Hội đồng Giáo hoàng "Công lý và Hoà bình" Một Cái Nhìn Mới


Những căn do về tình trạng kém phát triển về mặt đạo đức



tải về 332.21 Kb.
trang2/2
Chuyển đổi dữ liệu01.05.2018
Kích332.21 Kb.
#37699
1   2

Những căn do về tình trạng

kém phát triển về mặt đạo đức

Phân tích hết sức thực tế các hình thức kém phát triển hiện nay sẽ giúp chúng ta nhận ra rằng các nguồn căn của những hình thức nghèo khổ khác nhau nơi thời đại chúng ta nằm trong các yếu tố chính trị, và kỳ cùng, là do một căn bịnh đạo đức vì lỗi phạm và thiếu sót của nhiều người. Đức Giáo hoàng nói đến các ''cơ cấu tội lỗi''. Tất cả chúng ta được kêu gọi để hoán cải một cách sâu xa về đời sống cộng đồng; mọi người, nam nữ đều được gọi để đại độ xét lại lối sống của mình trước hoàn cảnh đau thương của từng khối dân chúng và tình trạng kém phát triển mà thế giới ngày nay gánh chịu. Nội dung sâu xa của phát triển cũng như tình cảnh gia trọng mà thế giới phải đương đầu dấy lên một thách đố: thách đố phát triển thách đố ấy được tiếp nhận qua lời mời gọi thực thi liên đới của mọi người; liên đới là một thực tế linh hoạt duy nhất thể hiện sự tiến bộ chân thực dựa trên nền tảng của bản tính con người. Liên đới là nội dung then chốt của phát triển. Nhiều lối nói nhấn mạnh đến tầm quan trọng của liên đới: '' Liên đới là một nhân đức Kytô giáo, không còn nghi ngở gì cả''. Hòa bình là ''hoa trái của liên đới, opus solidaritatis pax'' (các số 39-40). Nếu chúng ta chỉ truy tìm các mục tiêu kinh tế hoặc tích lũy các tài vật, chúng ta sẽ phản lại những trách vụ chân thật của phát triển.

Kytô hữu xác tín rằng ánh sáng Phúc âm sẽ đổi thay các nền văn hóa ưu thắng hiện nay, đang tạo một bức chắn kỳ cục ngăn cản các đường lối tiến hành công cuộc phát triển và đe dọa tương lai của con người trên thế giới. Chúng ta cần loại bỏ nền văn hoá tiêu thụ, các ý hệ hoặc một lối nhẫn nhục thụ động trước những khổ đau và nghèo túng của từng khối người. Thay vào đó, chúng ta kêu gọi đi xây dựng một nền văn hoá liên đới và dấn thân cụ thể phục vụ lợi ích của toàn gia đình nhân loại. Những ai đóng góp xây dựng hoà bình và công lý sẽ không thất vọng Phúc âm sẽ thấm nhuần những tâm hồn lên đường xây dựng văn hoá hy vọng, một nền văn hoá tạo điều kiện thiết yếu để giải phóng mọi hình thức áp bức, vật chất, chính trị cũng như tinh thần.

XIV

Ý thức xã hội hiện diện

trong mọi lãnh vