnh này phát sinh là do vật tích khí trệ ; không thể cầm ngay được.

Vậy nay, hễ thấy triệu chứng, như trên : không cứ lỵ sắc đỏ hay trắng, mạch to hay nhỏ, nhất thiết dều dùng thuốc thông lợi để tiêu trừ đi.



Vật tích thì dùng các vị Ba đậu, Đại hoàng ; khí trệ thì dùng các vị Chỉ xác, Cát cánh, Thanh bì, Bồng nga truật. Hai phương pháp này hỗ trợ cho nhau, nhất định sẽ thành công.

Ngoài ra, lại dùng thêm Hoàng liên, A dao viên (46) để giúp sức, thì hiệu nghiệm càng rõ rệt. Vì thế bịnh lý phần nhiều do cảm nhiễm khí nắng, nhiệt tà ẩn phục ở trong, lại thêm ăn uống rượu, miến, các đồ thịt nướng mà gây nên, nay dùng A dao là vị thuốc chủ yếu chữa bịnh Đại-trường, nếu có nhiệt độc lưu trệ, thì nó làm cho sơ thông ; Nếu không nhiệt độc lưu trệ, thì nó giữ được yên ổn. Gỉa như hiệu thuốc không có bán thuốc hoàn sẳn, thì dùng ngay các vị A giao sao, Đương qui, Thanh bì, Xích phục linh, Hoàng liên, cho thêm Ô mai cùng mật đặc vào, sắc uống, rất có thể tẩy trừ các chất dơ bẩn tích trệ. Tích trệ đã hết, thì đi lỵ sẽ thưa dần.

Tiếp đó, dùng các vị Mộc hương, Phục linh, Sa nhân, Đậu khấu, Trần bì, Cam thảo, sắc uống, để điều hòa Tỳ Vị, thì tự nhiên muốn ăn, ăn thì chất cặn bả tiêu cả xuống Đại trường ma thoát ra ngoài, sau cùng, dùng chân nhân dưỡng tang thang. Dị giản Đoạn hạ thang tức là khi có thể cho thuốc ngừng lỵ thì cho để ngừng được.
Bí phương hóa – trệ hoàn
Phương này, điều lý tất cả chứng khí, tiêu trừ tất cả các chứng tích có cơ năng thông mà tắc, cướp được quyền tạo hóa, có diệu dụng tả mà bổ, điều lại khí âm dương. Những chứng lỵ ngoan cố lâu ngày, nó sẽ làm mòn dần mà tiêu đi, và những chứng lỵ tích trệ mới phát, nó sẽ làm khai thông mà khỏi ngay.


Nam Mộc hương

Đinh hương, Hoàng liên, Quất bì (đều bỏ cùi trắng)

}

Đều 1 phân rưỡi

Thanh bì

Kim tam lăng (lùi)

Nga truật (lùi), Bán hạ

}

Đều 5 phân

Các vị trên, phơi khô tán bột.

Ba đậu (bỏ vỏ, cho vào nước sôi, bỏ ruột, ròi đựng vào lọ sành, ngâm với rượu, sau lấy sao khô) dùng 3 phân rưỡi, nghiền hòa với thuốc bột trên.

Ô mai (dùng thứ có thịt day, bỏ hột, thái nhỏ, sấy khô, tán bột) lấy 5 phân hòa với dấm thanh, dùng lửa nhỏ nấu thành cao cũng hòa với thuốc trên.

Thuốc hòa xong dùng 8 phân bột mì hòa với nước cho vừa, lửa nhỏ nấu làm hồ viên bằng hạt kê nhỏ liều uống 5-7 viên. Người khỏe uống 10 viên, với nước thang vỏ Qúit uống lúc sáng sớm còn đói lòng.

Thường uống sẽ tiêu mòn chứng tích. Không muốn thông lợi, thì dùng nước bọt nuốt xuống.

Thức ăn đình trệ, bụng no tức, thang bằng nước sắc Chỉ xác.

Tích thực, do ăn vật gì thì lấy nước vật ấy mà uống nguội.

Nhân ăn vào mà nôn không ngừng, nuốt với nước bọt, thì ngừng nôn ngay.

Ăn rồi đi ngoài không ngừng, hoắc loạn ụa thổ, đều thang bằng nước lạnh.

Đi lỵ ra máu thang bằng nước sắc Cam thảo để nguội.

Đi lỵ ra như mũi, thang bằng nước sắc Can khương để nguội.

Đi lỵ ra vừa máu vừa mũi, thang bằng nước sắc Cam thảo, Can khương.

Khí động, thang bằng nước sắc Thạch xương bồ.

Các chứng khí thống, thang bằng nước sắc Gừng sống với vỏ Qúit

Chứng tiểu trường sán khí (47), thang bằng rượu ngâm Hồi hương.

Đàn bà khí huyết không điều, thang bằng nước sắc Đương qui.

Nếu cần thông lợi, thì dùng nước Gừng đun sôi làm thang, và tăng thêm số viên thuốc. Chưa thông lợi được lại uống lần nữa. Thông lợi quá nhiều, cho uống một ngụm nước lạnh thì cầm ngay.

Trẻ con cam tích thì cho uống thường xuyên và thang bằng nước cơm ; không cứ thời giờ nào, tùy số tuổi mà thêm hay bớt số viên thuốc.

Thuốc này, được chất nóng thì đi ; được chất lạnh thì chỉ. Đàn bà có thai không được dùng.


Thiên thủy tán

(Còn gọi Lục nhất tán)
Đây là một bài thuốc chữa lỵ hay tuyệt, vì tác dụng chủ yếu của nó là “Táo thấp, lợi thủy, sung thực lục phủ, hóa nhiệt độc, thông tích trệ, bổ tỳ vị, giáng hỏa tà phù Việt” và chữa các chứng trúng nắng tả lỵ, mình nóng, phiền khát, tiểu tiện không lợi, công hiệu không kể xiết.

Hoạt thạch (trắng, nhẵn là tốt) 6 đồng cân

Cam thảo (chích) 1 đồng
Hai vị tán bột, liều uống 2 đồng cân, thang bằng nước nóng có hòa vào một ít mật (không có mật cũng được) ; ngày uống 3 lần. Thích uống lạnh thì hòa với nước giếng mới kín về.

Thuốc này tính hàn lương, có tác dụng giải tán uất phiền. Nếu bịnh chưa khỏi thì nên uống nhiều, chỉ có lợi mà không tổn hại gì.


Đoạn hạ thang

(Chữa chứng lỵ đi ra máu mũi)
Phục linh, Bạch truật đều 1 đồng cân

Cam thảo 5 phân

Thảo quả (cả vỏ) 1 quả

A nhì túc xác thứ to 14 cái, bỏ đốt đều, thái, nghiền ra tẩm rượu sao khô.

Các vị trên tán bột, chia hai lần uông, mỗi lần dùng Gừng 3 miếng, táo 3 quả, Ô mai to 3 quả, sắc uống, trước khi ăn cơm.
CHỨNG TRẠNG VÀ CÁCH CHỮA CHỨNG HUYẾT LỴ

Huyết-khí-luận (48) chép : “Gỉa như chứng huyết lỵ, dùng Ngũ-linh-tán gia Mạch môn thông vào Tâm, dùng Ba đậu, Đại hoàng viên (49) để trục tích, mà chứng đau vẫn còn, đó là vì huyết hư, không đủ nuoi dưỡng, cần gia Xuyên khung, hoặc Khung-quy thang để hỗ trợ thì mói hết đau”.


Gỉa vị Ngũ linh tán


Phục linh (bỏ vỏ)

Bạch truật

}

Đều 1 phân rưỡi

Trư linh (bỏ vỏ)

Trạch tả

Quế bì




}

1 phân

Thêm Mạch môn (bỏ lõi)



Các vị trên tán bột, dùng làm một liều, sắc lấy nước, uống lúc đói lòng với viên Ba đậu đại hoàng dưới đây.


Ba đậu Đại hoàng viên
Cẩm văn Đại hoàng (bọc giấy ướt đem vùi trong lửa)

Ba đậu (ngâm nước sôi bỏ ruột, bỏ màng)

Hai vị tán nhỏ, nấu bột mì làm hồ, viên bằng hạt ngô đồng, liều uống 5 viên, uống với nước sắc thuốc thang tùy ý.
Rượu Đại hoàng
Chủ trị chứng huyết lỵ hay như thần.

Cẩm văn Đại hoàng (lùi) 1 lạng,

Xuyên qui vĩ (rửa rượu) 5 đồng.

Các vị tán bột, ngâm rượu vô hôi (50) 1 đêm ; đun cách thủy, cạn còn 7 phân, lọc bỏ bã, uống ấm, hiệu nghiệm không kể xiết.


II
Ấy hạ lỵ, này là tả tiết,

Trình các thây cùng biết cùng hay,

Lỵ thì có tích nhiều thay,

Tiết chẳng có tích, chảy ngay ròng ròng.

Tiết vốn thuộc thấp làm xong,

Tỳ, Thận (51) thụ bịnh, đối cùng khác nhau.

Tỳ hư Vị nhược phải đau,

Nặng nề mình mẩy, lo âu nhiều đường.

Lại thêm Trung quản (52) tổn thương,

Bụng nóng, sắc mặt hư hoàng (53) khá thương !

Ta dùng Đậu khấu, Can khương,

Thương, Bạch (54), Hậu phác, Mộc hương hòa cùng.

Ho xốc, thăn lưng đau vùng,

Bụng rốn đau chợt (55), mặt trông đen mầu.

Bổ cốt chỉ (56) phải dùng mau,

An Thận làm đầu, hợp chấn linh đan.

Những phương kinh nghiệm gia truyền,

Đề cương chứng trị tay bèn chép ra.
YẾU QUYẾT CHỮA BỊNH TIẾT TẢ
Bịnh này có chứng Tỳ tiết, có chứng Thận tiết.

Tỳ tiết thì chân tay mình mẩy nặng nề, vùng dạ dày khó chịu, sắc mặt vàng hư, bụng rốn hơi đầy.

Thận tiết thì da dẻ sợ lạnh, vùng thăn và eo lưng buốt đau, ho xốc, mặt đen, bụng rốn đau bất thần.

Chữa Tỳ tiết thì dùng các vị Thương Truật, Bạch truật, Hậu phác, Can khương, Mộc hương, Nhục đậu khấu (để sống)

Chữa Thận tiết thì dùng Bổ cốt chỉ và các bài thuốc An-thuận hoàn, Chấn-linh đan.

An thận hoàn
Xuyên ô (giội nước nóng, bỏ vỏ và núm)

Lạt Quế Phục linh

Bạch truật Thạch hộc (tẩm rượu sao)

Bạch tật lê Ba kích

Nhục thung dung (tẩm rượu sao) Đào nhân (bỏ vỏ)

Tỳ giải Sơn dược

Phá cố chỉ (sao)
Các vị tán bột, luyện với mật làm viên, bằng hạt ngô đồng, liều uống 50-70 viên, thang bằng nước muối, uống khí đói lòng.
Chấn linh đan
Chữa chứng Thận tiết,

Vũ dư lương (nung lửa, tôi vào dấm, không cứ bao nhiêu lần, khi bóp tan ra là được)

Xích thạch chi

Đinh đầu Đại giả thạch (cách chế như Vũ dư lương trên)

Nhũ hương chính (nghiền riêng)

Một dược (nghiền bột) đều 1 lạng

Tử thạch anh.

Ngũ linh chi, đều sàng bỏ cát sỏi, nghiền nhỏ, đều 2 lạng.

Các vị giã vụn, cho vào nồi đất đậy vung lại, nhào bùn với muối đắp kín đợi khô, dùng than rắn 10 cân, nung đỏ, hết lửa làm chừng, rồi đem chôn dưới hố đất 2 đêm để tiết bớt hỏa độc.

Sau đem tán bột, dùng gạo nếp nấu hồ làm viên, bằng hạt củ súng nhỏ ; phơi gió cho khô, liều uống 3 viên, dùng Phá cố chỉ sao và quả táo sắc làm thang ; hòa vào ít bột chung nhủ, uống khi đói lòng. Trẻ con bị chứng Thận tiết, đi ra như mủ trắng, khát nước ra mồ hôi, mặt sạm, răng rụng, sợ người, ghê lạnh, cũng dùng CHẤN LINH ĐƠN cho vào ít bột Chung nhủ và uống với thang táo cùng Cố chỉ sao như trên (dùng thang uống)


III
Ấy tả tiết này là thai nhiệt,

Thuở viêm thiên thời tiết sốt thay

Thai hầu 7-8 tháng dầy,

Nhân chưng thủ nhiệt, lệ thay tử phiền (57)

Động thai bức bách nổi lên,

Cho nên trở ngại ở trên yết hầu.

Tâm phúc trướng mãn (58) hằng đau,

Tựa đường hạ lỵ làm nau (59) bồi hồi.

Bước lên nhà xí liền ngồi,

Rặn chừng chín một nồi xôi (60) lâu chầy.

Sẩy liền khí hạ (61) nhẹ rày,

Thông được một chốc rửa tay trở về.

Đến nhà thì lại muốn đi,

Chưa từng thấy bịnh gian nguy dường này.

Đề cương chứng trị chép bày,

Thai nhiệt tựa lỵ, biết thay lẽ dùng.

Chớ làm giải lợi cho thông,

Nhiễu bất khả nhiễu (62), hợp dùng chớ lo.

Ta làm phương TIỂU SÀI HỒ,

Giao, Liên sao tĩnh (63) hợp cho một phần.

Đại hoàng, Chỉ xác nửa phần,

Uống rồi điều đạo, (64) thai dần bình yên.

Ấy phương kinh nghiệm gia truyền,

Ngày dùng thấy hiệu chép biên tỏ tường.
YẾU QUYẾT CHỮA ĐÀN BÀ THAI NHIỆT TỰA NHƯ LỴ
Đàn bà có thai 7-8 tháng, do cảm nắng, cảm nhiệt, sẩy nên chứng “tử phiền, thai khí bực tức lên trên cổ họng tắc nghẽn, trong bụng trướng đầy, đi ngoài nặng trệ, tựa như chứng lỵ. Mỗi lần tới nhà xí, phải ngồi lâu khoảng thổi chín một nồi xôi, bổng chợt khí thông xuống, mới đi đại tiện được một lần ; tục thường chữa bằng thuốc kiết lỵ. Không biết đó là chứng thai nhiệt tử phiền , nên dùng Tiểu sài hồ thang, chiêu với viên Hoàng liên A giao, hoặc dùng A giao (sao) Hoàng liên đều một phần, Chỉ xác, Đại hoàng đều nửa phần, chia làm 2 thang. Sắc nước Ô mai, Gừng, Mật cho uống ; đợi khí đại tiện thông đều rồi, tiếp dùng Xuyên khung, Phục linh, Sa nhân, Cam thảo sắc uống để ổn định còn những phương Ngũ linh tán, Cảm ứng viên, Hương liên tán, Chú xa hoàn, đều không phải là thuốc chữa bịnh này.
Tiểu Sài hồ thang


Sài hồ

2 đồng rưỡi

Nhân sâm

}

Đều 1 đồng

Hoàng cầm

Bán hạ

8 phân

Cam thảo

5 phân

Các vị thái nhỏ, dùng làm 1 thang, gia sinh Khương 3 lát, đại Táo 2 quả, nước 2 chén, sắc còn 1 chén ; lọc bỏ bã, uống ấm.

eee

Hoàng liên A giao hoàn


Hoàng liên

3 lạng

A giao (sao)

1 lạng

Xích linh

2 lạng

Hai vị Hoàng liên và Xích linh tán bột, còn A giao hòa với nước làm hồ. Nhiều người dùng viên (sợ hồ A giao chóng khô) to bằng hạt ngô đồng, mỗi liều uống 30 viên với nước sôi, sau bữa ăn.


IV
Ấy thai nhiệt tựa đường hạ lỵ,

Này “chuyển bào”(65) đái trệ không thông.

“Bào” là bong bóng thực xong,

Thận vi biểu lay, hợp cùng phân duyên (66)

Bàng quang chẳng có cửa trên (67)

Có một cửa dưới tiểu biền (68) hằng ra.

Chứng này chỉ có đàn bà,

Nhân khi thai nhiệt, khí đà mỏi mê.

Muốn ăn nấu nướng mỹ vì (69)

Say no, rồi lại có bề dâm phong (70)

Chữ rằng “Túy bão lao phòng”(71)

Hỏa khởi ở Thận “mùa lăng mua loàn”(72)

Hoặc là nhẫn súc (73) tiểu biền,

Những nhịn đi đái cho nên chứng này.

“Chuyển” là phiên chuyển (74) vần xoay,

Trở ngôi (75) bong bóng, đái rày chẳng thông.

Thử dùng Quì tử một phong (76)

Uống rồi tay ấn nương long (77) mà đè.

Vuốt ngay đến chỗ hạ lề (78)

Trở xoay bong bóng, tức thì đái ra.

Thuốc tiên phép nhiệm ai qua,

Chữa đâu khỏi đấy người ta đều dùng.
YẾU QUYẾT CHỮA CHỨNG CHUYỂN BÀO
Chứng này, đàn bà có thai thường mắc hoặc do nín nhịn tiểu tiện, hoặc thích ăn các đồ thịt xáo nướng, hoặc sau khi ăn no, bị nhiệt nhiều bức bách, khiến cho đường khí của Tiểu trường nghịch mà không thông. Đường khí của Đại trường cũng nhân đó mà ngừng trệ, nước bên ngoài không thấm vào Bàng quang được, nước ở trong Bàng quang cũng không thoát ra được, nên tiểu tiện thường dẩm dắt mà đi gấp luôn. Mỗi khi đi, đau không thể nhịn được, đại tiện cũng luôn mót đi, tựa chứng lỵ mà không phải lỵ ; nên dùng Chân liệu (79) Qui tử tán làm thuốc chủ trị, sau khí uống tán này, phải lấy tay vuốt từ ngực xuống đến dưới rốn, thì có thể đi tiểu tiện được ngay. Nếu không thì đây là vì bụng trướng, phù thũng ; phải trị bằng thuốc mát, để sơ lợi nhiệt khí ở Tiểu trường ; lại cho thông lợi cả Đại trường, đợi khi trong bụng đau xoắn, đại tiện đi được nhiều, thì bọng đái sẽ tức khắc ngay ngắn trở lại, mà tiểu tiện tự được thuận lợi.
Qui tử tán
Trị đàn bà có thai, bị chứng chuyển bào, tiểu tiện không thông ; cũng trị đàn ông tiểu tiện không thông, đều có công hiệu.



Đông quì

Nửa lạng




Chi tử

Nửa lạng

Sao, nghiền

Hoạt thạch

Nửa lạng

Nghiền

Mộc thông

3 đồng cân



Các vị dùng làm 1 thang, nước 1 bát rưỡi, sắc còn 8 phân, uống ấm.

Ngoài lại dùng Đông quì tử, Chi tử, Hoạt thạch, tán bột giã lẫn với thịt con ốc nhồi ; hoặc trộn với nước cốt Hành tươi làm cao, dán vào rốn ; thì tiểu tiện sẽ thông ngay.
V
Hợp cho thông thai tiền sản hâu,

Thế tục rằng đau máu có phương,

Sinh rồi hết tấc lòng mừng,

Mẹ con đà kẻo sở chưng (?) lo buồn.

Ai ngờ có chứng đau “bân”(80)

Lại rằng đau “cảy”(81) vì nhân cớ nào ?

Kíp vồi mở lửa gói trao (?)

Chẳng hay phép ấy làm sao thế dùng.

Phụ nhân phương (82) chép dòng dòng,

Rằng “nhi chẩm thống”(83) người cùng biết hay.

Nhân trai (84) có lời rằng bay,

“Huyết khối trúc thống”(85) chép bày đề cương.

Biết chứng rồi mới tìm phương,

Chẳng đối nghìn vàng, dùng Bất hoán câm(kim) (86)

Y phương (87) gia vị chớ lầm,

Xuyên khung, Bạch chỉ, Quế tâm tra vào.

Can khương, Nga truật cùng nhiều,

Cắt làm đại tễ, hợp liều đồng tiên (88)

Nhiệt nhập thanh thố (89) cho yên,

Chia làm 2 chén vậy liền uống thôi.

Tán phong hành thấp cho rồi,

Bại ứ (90) đều thẩy ra nơi tiểu biền.

Đã nên kinh nghiệm gia truyền,

Dùng làm đường ấy, thực nên thuốc hèo.
YẾU QUYẾT CHỮA CHỨNG SAU ĐẺ HUYẾT KHỐI XÓI ĐAU
Chứng này do khi mới đẻ, máu hôi chưa chảy ra hết mà gây nên ; nguyên là khi đỡ đẻ, tục thường để sản phụ nằm trên đạp bản (91) mà cán cho máu hôi ra, không nghĩ rằng : Khi đẻ, sản phụ đã phải ngồi ổ rơm gần đất lâu rồi, mà sau đẻ, tạng phủ cũng trống rỗng, nay lại cho cán máu hôi ở gần đất, để khí thấp lạnh và tà phong lọt vào, làm cho máu xấu đọng lại thành khối, gọi là huyết khối, huyết mẫu, rắn chắc đau nhói. Chứng trạng như thế, không phải những thuốc Nhũ tương, Mộc dược, Huyền hồ sách, Ngũ linh chi có thể chữa được ; phải dùng Bất hoàn kim chính khí tán gia Lạt quế, Xuyên khung, Bạch chỉ, Bồng truật, Can khương, thuốc sắc xong, đang lúc còn nóng hòa thêm Dấm thanh vào mà uống. uống liền 2 thang ; máu xấu, máu ứ đều theo đại tiểu tiện mà ra cả.

Phàm người mới đẻ, nên cho nằm trên giường mà cán huyết, và phải buông màn để tránh gió.


Bất hoàn kim chính khí tán


Thương truật

Trần bì (bỏ ruột)

Bán hạ khúc

}

Đều 1 lạng

Hắc hương

Hậu phát (chế Gừng)




Cam thảo







Gia Xuyên khương, Bạch chỉ, Nga truật, Can khương cùng sắc.

Các vị tán bột, mỗi liều uông 2 đồng cân, gia Gừng 5 lát, Táo 2 quả, làm thang mà sắc, sắc xong, đang lúc thuốc còn nóng chế Dấm thanh vào mà uống , uống liền 2 liều, thì khối máu sẽ tiêu hết. Nếu chưa tiêu, thì khấy ấy gia Ngũ hương, Một dược, Huyền hồ sách, Ngũ linh chi cũng được.
Khối đã tiêu này là băng, lậu,

Ngày ngày hàng thấy màu những ra.

Bởi chung huyết khí chẳng hòa,

“Âm hư dương bác” gọi là “huyết băng”

Chữ rằng khí hàn, huyết ngưng,

Khí ôn huyết hoạt thực chăng có ngờ.

Tứ vật thì bổ âm hư,

Sinh liệu Chỉ xác vậy hòa ức dương.

Điều hòa lấy Nhị trần thang,

Khoát đờm (92) thuận khí huyết thường quy kinh.

Chữ rằng huyết tùy khí hành,

Khí dẫn đạo huyết, đã đành dựa nhau.

Hạ nguyên (93) hư bại đã lâu,

Xung Nhâm bất cố, thấy âu lo phiền.

Cửa không còn có khóa then,

Phải phòng khuya sớm lo toan giữ gìn.

Hợp dùng lấy Giao ngải thang,

Đương quy liền có Mộc hương no toàn.

Hợp thành chính dược cho an,

Sắc rồi nuốt Chấn linh đơn cực mầu.

Quan nguyên (94) bền chặt chẳng âu,

Tùy khi mở khép, mặc dầu lòng ta.
YẾU QUYẾT CHỮA CHỨNG BĂNG HUYẾT, LẬU HUYẾT
Sách Tố-Vấn nói : “Âm hư, Dương kích động, gọi là băng” (Âm hư Dương bác vị chi băng). Câu này có hàm ý chứng băng huyết là do huyết gặp nóng mà chảy tràn ra, như Tứ vật thang có thể phù hợp phần âm ; Sinh liệu Chỉ xác tán có thể ức chế phần dương. Ngoài ra, lại dùng Mộc hương Nhị trần thang để điều hòa, khiến âm dương đều được thăng bằng ; huyết sẽ tự theo đường kinh lạc mà đi. Còn như mạch Xung, mạch Nhâm không vững chắc, hạ nguyên suy kém, đến nỗi huyết không then khóa mà thoát ra, thì dùng Giao ngải thang gia Đương qui, Mộc hương chiêu với Chấn linh đan là rất hay.
Tứ vật thang

(Tác dụng bổ huyết, hòa huyết, điều kinh)
Địa hoàng (Sinh địa lương huyết, Thục địa bổ huyết)

Bạch thược (Bạch thược chỉ đau, Xích thược thông kinh)

Đương qui (tẩm rượu sao)

Xuyên khung

Các vị trên, thái làm tễ, sắc uống.
Sinh liệu Chỉ xác tán

(Tác dụng sơ thông khí độc)
Chỉ xác (chế) 5 lạng

Cam thảo (chích) 1 lạng rưỡi

Hai vị tán bột, liều uống 2 đồng cân, thang bằng nước Mộc qua sắc đặc ; nếu cần thông lợi gia Ma nhân, Phục linh.
Giao ngải thang
Chủ trị chứng lao thương huyết khí, kinh nguyệt quá nhiều, dầm dề, băng huyết, lậu huyết, kéo dài nhiều ngày không ngừng, bụng rốn đau nhói.


A giao

Can địa hoàng

}

Đều 4 lạng

Bạch thược




Đương qui (thân)

Ngải cứu (sao qua)




Đều 3 lạng

Xuyên khung

Chích thảo




Đều 1 lạng

Các vị tán bột thô, mỗi liều 3 đồng cân. Dùng nước 1 chén, rượu 6 phân, sắc còn 8 phần, lọc bỏ bã, uống nóng, uống trước bữa ăn lúc đói lòng. Ngày 3 lần ; nếu đau lắm, thì tối uống 1 lần nữa.



VII
Ấy băng lậu này là thổ huyết,

Suy thuận nghịch mới biết căn nguyên,

Bởi chưng khí nghịch đưa lên,

Huyết theo đòi khí cho nên thổ rày.

Người cùng sở biết sở hay (95)

Thượng tiêu có nhiệt, chứng này làm sao ?

Sài, Cầm, liên kết Bồ, Mao (96)

Mảng lo chỉ huyết, thấy hèo chút đâu ?

Ta làm ức khí hợp nhau,

Thanh, Ô, Chỉ, Cách (97) đúng liều cho nên.

Sinh khương 7 nhát sắc liền,

Những viên thông lợi vậy bèn uống thôi.

Khoan trung khai uất cho rồi,

Đại tiện điều đạo (98), khí xuôi huyế dừng.

Dù hòa thấy bịnh đã xưng (99),

Ta làm điều lý ngày hằng phục chi (100)

Phục linh, Bán hạ, Trần bì,

Nhân sâm, Cam thảo, Khung, Quy một liều.

Sá xem hư thực dường nào,

Mặc đòi thấy chứng gia vào liền yên.
YẾU QUYẾT CHỮA CHỨNG THỔ HUYẾT
Huyết theo khí mà vận hành, nếu khí nghịch đưa xốc lên thời huyết không vận hành theo kinh lạc mà thổ vọt ra ngoài. Ai cũng biết rằng thổ huyết do thượng tiêu có nhiệt, nhưng chỉ dùng các vị Sài hồ, Hoàng câm, Mao hoa, Bồ hoàng, mà không biết dùng các vị Chỉ xác, Cát cánh, Thanh bì, Sinh khương, Ô mai để giúp sức, lại không biết dùng những thuốc viên thông lợi để khai thông trung quản, mở đường đại tiện thì khí làm sao mà giáng xuống được ? huyết làm sao mà dẫn xuống được ? ta sợ rằng nó cứ đưa ngược lên mãi, sẽ không có cách gì mà ngăn giữ nữa. Còn như theo phép chữa trước, khí huyết chỉ được rồi, nên dùng Nhân sâm, Xuyên khung, Đương qui, Phục linh, Quất bì, Bán hạ, Cam thảo để điều lý ; hư thì gia Mộc hương ; nóng thì gia Sài hồ ; ủng trệ thì gia Tang bì, Kinh giới, .. cần ở sự cân nhắc của mình.

Các thứ thuốc viên thông lợi như Hóa trệ hoàn, Cảm ứng hoàn, Ôn bạch hoàn, Thần bảo hoàn, thì tùy ý mà chọn dùng.



VIII
Thổ có phép, thông tiện có phép,

Làm thông lợi chớ ép chớ thiên,

Hoặc lấy Đại hoàng sắc lên,

Hoặc lấy Ba đậu tử viên (101) hòa dùng.

Đều thì chẳng thấy được thông,

Âm dương quan cách, (102) trong lòng đau ê.

Thủy hỏa thượng hạ quai khuê (103)

Tâm phúc thống mãn (104) nhiều bề gian nan.

Có nhiệt dùng Bạc hà tiên (105)

Tam hoàng, Lại phục nối liền lợi đi.

Không nhiệt dùng thang Trần bì,

Dưỡng chính, Thần bảo, uống thì lại thông.

Biết này tiêu bản mà dùng,

Mới hầu nên đấng thượng công (106) tay thầy.
YẾU QUYẾT THÔNG LỢI ĐẠI TIỆN
Pháp thông lợi đại tiện, nếu dùng các vị Ba đậu, Đại hoàng mà đại tiện không thông được là vì âm dương ngăn cách, thủy hỏa không thăng giáng ; cho nên có nhiệt thì dùng Lai phục đơn kèm Tam hoàng viên, thang bằng nước sắc Bac hà ; không nhiệt thì dùng Dương chính đan, kèm Thần thảo viên, thang bằng nước sắc Trần bì.
Lại phục đơn
Lưu hoàng, Tiêu thạch (tức Phác tiêu) đều 2 lạng tán nhỏ, cho vào nồi sành sao nhỏ lửa, dùng cành liễu quấy luôn tay ; làm cho khí âm dương hỗn hợp với nhau, rồi đem nghiền cực nhỏ.

Huyền tinh thạch 1 lạng (nghiền nhỏ, thủy phi)

Ngũ linh chi, đổ vào bát nước, quấy đều, để lắng xuống gạn bỏ cát sỏi, phơi khô.

Trần bì, Thanh bì đều 2 lạng

Trước hết lấy Linh chi, Trần bì, Thanh bì tán bột nhỏ, sau cho bột Huyền linh thạch, Lưu hoàng, Tiêu thạch vào, trộn thật đều, rồi dùng dấm tốt quấy hồ làm viên, bằng hạt đậu. Liều uống 50 viên, thang bằng nước sắc Chỉ xác ; uống khí đói lòng.

Tam hoàng viên

Chủ trị chứng tích nhiệt nãi kết, Tam tiêu đều nóng, đại tiểu tiện bế sáp.



Hoàng liên (bỏ rễ con)

}

Đều bằng nhau

Hoàng cầm

Đại hoàng (bọc giấp ướt lùi vào bếp lửa)

Các vị tán bột, luyện mật làm viên bằng hạt ngô đồng ; liều uống 30-40 viên, thang bằng nước sôi.
Dưỡng chính đan
Tác dụng thăng thủy,giáng hỏa, trợ dương tiếp âm. Chữa các chứng ho xốc, phiên vị, đờm kết, chóng mặt, đau lưng, đau bụng, hoắc loạn thổ tả.


Lưu hoàng thứ tốt (nghiền)

Hắc tích (chì)

}

Đều 1 lạng

Chu sa (nghiền nhỏ)

Thủy ngân

Các vị trên dùng một soong sắt, rửa sạch, chuôi nó quấn giấy dày. Trước đem chì đun chảy ra, gạn bỏ cặn, cân đúng 1 lạng ; rồi lại cho vào soong sắt mà nấu, và quấy bằng thìa sắt ; sau lấy bột Lưu hoàng chín 3 đồng cân cho dầu vào ; nếu thấy ngọn lửa bốc cháy lên, cũng không ngại gì, cứ sao quấy nhanh tay khiến cho chì thật chín, không còn nguyên tính, và Lưu hoàng thì cháy hết, chỉ chì còn đem nghiền tan, rây lấy bột nhỏ, còn nhwngxhonf to chưa tan, tì lại sao và nghiền nhỏ lại, sau cho vào soong. Đặt lên lò lửa nhỏ, mà mấu chảy ra, lại cho vào Lưu hoàng chín 1 lạng (nghi là 7 đồng cân vì vị này chỉ có 1 lạng, trước đã cho vào 3 đồng cân rồi). Phải cho dần, và sao quấy luôn tay, khi thấy bốc khói vàng, thì kíp bắt ra, đặt trên lò nguội. Lát sau, lại bắc qua lò lửa mà sao quấy lên. Khí chì với Lưu hoàng đều biến thành sắc đen, và thật điều hòa rồi, thì lại đem ra để trên lò nguội. Đợi chì và Lưu hoàng hơi nguội, lại bắc qua lò lửa, với sức lửa rất nhỏ, độ một lúc, thì cho Thủy ngân vào, dùng thìa sắt quấy luôn tay, đừng để bốc khói xanh, sẽ bay mất Thủy ngân ; và cho Chu sa vào ; khi ấy phải luôn tay sao quấy khiến cho thuốc thật điều hòa, rồi đổ ra đất, chờ cho rắn lại, lấy tán thành bột, luyện với hồ gạo nếp, viên bằng hạt đậu xanh, liều uống 30 viên, uống với nước muối lúc đói lòng.


Thần bảo viên
Mộc hương Hồ tiêu đều 1 phân

Ba đậu 10 hạt (bỏ vỏ màng, nghiền)



Toàn yết khô 7 con
Các vị tán bột, nấu nước chưng bính (107) luyện làm viên, bằng hạt vừng. Chu sa làm áo. Liều uống 3 viên.

  • Đau vùng tim và cách mạc, thang bằng nước sắc tai hồng và bấc.

  • Đau bụng, thang bằng nước sắc Gừng nướng.

  • Đau bụng thuộc huyết, thang bằng nước sắc Gừng sao và hòa thêm Dấm thanh.

  • Phế khí thịnh, suyễn nhiều dùng Bạch phàn, Cáp phấn (đều 3 phân – Hoàng đơn 1 phân) cùng nghiền làm bột và nước sắc vỏ rễ dâu, gạo nếp, hòa với 3 viên thuốc Thần bảo mà uống. Suyễn vừa, chỉ dùng nước sắc vỏ rễ dâu, gạo nếp hòa uống.

  • Chứng thận khí đau dưới sườn, uống với rượu ngâm Hồi hương sao.

  • Thức ăn cũ không tiêu, uống với nước chè hoặc rượu.

  • Các chứng khí, chỉ có chứng Bàng quang khí, đau dưới sườn, là rất khó chữa ; riêng có thuốc này mới trừ được. Có người đau gân gáy, các thầy đều chữa theo chứng phong, mấy tháng không khỏi, bịnh chạy vào thăn lưng, lâu ngày lại vào sườn bên phải, đau gò, rất khổ, cho uống thuôc này, chỉ một lần là khỏi, nếu ngày hôm sau tái phát, lại cho uống một lần nữa là khỏi hẳn.



IX
Đại tiện, kể một ngày, một phát,

Bằng tiểu tiện tính hết có ba (108)

Ấy là khí huyết điều hòa,

Ẩm thực hữu tiết (109)người ta yên lành.

Dù thấy thủy đạo bất hành (110)

“Kỳ bản tại Thận”, đinh ninh (111) suy cầu.

Hơn dùng Trạch tả, Khiên ngâu (ngưu)

“Kỳ mạc tại Phế”(112) thông nhau đi về.

Hợp dùng Đình lịch, Tang bì,

Gồm được hai ấy tức thì nên công.

Thêm vào Hoạt thạch, Mộc thông.

Tự nhiên thấu đạt bên trong niệu bào (113)

Đại tiện thông trước, ắt sau tiểu hành (114)

Đại, tiểu (115) mạch lạc thông nhau,

Hợp dùng Thần báo, Bắc đình,

Đại tả sổ hành, tiểu tiện thuận lưu (116)
YẾU QUYẾT CHỮA CHỨNG TIỂU TIỆN KHÔNG THÔNG
Phàm bịnh tiểu tiện không thông gốc nó ở Thận, nên dùng Khiên ngưu, Trạch tả ; ngọn nó ở Phế, nên dùng Đình lịch, Tang bì. Kiêm cả 2 cách chữa ấy, tất nhiên trúng bịnh. Ngoài ra lại dùng Mộc thông, Hoạt thạch làm phụ tá, để có sức thấu suốt đến Bàng quang. Tuy vậy, đại tiện, tiểu tiện, mạch lạc thông với nhau, người ta thường nói : “Tiểu tiện không thông, chỉ dùng Thần bảo hoàn, Bắc đình hoàn, cho đi tả mạnh vài lần, tiểu tiện tự thông lợi ngay.
X
Ấy vị sao gọi là lâm bế

Nhân tiểu tiện sáp trệ chẳng thông,

“Lâm” là lâm lịch trường trung (117)

“Bế” là bế sáp ở trong niệu bào (118)

Tuy có khí, huyết, cao, lao, (119)

Thạch lâm (120) một chứng khôn tiêu thay là !

Dù muốn công liệu (121) cho ra,

Dùng Chỉ xác tán vậy hòa sơ tiên (122)

Đói lòng uống LAI PHỤC ĐƠN

Hòn sỏi theo nẻo tiểu biền mà ra.
YẾU QUYẾT CHỮA CHỨNG THẠCH LÂM
Cao lâm là chứng đọng mở, thì dễ tan, còn Thạch lâm là chứng kết khối thì khó tiêu. Chữa chứng thạch lâm chuyên dùng bài CHỈ XÁC TÁN sắc uống, và trước bữa ăn, lúc đang đói lòng, nuốt LAI PHỤC ĐAN là rất hay. Chỉ sợ vị Thái-âm Huyền tinh thạch (123) không có thứ thuốc thực, cần tìm được thứ thực, và uống thường xuyên. Một khi do sự quan lạc, thông suốt với nhau, bổng nhiên đại tiện đi lỏng mấy lần, hòn sỏi tự nhiên theo đường tiểu tiện mà ra.
Chỉ xác tán
Chỉ xác (chế) 5 lạng

Cam thảo (chích) 5 đồng cân


Hai vị tán bột, liều uống 2 đồng cân, thang bằng nước Mộc qua sắc đặc. Nếu muốn lợi đại tiện, thì gia Ma nhân.
Lai phục đan

(xem mục Thông lợi đại tiện ở trên)



XI
Ấy lâm gia, này là ngược tật (124)

Vì cớ sao không dứt, có căn (125)

Tích là ngược mẫu chi nguyên (126)

Đình súc hoàng thủy (127) bởi nhân lâu ngày.

“Thử ngược”(128) thuần nhiệt sốt ngay,

Dùng Hương như tán, gia nay Thanh, Hoàng (129)

Ô mai 2 quả, sắc thang,

Uống ấm lúc sáng tinh sương giờ Dần.

“Hàn ngược”(130) rét thay nhiều phần,

Thanh, lương gia nhập Nhị trần thang tiên (131)

Nuốt với THẦN BẢO 5 viên,

Hạ dược độc thủy (132) ngược liền trừ căn.

Dù hòa thấy trung niên nhân (133)

Tạng phủ hư kém, thường phân hoạt rồi.

Sẩy phải ngược tật thương ôi,

Thượng ẩu hạ tiết (134) ngược xuôi chẳng dừng.

Nhân sâm chỉ ẩu công năng (135)

Sa, Đậu (136) hợp NHỊ TRẦN THANG hòa cùng.

Ấy phương giản dị thành công,

Ngược gia (137) ẩu thổ, chớ dùng Thường sơn.

Dù thấy ngược tật lưu niên,

Tích là ngược mẫu căn nguyên lâu ngày.

Sốt một, hai, ba năm (138) chầy.

Liên nhật, cách nhật (139) chứng này làm sao ?

Thầy kia thuốc nọ chỉn nhiều,

Tật thì chưa dã, chước nào chữa toan.

Chẳng qua tìm lấy Thường sơn,

Thắng Kim, Triệt ngược, thuốc tiên sánh tầy.

Có người sốt đã lâu ngày,

Bịnh có huyết chứng, sự này gian nan.

Ta làm Thảo quả, Thường sơn,

Ô, Tân, Cam thảo, Đồng tiên (140) Thanh bì.

Đào nhân với Ngũ linh chi,

Hợp cùng Khương, Mật, tức thì nùng tiên (141)

Ấy là ngược tật gia truyền,

Nay lời lại dám răn khuyên các thầy.

Cơn ngược dù sắp thấy rày,

Cùng cơn chính phát khi này mà nghi.

Chớ cho uống thuốc làm chi,

Hợp dùng vị phát lưỡng thì chi tiên (142)
YẾU QUYẾT CHỮA BỊNH SỐT RÉT
Phàm bịnh sốt rét là do trong bụng tích chứa nước vàng, chì vì thủy không lưu hành, nên có chứng trạng sốt rét không dứt cơn. Đó là cái nguồn gốc phát sinh bịnh này.
Về phép chữa :

  • Chứng “thử ngược” thì thuần nóng, dùng Hương nhu tán gia Thanh bì, Bắc đại hoàng, Ô mai 2 quả, cùng sắc uống ấm lúc sáng sớm.

  • Chứng “hàn ngược” thì rất nhiều, dùng NHỊ TRẦN THANG gia Thanh bì, Cao lương khương, sinh khương (vị này dùng nhiều). Cùng sắc uống sáng sớm, chiêu với 5 viên THẦN BẢO HOÀN, đều là muốn tẩy sạch chất nước độc, thì bịnh sẽ trừ căn, mà nóng rát tự khỏi.

  • Chứng sốt rét mà có nôn mửa, chớ dùng Thường sơn. Có một người trung niên, tạng phủ h kém đã lâu, đại tiện thường hoạt, bổng mắc bịnh sốt rét, nôn mửa bất thường, bịnh này phải chuyên dùng Nhân sâm mới khỏi nôn mửa. Còn các phương thuốc chữa sốt rét khác, đều không dùng được ; bèn cho uống Nhị trần thang gia Nhân sâm, Sa nhân,và bội dụng Bạch đậu khấu, uống 1, 2 thang bịnh nhân cảm thấy khí mạch thanh sảng, khoan khoái, rồi không lên cơn sốt rét nữa ; vì Bạch đậu khấu có tác dụng tiêu mòn độc tà, lưu hành khắp tam tiêu, khiến cho vệ khí chuyển vận cả toàn thân, thì nóng rát tự khỏi. Vậy sau này có chứng sốt rét mà nôn mửa, hoặc là người đó hay nôn mửa mà phát sốt rét, chớ nên dùng Thường sơn, chỉ dùng củ Cải sống, Gừng sống, đều giả lấy nước cốt nửa chén, thêm vào 3, 4 thìa Mật, 2 quả Ô mai, cùng ắc uống với 3, 4 viên Hùng hoàng hoàn ; đợi khí đi ngoài ra được, những chất đờm nước và huyết xấu, thì cho uống Nhân sâm, Bạch linh, Xuyên khung, Bán hạ, Sa nhân, để điều hòa. Nếu vạn nhất nôn mửa không thôi và nóng không lui, thì dùng chính phương TIỂU SÀI HỒ THANG, và cho nhiều Gừng sống mà điều trị. Nếu nôn mửa dữ dội mà lại phát sốt, trước nên cho uống TRỊ NGƯỢC SINH THỰC ẨM, nôn mửa yên rồi, thì tiếp dùng Tiểu sài hồ thang.

Bịnh sốt rét có 2 nguyên nhân “THỦY và HUYẾT. THỦY là thủy ẩm, HUYẾT là ứ huyết. Do thủy ẩm cho nên phát ra sốt rét, do ứ huyết cho nên tăng nhiều sốt rét. Dùng Thường sơn để trục thủy lợi ẩm là tất nhiên, nhưng nếu không có thuốc hành huyết để trợ lực thì sao mà thu được công hiệu trọn vẹn. Từ nay, phàm người bị bịnh sốt rét ma hoặc đổ máu mũi, hoặc nhổ ra máu, hoặc đi đại tiện ra máu, hoặc kinh nguyệt bỗng có bỗng không, đều là chứng huyết, nên dùng Thường sơn, Thảo quả, Tân lang, Thanh bì, Ô mai, Cam thảo, phối hợp làm 1 phương, và gia Ngũ linh chi, Đào nhân làm tá sứ ; lại cho Gừng sống và Mật đặc vào, cùng sắc uống, đó là phương thuốc chủ yếu chữa chứng này.
Hương nhu tán

(Tác dụng giải thử ngược, chỉ hoắc loạn)
Hương nhu 2 lạng Hậu phát (chế) 1 lạng

Phục linh, Trần bì, Cam thảo(chích) đều dùng 5 đồng cân

Cao lương khương 3 đồng cân

Gia Thanh bì, Bắc đại hoàng, Ô mai

Các vị thái nhỏ, mỗi lần dùng 2 đồng 5 phân, cho thêm 1 ít Muối ; sắc uống.
Nhị trần thang
Trần bì (bỏ cùi trong) Bán hạ (chế) đều 5 lạng

Phục linh 3 lạng Cam thảo (chích) 1 lạng

Gia Thanh bì, Lương khương

Các vị tán nhỏ, và gia nhiều Gừng sống ; cùng sắc uống lúc sáng sớm, chiều với 5 viên Thần bảo hoàn.



Hùng hoàng hoàn

(Chủ trị chứng suyễn phải thành kính mà chế tạo)


Hùng hoàng (nghiền)

Bạch phàn (nung)

}

Đều 1 phân

Mộc hương

Đình lịch (sống)

Mã dâu linh (bỏ vỏ)

Kê nội kim

}

Đều 3 đồng rưỡi

Đạm đậu xị




Thạch tín (thứ nhọn, sáng, nghiền sống)

1 phân rưỡi

Tám (8) vị trên dùng đúng phân lượng, tán bột, luyện với hồ nước cơm làm viên, bằng hạt hồ tiêu. Liều uống 5 viên; uống lúc sắp đi ngủ với nước chè hơi nguội.



Chú ý : liều uống chỉ tăng đến 7 viên là cùng, và ngày hôm sau phải kiêng ăn những thứ nóng. Cần nhai đậu Xanh sống để giải độc Thạch tín.
Thăng kim hoàn
Chữa tất cả các chứng sốt rét, nóng rét bất thường, nôn mửa, nhức đầu, phiền khát, suyễn thở, đờm tụ, bụng đầy.

Xuyên Thường sơn (tẩm rượu chưng, sấy khô) 4 lạng

Kê tâm Tân lang (143) 1 lạng
Hai vị tán bột, luyện hồ bột mì làm viên, bằng hạt ngô đồng, liều uống 30 viên, thang bằng rượu lạnh. Uống chận trước cơn nửa ngày. Uống xong đi nằm ngủ, kiêng uống nước nóng, ngày hôm sau lại uống 20 viên với rượu lạnh, nhưng kiêng ăn uống. Qua ngày hôm sau nữa mới được ăn uống.
Dị giản Thắng kim đan
Bài này có thể triệt được các chứng sốt rét, không cứ sốt hàng ngày hay cách ngày, đều công hiệu.

Thường sơn 2 lạng

Thanh táo 5 đồng cân.
Hai vị tán bột, dùng rượu nấu hồ làm viên, bằng hạt Khiếm thực. Liều uống 5 viên, ngâm vào rượu cho tan ra, uống một nấc trước cơn sốt 2 giờ.
Triệt ngược đan
Một phương thuốc chặn cơn sốt hiệu nghiệm (phải thành kính mà chế tạo)

Thổ chu (thủy phi sạch sẽ, tán nhỏ) 2 lạng rưỡi

Thạch tín (chọn thứ có cạnh nhọn, để sống, nghiền nhỏ) 5 đồng cân

Bột đậu Xanh 2 lạng (nửa để sống, cho vào thuốc, nửa để nấu hồ)


Các vị trên, sau khi tán bột, trộn đều, luyện với hồ bột đậu Xanh làm viên, to bằng hạt vừng. Liều uống chỉ 2 viên, thang bằng nước giếng mới múc (kín) nghiền cho dẻo ra, uống lúc đói lòng, ngày hôm ấy chỉ ăn uống ít thôi.
Chỉn đà nên bí Truyền kinh nghiệm.

Những phương mầu phép nhiệm chẳng ngoa,

Tiên sư nào có dối ta,

Học thực, dùng thực, mới là chẳng sai.

Danh thơm đồn khắp mọi nơi,

Chữa đã trăm người, phúc được dư muôn.

Nền nhân cây đức cao vun,

Thịnh cường hưng vượng, nhi tôn (144) càng nhiều.

Nhà còn Sâm Truật giống yêu (145)

Sân đầy Hòe, Quế, Hạnh, Đào nở hoa.

“Bạch đầu ông”(146) tuổi thêm già,

“Tóc tiên” rà rà, “má tía” hân hân (147)

“Xa tiền, Mã vĩ”(148) lui chân,

“Đương qui”việc giãn, “Tế tân” ngày rồi.(149)

Trên yên “Kinh mặc”(150) mài rồi,

Trước song tìm đòi, “Cố chỉ, Phòng phong”(151)

Tay nâng mộc bút (152) ôm lòng,

Thảo chơi “cảo bản” thong dong chép thành (153)

o0o
CHÚ THÍCH



(của Phương pháp biện chứng luận trị)


  1. Chi thiện đường : tên nhà đọc sách của Lão Mai.

  2. Lão Mai am : tên hiệu của người biên chép tập “Phương pháp biện chứng luận trị” này.

  3. Quân, Sư, Phụ : vua, thầy, cha. Cha sinh đẻ, thầy dạy dỗ, vừa bảo dưỡng. Là 3 bậc ngươi phải thờ phụng tôn kính, theo quan điểm thời xưa.

  4. Khả ngĩ : khá nên (tác giả đặt khả nghi để chữ nghi hiệp vần với chữ chi ở câu dưới)

  5. Y giả nhân chi tư mệnh : xem chú thích ở tập “Thương hàn cách pháp trị lệ”

  6. Thần Nông : xem chú thích ở tập “Bài phú thuốc Nam”

  7. Lưa : tiếng cổ, cũng nghĩa như thừa. thừa lưa : như nói thừa thãi

  8. Tướng, y : làm tướng và làm thuốc. Phạm-Trọng-Yêm, một danh thần đời Tống khi nói chí nguyện của mình, có câu : “Bất vi lương tướng, tất vi lương y”, nghĩa là không làm tể tướng giỏi, thì phải làm thầy thuốc giỏi ; ý nói làm tướng hay làm thuốc đều cũng một tâm chỉ giúp dân giúp nước cả. – cùng, đạt : cùng là người không có chức vị, chỉ thầy thuốc, đạt là người có chức vị, chỉ tể tướng. Đây nói tướng với y về danh vị tuy khác nhau nhưng về việc làm thì cũng như nhau.

  9. Tam đại hữu hưng : ba đời hưng thịnh. – Lãn Ông có nói : “Ba đời làm thuốc, thì con cháu sau sẽ có người làm nên khanh tướng”.

  10. Mặc nghiệm : lẵng lặng mà nhận xét, chỉ sự nhận xét thầy thuốc.

  11. Chuyết, công : vụng, khéo ; chỉ thầy dở và thầy hay.

  12. Thiển, thâm : nông sâu. Đoạn này nói cái yếu quyết tìm thầy hỏi bịnh, theo đường hướng của Tô-Đông-Pha (xem lời của Tô-Đông-Pha ở bài dưới)


I
YẾU QUYẾT TÌM THẦY HỎI BỊNH


  1. Đông-Pha : tức Tô-Thức, tự Tử-Chiêm, hiệu Đông-Pha, cư sĩ, nhà đại văn hào đời Tống. Ông có tham khảo về y-học, còn truyền lại sách Tô, Thẩm lương phương, trong có những tập thuyết bàn về y lý của ông.

  2. Đặc thủ ứng tâm : do câu sách Trang-Tử “Đắc chi ư thủ, ứng chi ư tâm” nghĩa là được ơ tay, ứng ở lòng, chỉ một việc làm có sự tương ứng, ăn nhịp với nhau giữa tay với lòng. Đây nói phải bằng cứ ở mạch để biện rõ chứng, sao cho có sự ăn khớp với nhau.

  3. Y giả ý giả : Y có nghĩa là ý-thức vậy (một thành ngữ mà người xưa thường dùng để giải nghĩa chữ Y). Nói việc làm thuốc phải có ý thức để mà suy đoán. Đây nói phải hỏi kỹ ở chứng để tham khảo lại mạch, sao cho có một ý thức suy đoán.

  4. Vô Khái : tên người không rõ là ai ? nghi là chữ Vô kỷ chép lầm. Vô kỷ tức Thành-Vô-Kỷ, người đời Kim, chuyên theo phương pháp Thương-hàn-luận của Trọng-Cảnh, từng phân tích những bịnh chứng biểu lý hư thực ý nghĩa rất sâu sắc, có sách Thương-hàn luận chú giải Thương hàn minh lý luận truyền ở đời. Câu “Không có tích không thành hạ lỵ” là dịch ở câu “Phi tích bất thành lỵ” , nghi là lời nói của Vô-Kỷ. Hai chữ Vô-Khái ở phần yếu quyết dưới đây cũng thế.

  5. Lộ đồ : chính nghĩa là đường lối, đây dùng như nghĩa chứng loại.

  6. Đổ nhiệt triền thống : bụng nóng mà đau quặn.

  7. Chẳng lắp : không võ nghĩa.- Kíp vồi : tức kíp vội (chữ vội tác giả thường dùng là vồi)

  8. Bàn hoàn, bức bách, bôn ba : quanh quẩn, bức tức và tất tưởi ; tả cái tình trạng không khổ của bịnh đi lỵ.

  9. Nhẫn : đến, tới ; tiếng cổ.

  10. Phượng vĩ : tức Phượng vĩ thảo, cỏ Seo gà.- Lệ phòng : vỏ quả Vải.

  11. Bầu bí : tức Ngũ bội tử.

  12. Rơm chữa nhà cháy : ý nói bịnh lỵ là do tích trệ, đáng lẽ phải dùng thuốc thông lợi, nay lại dùng thuốc cố sáp, thì tích trệ càng tích trệ, khác nào đe rơm mà chữa nhà cháy vậy.

  13. Đấng phàm : hạng người phàm tục ; (đấng cũng nghĩa như loài)

  14. Bóng bà, thủy tộc, thủy quan : chỉ các loại đồng bóng và tà ma dưới nước.

  15. Nguyễn Ngung, Hoàng Cấn, Phạm Nhan : tên các ma quỷ.

  16. Rước công : không rõ nghĩa.- Thờ cốt : như nói thờ ma.

  17. Lỵ xuất tích trệ : bịnh lỵ do tích trệ mà ra. Sự chăng : tức sự chẳng (đặt âm chàng cho hợp vần)

  18. Nhiễu tề lý cấp : là trong bụng, nói bụng đau gấp ở quanh vùng rốn.

  19. Hậu trọng : hậu là giang môn, hậu trọng nói khi đi ngoài, chỗ giang môn có cảm giác bực tức, không đi ra được.

  20. Hạ lỵ bịnh nhân : người bịnh bị hạ lỵ.

  21. Cảm thụ : mắc phải.

  22. cả mọn, mau thưa : to nhỏ và nhanh chậm, chỉ mạch tượng.

  23. Nhất giai thông lợi hành chi : nhất nhất đều chữa bằng phương pháp thông lợi để tiêu đi (chữ chi là đại danh tư, đặt thay cho bịnh lỵ)

  24. Hí bổ ố công : thích bồi bổ mà ghét công phạt.

  25. Công trung bổ tồn : trong thuốc công vẫn có thuốc bổ.

  26. Thông nhân thông dụng : thuốc thông lợi nhân bịnh thông lợi mà đắc dụng, như chứng tả lỵ không ngừng, chữa bằng thuốc nhuận hạ mà khỏi, đó là một phương pháp phản trị của Nội-Kinh (Chí chân yếu đại luận)

  27. nước trong : chỉ nước giếng mới múc (kín) về.

  28. Lỵ gia : nhà lỵ, như nói về bịnh lỵ.- Pháp yêu : phép quỷ.

  29. Ba đậu Đại hoàng : tức BA ĐẬU ĐẠI HOÀNG VIÊN (xem bài thuốc ở dưới)

  30. cẩm văn : văn gấm, vị Đại hoàng có văn gấm là thứ tôt, nên thường gọi Cẩm văn Đại hoàng.

  31. giờ Dần : giờ sáng sớm.

  32. hành Tâm : thông vào tâm.

  33. hạ trụy lý cấp : trệ nặng ở dưới và bụng đau gấp (chữ hạ trụy cũng giống nghĩa chữ hậu trọng)

  34. viên : thuốc viên, thuốc hoàn. Chữ viên đây cũng nghĩa như chữ hoàn ; các sách xưa thường gọi hoàn là viên.

  35. Tiểu trường sán khí : xem chú thích ở tập “Mười ba phương gia giảm”

  36. Huyết khí luận : tên sách hoặc tên mọt bài luận thuyết của người xưa.

  37. viên : xem chú thích (46) trên.

  38. Rượu vô hôi : xem chú thích ở tập “Bài phú thuốc Nam”


II
TIẾT TẢ


  1. Tỳ, Thận : tức 2 chứng Tỳ tiết Thận tiết nói ở dưới.

  2. Trung quản : nguyên là một từ chỉ bộ phận giữa của dạ dày, đây dùng như nghĩa trung vị, Vị phủ.

  3. Hư hoàng : mặt vàng thuộc thể hư (trái với thực hoàng là mặt vàng thuộc thể thực)

  4. Thương, Bạch : tức Thương truật, Bạch truật.

  5. Đau chợt : đau bất thần (nguyên văn là sạ thống)

  6. Bổ cốt chỉ : tức Phá cố chỉ, một vị thuốc chủ trị về bịnh Thận.


III
THAI NHIỆT TỰA LỴ


  1. Lệ thay : không rõ nghĩa nhi như nói hại thay.- Tử phiền : phụ nữ khi có thai mà trong tâm buồn bực chẳng yên, hay hồi hộp, kinh sợ, gọi là tử phiền, thường do âm hư, đàm hỏa, hay Can uất gây nên.

  2. Tâm phúc trướng mãn : ngực bụng trướng đầy.

  3. Làm nau : như nói làm khốn khó.

  4. Chín một nồi sôi : tức thổi chín một nồi xôi, nói khi đi đại tiện, phải ngồi rặn lâu với cái thời gian như thế.

  5. Khí hạ : khí thông xuống, ý nói khi có khí thông xuống thì mới đi đại tiện được.

  6. Nhiễu bất khả nhiễu : bịnh đã rối loạn rồi, không nên làm cho rối loạn nữa. 4 chữ này, nguyên bản chép là Nhiễu bình khả nhiễu chữ bình không có nghĩa, nên chúng tôi tạm sửa là bất cho thông ý nghĩa.

  7. Sao tinh : sao cẩn thận.

  8. Điều đạo : điều hòa khai thông.



IV
CHUYỂN BÀO


  1. Chuyển bào : chuyển bọng đái, tức chứng phụ nữ có thai mà tiểu tiện không thông, do bào thai đè ép bọng đái, gây thành chứng trạng bụng dưới đầy trướng, hơi đau. Tiểu tiện không thông. Chứng này thường có liên quan với chứng trung khí bất túc.

  2. Thận vi biểu lý : Thận là biểu lý với Bàng quang. Nhân duyên nói có quan hệ mật thiết với nhau.

  3. Bàng quang chẳng có cửa trên : người xưa cho rằng Bàng quang chỉ có cửa dưới, không xó cửa trên (Bàng quang hữu hạ khẩu, vô thượng khẩu), nước trong Bàng quang là do đường tiểu trương thấm vào. Đây theo thuyết xưa, không đúng với giải phẩu học hiện nay.

  4. Tiểu biền : tức tiểu tiện.

  5. Mỹ vì : tức mỹ vị, thức ăn ngon.

  6. Dâm phong : đây dùng như nghĩa dâm dục, hành phòng : chỉ sự vợ chồng giao hợp với nhau.

  7. Túy bão lao phòng : rượu say, cơm no, lao lực và hành phòng, chỉ những nguyên nhân gây bịnh.

  8. Mua lăng mua loàn : không xó nghĩa và cũng không có vần, nghi chép sai cả.

  9. Nhẫn súc : nhịn nín.

  10. Phiên chuyển : quay chuyển.

  11. Trở ngôi : nói bong bóng quay trở các vị trí của nó, tức là nó quay cái miệng đi đái lên trên, nên không đái được (đây theo thuyết xưa, không đúng ; xem chú thích 67 ở trên.)

  12. Một phong : một gói, tức một thang thuốc.

  13. Nương long : vùng ngực.

  14. Hạ tề : như nói tề hạ, dưới rốn.

  15. Chân liệu : liệu thuốc chân chính.

V
SẢN HẬU HUYẾT KHỐI XÓI ĐAU
80-81. Bàn, cảy : 2 tên gọi của chứng huyết khối xói đau sau khi đẻ.

82. Phụ nhân phương : phương thuốc “phụ khoa”

83. Nhi chẩm thống : tức chứng đau Cảy nói trên, vì đau ở vùng dạ con, nơi thai nhi gối đầu, nên gọi là “nhi chẩm” (thai nhi gối đầu.)

84. Nhân trai : tên hiệu của Dương-Sĩ-Doanh, một danh y đời Tống, có sách Nhân trai trực chí truyền ở đời.

85. Huyết khối trúc thống : chứng khối xói đau.

86. Bất hoán câm : tức BẤT HOÁN KIM CHÍNH KHÍ TÁN. Bài chép ở dưới (xem thêm chú thích ở tập “Mười ba phương gia giảm”)

87. Y phương : cứ theo như phương ấy.

88. Đồng tiến : cùng sắc lên.

89. Nhiệt nhập thanh thố : thanh thố là Dấm trong, ý nói đang lúc thuốc nóng, hòa vào một ít Dấm trong.

90. Bại ứ : tức ại huyết và ứ huyết, huyết xấu và huyết ứ.

91. Đạp bản : khong rõ nghĩa, nghi là miếng ván mỏng dùng để lót chân đặt trên mặt đất chỗ gần giường nằm.
VI
BĂNG LẬU
92. Khoát đàm : khai thông chất đờm.

93. Hạ nguyên : hạ tiêu, chỉ Can, Thận.

94. Quan nguyên : cỗi gốc then khóa.
VII
THỔ HUYẾT
95. Sở biết, sở hay : chỉ sự hay biết của mỗi người (sở là đại danh từ, đặt thay cho sự hay biết của người ấy)

96. Bồ, Mao : tức Bồ hoàng, và Mao hoa.

97. Thanh, Ô,Chỉ, Cánh : tức Thanh bì, Ô mai, Chỉ xác, và Cát cánh.

98. Điền đạo : xem chú thích 64 trên.

99. Xung : khỏi.

100. Phục chỉ : uống thuốc ấy, theo thuốc ấy mà uống (chữ chỉ là đại danh từ, đặt thay cho liều thuốc điều lý)


VIII
THÔNG LỢI ĐẠI TIỆN
101. Ba đậu tử viên : thuốc viên hạt Ba đậu

102. Quan cách : ngăn cách.

103. Quại khuê :trái lìa nhau.

104. Tâm phúc thống mãn : vùng ngực bụng đau đầy.

105. Bạc hà tiên : nước sắc Bạc hà (để chiêu với thuốc hoàn)

106. Thượng công : xem chú thích ở tập “Bài phú thuốc Nam”

107. Chưng bính : một thứ bánh hấp, làm bằng bột Tiểu mạch, có tác dụng tiêu thực, hóa trệ, dưỡng Tỳ Vị, lợi Tam tiêu, thông thủy đạo.
IX
TIỂU TIỆN BẤT THÔNG
108. Tính hết có ba : ý nói tiểu tiện mỗi ngày phải đi 3 lần.

109. Ẩm thực hữu tiết : ăn uống có tiết độ (nói khi không có bịnh)

110. Thủy đạo bất hành : đường nước không thông.

111. Kỳ bản tại Thận : xem chú thích 112 ở dưới.- Đinh ninh : cặn kẻ.

112. Kỳ bản tại Thận, kỳ mạt tại Phế : nguyên là 2 câu luận về bịnh thủy thũng ở Nội-kinh (Thủy nhiệt huyệt luận), bản, mạt : chỉ gốc và ngọn bịnh thủy thũng, nói gốc nó thì ở Thận, mà ngọn nó thì truyền lên Phế.

113. Niệu bào : tức bọng đái, Bàng quang.

114. Tiểu hành : tiểu tiện thông ra.

115. Đại, tiểu : đại tiện, và tiểu tiện.

116. Đại tả sổ hành : đi tả mạnh vài lần.- Thuận lưu : thuận dòng.
X
THẠCH LÂM
117. Lâm lịch trường trung : dầm dắt ở trong đường ruột (người xưa cho nước tiểu là nước ở Tiểu trường thấm vào Bàng quang, nên bịnh lâm phát sinh, là do nước dầm dắt trong đường Tiểu trường, không thấm vào Bàng quang được, không đúng với giải phẩu học hiện nay)

118. Niệu bào : xem chú thích 113 trên.

119-120. Khí, huyết, cao, lao, thạch : tức 5 chứng lâm. Xem chú thích ở tập Y luận. Đây nói trong 5 chứng lâm, thì thạch lâm là khó chữa hơn nên đề ra phương pháp chữa chứng đó.

121. Công liệu : công là đánh, liệu là trị liệu. Nói trị liệu bằng cách đánh mạnh vào bịnh.

122. Sơ tiên : sắc uống đầu tiên.

123. Thái âm Huyền tinh thạch : Huyền tinh thạch là một loại đá mặn, do khí chí âm kết thành, nên gọi là Thái âm. Bản thảo cương mục gọi là Thái ất Huyền tinh thạch, có tác dụng giải nhiệt tư âm.


XI
SỐT RÉT
124. Lâm gia : người có bịnh lâm ; cũng chỉ loại bịnh lâm.

125. Không dứt, có căn : cơn nóng rét không dứt, là do có một căn nguyên.

126. Tích : tên gọi một bịnh tích khối, ẩn náu ở 2 bên sườn. Có ẩm tích, đàm tích, huyết tích. Các chứng do ăn uongs không điều tiết, những chất nước, đờm, huyết kết tụ lại mà thành bịnh ; đây chỉ chất nước vàng tích chứa ở trong bụng.- Ngược mẫu : cái tích khối sốt rét, báng sốt rét (chỉ chung các loại tích khối làm ra bịnh sốt rét). Đây nói cái tích tức chất nước vàng tích trong bụng, nó là căn nguyên của tích sốt rét.

127. Đình súc hoàng thủy : tích chữa nước vàng, nó là một loại bịnh tích nói ở câu trên.

128. Thử ngược : chứng sốt rét do cảm nắng.

129. Thanh, Hoàng : tức Thanh bì, và Đại hoàng.

130. Hàn ngược : chứng sốt rét do cảm hàn.

131. Thanh, Lương : tức Thanh bì, và Lương Khương.



Thang tiên : tiên là sắc uống, nói dùng thang NHỊ TRẦN gia Thanh, Lương mà sắc uống.

132. Độc thủy : chất nước độc hại, chỉ chất nước vàng nói trên.

133. Trung niên nhân : người trung niên, người đứng tuổi.

134. Thượng ẩu hạ tiết : trên ẩu thổ dưới tiết tả.

135. Chỉ ẩu công năng : có công năng chỉ ẩu thổ.

136. Sa, Đậu : tức Sa nhân và Bạch đậu khấu.

137. Ngược gia : người có bịnh sốt rét.

138. Một, hai, ba, năm : tức 1,2,3, 5 ngày.

139. Liên nhật, cách nhật : liền ngày hay cách ngày một cơn sốt rét.

140. Ô, Tân : Ô mai và Tân lang.- Đồng tiên : cùng sắc lên.

141. Nùng tiên : sắc đặc.

142. Vị phát : khi chưa lên cơn sốt rét.- Lưỡng thì chỉ tiên : trước 2 giờ ; ý nói phải uống thuốc chặn trước cơn sốt 2 giờ.

143. Kê tâm Tân lang : vị Tân lang nhỏ hạt, giống như trái tim gà ; gọi là kê tâm, là thứ tốt.
XII
KẾT ĐỀ
144. Nhi tôn : con cháu.

145. giống yêu : giống quỉ.

146. Bạch đầu ông : ông già bạc đầu. Đây chỉ người thầy thuốc già (nghỉ là Lão mai am ; chỉ mình)

147. Rà rà : một hình dung từ, tả mái tóc tôt đẹp.- Hân hân : cũng một hinh dung từ, tả diện mạo hồng hào.

148. Xa tiền mã vĩ : trước xe sau ngựa, chỉ vòng ngựa xe danh lợi. (Cung oán có câu : Mồi phú quí dử lòng xa mã)

149. Đương qui : nghỉ về nhà.



Tế tân : tế là giao tế, tân là tân khách ; chỉ sự giao tiếp tân khách. Câu này ý nói khi về nhà nghỉ, yên vui với cảnh nhàn, ít phải giao tiếp tân khách.

150. Kinh mặc : mực tầu.

151. Song : cửa sổ.- Cố chỉ, phòng phong : cố chỉ là giấp cũ, phòng phong là chắn gió. Ý nói dùng giấy cũ dán cửa sổ để che gió ; tả cảnh phòng sách.

152. Mộc bút : cái bút viết (kinh mặc, mộc bút chỉ việc soạn sách)



153. Cảo bản : bản thảo, chỉ bản Phương pháp biện chứng luận trị này. Đoạn này tả cảnh một thầy thuốc già, dung nhan tươi đẹp, đã thoát vòng danh lợi, đang vui vầy với những cây thuốc vun trồng và việc biên soạn sách thuốc của mình. Những từ bạch đầu ông, tóc tiên (Thiên, Mạch môn), má tía (rau Má tía), liên tiền thảo, xa tiền, mã vĩ (Đuôi ngựa, đốt thành than, chữa phụ nữ bâng huyết) Mã vĩ còn là biệt danh của vị Thương lục) đương qui, tế tân, kinh mặc, cố chỉ, phòng phong, mộc bút (cỏ Tháp bút, Bút đầu thái, tức Mộc tặc), cảo bản, thong dong (Nhạc thong dong), phòng phong, trong tả người và sự việc cùng cảnh vật, nhưng mỗi một từ, đều ngụ một tên của vị thuốc cả, đó là lối văn chương tô màu điểm sắc của người xưa.

VIII – CÁC ĐƠN THUỐC


  1. NHƯ Ý ĐƠN


Tráng nho lão (1) thuở ngày rồi,

Song hiên ngồi tựa, nghị chơi lịch truyền (2)

Xem đời Thượng cổ Thánh hiền (3)

Tam đại dĩ tiền, y dược tế sinh ((4)

Thánh sư Kỳ-Bá định kinh (5)

Thập tam Y-Doãn Án trình chân nhân (6)

Nho y tứ thập nhất vân (7)

Trương Cơ Đông-Hán, Dương nhân hiếu nghì (8)

Minh y chín mươi tám vi (9)

Được tiên truyền thuật, hiệu thì Thương-Công (10)

Kế truyền những đấng hiếu trung,

Thế y trấp-lục (11) tinh thông đạo mầu.

Quốc Trinh giữ chức Hãn lưu (12)

Đức y mười tám (13)danh nêu chép bày.

Từ Văn tự Đức-Tú (14) này,

Tiên thiền đạo thuật (15) hiệu rày Trường-Tang (16)

Truyền trao Biển-Thước cấm phương,

Mười chín Hàn-Mậu cũng hàng danh sư (17)

Ấy là những đấng hiền xưa,

Nhị bách thập ngũ hiệu dư lịch trần (18)

Đời đời tiết phụ (19) thánh quân,

Bao nhiêu hiếu tử, nhân nhân, tiên hiền.

Quốc y cứu thế phép tiên,

Trứ thư hằng để dọi truyền lập ngôn (20)

Bí thư Y học nhập môn (21)

Rằng “Đơn như ý”(22) dấu khuôn để đời.

Đa đoan chữa thế (23) nhiều lời,

Hiền xưa di chỉ (24) hậu lai học đòi.

Đặt làm quốc ngữ xem chơi,

Xuân, Đông, Thu, Hạ (25) khí trời dịch sinh.

Đòi năm tiết vận chẳng lành,

Điên cuồng, quỷ tý (26) ngũ hành cảm thương.

Thất tình, độc khí âm dương,

Trưởng ấu tương tự, nhiều đường hương thôn (27)

Diệu dụng bài “Như ý đơn

Ôn dịch lệ hàn (28) tật quỷ thuốc tiên.

Xuyên ô dùng lấy 8 tiền (29),

Tân, Sâm (30) Bạch thược, Hoàng liên, Ngô thù.

Xuyên tiêu, Tạo giác, Xương bồ,

Bạch cương, Tử uyển, Sài hồ, Đương quy.

Cát cánh, Nhục quế, Phát bì (31)

Đều 5 đồng chẳn, cùng thì tầy nhau.

Hai đồng rưỡi Mần để đâu (32)

Là Ba đâu tử, trước sau hợp cùng.

Cân lấy 8 lạng 5 đồng (33)

Lại 5 phân (34) nữa, hợp cùng cho no.

17 vị thuốc cất thu,

Nhà cao thanh vắng, tâm tu (35) xá gìn.

Chó gà hỗn tạp (36) sao nên,

Tán thành bột nhỏ, luyện viên mật phần (37)

Chọn ngày cát nhật điều quân (38)

Đại như ngô tử, Sa thần vi y (39)

Mỗi phục tam, ngũ, thất kỳ (40)

Hoặc khi ôn dịch, phục tý, thi lao truyền (41)

Sơn lam chướng khí hợp liền,

Thất trí cuồng điên Táo tử, bạch thang (42)

Phong dịch, gió cả túc thương (43)

Ngoan ma, thống dượng, thân cường bất tri (44)

Mắt không giọt lệ chút chi (45)

Nằm ngủ chăng nhắp, một khi bực bồn.

Mặt hằng (dường) sâu chạy buồn buồn,

Lâu ngày ngứa rụng, chẳng còn mày râu.

Răng khô, môi lở, nhức đầu,

Ung sang, xích điến, đau lâu hoán thàn (46)

Hạc tấc đông thống chư ban (47)

Nhất thiết phong tật, thang hoàn Giả tô (48)

Hàn dịch, Tiểu trường đau so (49)

TIỂU HỒI thang ấy, Ngô thù cũng nên.

Thử dịch, Ngũ lâm (50) đau liền,

Đăng tâm thang hạ, nhiệt tiên Đại hoàng (51)

Táo dịch, ĐỊa, Ma tỬ thang, (52)

Hoặc dùng lãnh thuỷ (53) đôi đường khá nên.

Ôn dịch, thuỷ thũng, Xa tiền (54)

Mộc thông hoặc lấy thang tiên (55) tống rày.

Thập chủng thuỷ khí (56) thũng đầy,

Cam toại, Đại kích (57) thang nay hạ liền.

Anh, Cổ (58), Cam toẠi thang tiên,

Bàng quang sán khí, đau liền thũng đông (59)

LA BẶC tiên thang hạ dùng (60)

Ngũ ban trĩ tật (61) thang xung Bạch phàn.

Ngũ giản (62) thang NHŨ HƯƠNG an,

Thận tàng tích thống bàn hoàn thoá diên.(63)

Giảo xỉ, yêu thống, diêm tiên (64)

Ngũ ngược các tuyền, lấy ĐÀO CHI thang (65)

Thất tâm, tà trúng (66) nhiều dường,

Nấu cành Đào, Liễu làm thang uống rày.

Âm dương nhị độc (67) chứng này,

Thương phong khái thấu, (68) thang nay Bạc hà.

Ngũ cam, bát kỵ (69) càng gia,

Trường phong, tạng độc, thang pha Mễ trần (70)

Chư ban khái thấu (71) làm ngăn,

Khương thang tống hạ, mười phân hiệu dùng (72)

Tiểu nhi thập nhị kinh phong (73)

BẠC HÀ thang ấy, điều dùng khá nên.

Ung sang đơn, điến (74) hoà liền.

Loa lịch, tiêu khát, suyễn diên (75) đòi hồi.

Đại, Tiểu trường thống (76) đau hoài,

Tửu độc, hầu tý, thũng tai (77) hợp cùng.

Hoặc tiết, hoặc lỵ, tiện hồng (78)

Hoặc lầm nuốt phải sắt đồng loài kia.

Kim thạch (79) thuốc độc ngộ khi,

Thuỷ thổ bất phục, cùng thì ôn thang.

Hạ lỵ máu đỏ thẵm dường,

Giải lợi nhiệt độc, thang HOÀNG LIÊN nay.

Phụ nhân huyết hải lạnh chầy (80)

Xích bạch đới hạ, lại rày sinh sang (81)

Huyết khí thương tổn mọi đường,

Ấy phương màu nhiệm, Ngải thang hạ rày.

Cạp chư ban huyết khí thương,

Ngải thang tống hạ, ấy phương cực thần.

Sơn hương (82) miền ấy lạnh thay !

Vốn chẳng uống thuốc, đơn này liệu cho.

Khéo dùng khá phải khéo lo,

Âm chất phương luận y nho đạo mầu (83)

Âm công tích đức dõi sau,

Phù hiệu ở đầu, thí dược, chẩn cơ (84)

Quý hiệu tội ngực xá trừ (85)

Tiện hiệu bấy giờ kiểm ốc lậu nơi (86)

Bần hiệu (87) học thuốc chữa người,

Độ nghĩ, liệu thước, phóng rời hạc ngư (88)

Nhất sự nhất vật tiểu sơ (89)

Dĩ động thiên địa, đạt chư quỷ thần (90)

Phúc nhuần hưởng ứng vạn xuân,

Nhất niệm chi thiện (91) nền nhân càng lành.

Đức nhà truyền dõi trâm anh (92)

Lạc thiện quân tử (93) để danh muôn đời.

Y thông tiên đạo (94) chớ cười,

Tráng lao nói một quên mười hổ thay !

Nương kinh y học (95) chép bày,

Vó câu bóng chếch (96) vả nay nên lời.

Để điều mặc thế xem chơi,

Tuổi già lẫn lộn thuật lời hiền xưa.
NHƯ Ý ĐƠN
- Xuyên ô 8 đồng cân

- Ba đậu 2 đồng rưỡi

- Tân lang, Nhân sâm, Sài hồ, Ngô thù du, Xuyên tiêu, Bạch cương tàm, Bạch linh, Hoàng liên, Tử uyển, Hậu phát, Nhục quế, Đương quy, Cát cánh, Tạo giác, Thạch xương bồ. đều 5 đồng cân
Cách chế : chọn ngày tốt, ở riêng một căn nhà yên tĩnh cách xa tiếng gà gáy, chó sủa, thành tâm mà chế tạo. Đem các vị thuốc trên tán thành bột nhỏ ; luyện với Mật làm viên bằng hạt ngô đồng. Chu sa làm áo, liều dùng từ 3 đến 5, 7 viên.

+ Chuyên chữa các chứng bịnh ôn dịch, ma tà, phục thi (97), lao truyền, điên cuồng, mất tâm trí, khí độc rừng núi ; đều chiêu với nước sắc, quả táo, hoặc nước sôi.

+ Các chứng phong dịch và thân thể, tê dại, không biết đau ngứa, không có nước mắt, ngủ không yên, mặt rần rần như có sâu bò, lâu ngày tóc và lông mày ngứa rụng, môi lở, răng khô, thiên đầu thống, xích điến, mụn nhọt, tê liệt nửa người, hạc tất phong đau nhức, đều chiêu với nước sắc Kinh giới.

+ Các chứng hàn dịch và Tiểu trường khí thống, chiêu với nước sắc Tiểu hồi hoặc Ngô thù du.

+ Các chứng thử dịch mà 5 chứng lâm, chiêu với nước sắc Đăng tâm ; nếu nhiệt dữ, thì chiêu với nước sắc Đại hoàng.

+ Các chứng táo dịch, chiêu với nước sắc Sinh địa, hoặc Ma tử nhân, hoặc nước lạnh.

+ Các chứng thuỷ thũng, chiêu với nước sắc Xa tiền, hoặc Mộc thông.

+ 10 loại thuỷ khí, chiêu với nước sắc Cam toại, Đại kích.

+ Các chứng anh lựu, cổ trướng, chiêu với nước sắc Cam toại.

+ Các chứng Bàng quang, sán khí, sưng đau, chiêu với nước sắc Cải củ.

+ 5 chứng trĩ, chiêu với nước sắc Bạch phàn.

+ 5 chứng kinh giản, chiêu với nước sắc Nhũ hương.

+ Các chứng Thận tàng tích kết, nghiến răng, nhổ nước dãi, đau lưng, chiêu với nước Muối.

+ 5 chứng sốt rét, chieeu với nước sắc cành Đào.

+ Các chứng mất tâm trí, trúng tà, chiêu với nước sắc cành Đào, cành Liễu.

+ Các chứng âm độc, dương độc, thương phong khái thấu ; chiêu với nước sắc Bạc hà.

+ 5 chứng Cam, 8 chứng Lỵ và các chứng trường phong, tạng độc ; chiêu với nước sắc Trần mễ.

+ Tất cả các chứng ho, chiêu với nước sắc Gừng sống.

+ 12 chứng kinh phong của trẻ con, chiêu với nước sắc Bạc hà.

+ Các chứng đơn độc, tử điến, ung nhọt, tràng nhạc, ghẻ lở,đờm suyễn, tiêu khát, đại tiểu trường bế tắc (98), tiết tả, kiết lỵ, độc rượu, đại tiện ra máu, sưng đau họng, sưng họng má, nuốt nhầm vật đồng sắt, thuốc độc kim thạch, bất phục thuỷ thổ, ; đều chiêu với nước nóng.

+ Kiết lỵ ra máu, đỏ nhiều, chiêu với nước sắc Hoàng liên.

+ Đàn bà lạnh vùng Huyết hải, lâu ngày, xích bạch đới hạ, khó sinh dục, và các chứng huyết khí, tổn thương ; chiêu với nước sắc Ngải cứu.



Bài này thông trị cho cả nhân dân ở miền núi, trước kia không dùng thuốc chỉ cần khéo vận dụng thôi.


  1. HỒI SINH ĐƠN (99)


“HỒI SINH ĐƠN”thuốc lành hoạ mấy,

Từ thiên triều (100) ơn thấy rộng sang,

Tha hương quý lạ khác thường,

Truyền để nghìn hàng vi diệu (101) dạy ra.

Dõi sau hộ thế (102) lợi nhà,

Tích đức vi bản, dạy hoà tôn nhi (103)

Soạn làm ngữ lục thuật di (104)

Hồi xuân nghĩa tập, quyền thì Phụ phương (105)

Trời có Nguyệt âm, Nhật dương,

Nước có kém cường (106) thăng giáng xuống lên.

Phụ nhân nguyệt thuỷ thường chuyên (107)

Huyết dữ khí hiền (108) ghẽ có trước sau.

Bảo sinh (109) kinh nghiệm cơ mưu,

Đơn hồi nhiệm mầu ơn Trương-Cát tôn (110)

Chư ban huyết khí (111) mỏi chồn,

Nhất nhất đơn hoàn, công hiệu dùng thang (112)

Trước lấy một cân Đại hoàng,

Đủ 16 lạng, cho Hoàng Cẩm văn.(113)

Tán nghiền thành mạt rây dần,

Giấy phong dành để ân cần một nơi.

Lõi Vang 3 lạng đỏ tươi,

Là Tô phương mộc chẻ rời cho mau.

Năm bát nước sông sắc lâu,

Ước còn 3 bát lường dầu cất ra.

Khử trỉ tồn trấp (114) dùng gia,

Lại lấy 3 lạng Hồng hoa cân rày.

Hảo tửu nhất đại uyển đầy (115)

Chử thang tam ngũ cổn (116)chầy lượng lượng thôi.

Bỏ hết Hồng trỉ (117) một nơi,

Dùng lấy tồn thuý (118) đỏ tươi tốt dòng.

Ba thăng Hắc đậu lường xong,

Nấu chín trấp (119) phòng lấy 3 bát nay.

Đậu bì xác chín dùng rày,

Bỏ rẫy (120) bã đậu hết nay mọi đường.

Tiên tương dược mạt Đại hoàng (121)

Cùng Hảo Mễ thố (122) chua càng tốt sao.

Ước ba bốn bát trộn vào,

Dùng văn vũ hoả ngào cao lưỡng đồng (123)

Thứ hạ thang Tô, tửu Hồng (124)

Đậu trấp để hồng, cùng Đại hoàng cao.

Các tiên dược vị lại ngào,

Liệu nên cao ấy, lượng vào bắc ra.

Bồi can, oa bả tái gia (125)

Nhập hậu dược (126) là Thục địa, Xuyên khung.

Đương quy, Thương Phụ (127) hợp dùng,

Bồ hoàng, Ô dược, miễn (128) cùng Phục linh.

Huyền hồ, Ngưu tất vị lành

Đào nhân ngoài dành (129), đều 1 lạng xưa.

Bạch thược tửu sao vừa vừa,

Cam,(130) Mộc còn chờ Khương hoạt, Địa du,

Ngũ linh (131) Trần bì để khô,

Tam lăng, Sơn thù khử hạch tửu chưng (132)

Đều 5 đồng chẵn cân bằng,

Nhân sâm, Bạch truật, lượng từng Mộc qua.

Tranh bì khử nhương (133) bỏ ra,

Trên đây 4 vị, cùng gia 3 tiền.

Lương khương 4 tiền cho yên,

Nhũ hương, Mộc dược, 2 tiền cùng tra,

Các đảo tĩnh mạt (134) hợp hoà,

Đại hoàng cao để nhập pha làm hoàn.

Như đạn tử đại (135) cho an,

Mỗi phục nhất hoàn tửu, hoà hạ thông (136)

Trước hợp đơn tán đã xong,

Sau dùng chứng trị luận công nhớ lòng.

Hoặc khi sản hậu đầu đông (137)

Mình nóng sởn rùng, chẳng có mồ hôi.

Gọi thương hàn chứng chẳng sai,

Gia Ma hoàng mạt (138) một vài ba phân.

Khương, Thông (139) thang nấu một lần,

Nhất đơn đống phục, hoà quân (140) chớ chầy.

Đến như sản hậu lâu ngày,

Sữa bú chẳng có ngày rày làm sao ?

Tìm Thiên hoa phấn gia vào,

Đương quy dùng vĩ, cùng điều 3 phân,

Lấy Xuyên sơn giáp 2 phân,

Hoàng liên lại dụng 3 phân tán hoà.

Rượu nồng một chén rót ra,

Đốn khai đơn phục (141) thuốc hoà chớ lâu.

Lấy vú mẹ nó nhụ đầu (142)

Kể dư nghìn bận, sữa hầu thấy ra,

Như Dũng tuyền xuất thuỷ hoa (143)

Chữa người công hiệu phép hoà khéo khôn.

Dưỡng thai, ích huyết, lợi con,

Nhâm phụ (144) mỏi chồn, khó nhọc, động thai.

Thai trong máu chảy ra ngoài,

Lậu thai, ác lộ (145) hoà 2 tạng hàn.

Cửu hư, nhân dựng, chẳng an (146)

Nuy táo, thai hoàn bất trưởng (147) chẳng nên.

Tháng ngày tuy mãn (148) chẳng tuyền,

Động tác vô lực, tổn nên đoạ rày (149)

Bảo thai khô ráo đêm ngày,

Khiến nên nan sản, khôn hay hạ thì (150)

Liên nhật tử, tử bất kỳ (151)

Trong bụng giá lạnh, môi thì xanh đen.

Sùi bọt, ác lộ xông lên,

Hôn mê bất tỉnh, suyễn diên, hãn nhiều (152)

Máu me đau đớn trăm chiều,

Tề phúc lãnh thống, nhiệt triều vãng lai (153)

Hoặc nhân lao sản (154) không nài,

Mình gầy vàng vọt, hôm mai lần thần.

Tâm khiếp đạo hãn ra liền (155)

Ăn uống chẳng được, xảy nên liệt lào,

Mỗi nguyệt thường phục (156) khoẻ sao !

Dưỡng thai, thuận sản (157) huyết điều âm dương.

Bế kinh, băng lậu trệ thường,

Thất nữ khuê phòng, Bảo giám, y phương (158)

“Hồi xuân”(159) chứng trị đã tường,

“Hồi sinh”(160) công hiệu là gương để đời.

“Hồi xuân”(161) tăng bổ nhiều lời,

“Hồi sinh”cứu được muôn người hồi sinh.

“Hồi xuân” thọ khảo bách linh (163)

“Hồi sinh”vạn đại công khanh (164) đến già.

“Hồi xuân” tóc bạc bằng hoa,(165)

“Hồi sinh” phúc thịnh đức hoà nhi tôn (166)

“Xuân, Sinh”(167) đôi chữ dõi tuôn,

Nhân nghĩa lễ trí tín còn “hồi sinh”(168)
HỒI SINH ĐƠN

(Phương thuốc kinh nghiệm của Trường-Cát-Tôn khuê đình)
- Đại hoàng 1 cân, tán nhỏ.

- Tô mộc 3 lạng, thái nhỏ, dùng nước sông 5 bát sắc còn 3 bát, lọc bỏ bã,

lấy nước sắc ấy.

- Hồng hoa 3 lạng, sao vàng, đổ vào rượu ngon 1 bát to, sắc sôi 3-5 dạo, rồi

gạn bỏ Hồng hoa, lấy nước rượu ấy.

- Đậu đen 3 cân nấu chín, gạn bỏ bã, lấy nước 3 bát.

Trước đem bột Đại hoàng đã tán, đổ Dấm tột 3 bát, quấy đều, dùng lửa văn vũ cô thành cao Đại hoàng, lại nấu thành cao lần nữa, rồi bắt ra, nếu thấy có cháy dính nồi là được, lại đun sấy khô, rồi cho vào các vị thuốc sau đây :

- Thục địa - Đương qui - Xuyên khung

- Thương truật (tẩm nước gạo) - Bạch linh (bỏ vỏ) - Hương phụ mễ

- Huyền hồ sách - Ô dược - Bồ hoàng

- Ngưu tất (bỏ cuống) - Đào nhân (nghiền riêng) đều 2 lạng

- Bạch thược (sao rượu) - Cam thảo - Trần bì

- Sơn thù du (bỏ hột, chưng rượu) - Mộc hương - Địa du

- Ngũ linh chi - Tam lăng - Khương hoạt đều 5 đồng cân

- Nhân sâm - Bạch truật - Mộc qua

- Thanh bì (bỏ cùi trắng) đều 3 đồng

- Cao lương khương 4 đồng
- Nhũ hương - Một dược đều 2 đồng

Các vị trên tán bột, luyện với cao Đại hoàng làm viên, bằng hòn đạn, liều uống 1 viên ; dùng rượu nóng hoà tan, uống cả 1 lần.

Đàn bàn sau đẻ nhức đầu, mình nóng, có mồ hôi, gọi là chứng “thương phong” thì gia bột Quế chi 3 phân, dùng Hành, Gừng nấu lấy nước làm thang.

Đàn bàn sau đẻ nhức đầu, mình nóng, không có mồ hôi, gọi là chứng “thương hàn” thì gia bột Ma hoàng 3 phân, dùng Hành, Gừng nấu lấy nước làm thang.



Sau đẻ không có sữa, thì dùng Thiên hoa phấn 3 phân, Đương quy vĩ, Xuyên sơn giáp (nướng) 2 phân, Hoàng liên 3 phân, tán thành bột, cùng thuốc đơn hoà vào rượu mà uống, không cứ lúc nào ; lại bảo người mẹ lấy tay day chỗ đầu vú hơn 1.000 lần, sữa sẽ vọt ra như nước suối.
Каталог: sachviet -> Y-Hoc-Co-Truyen

tải về 3.47 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương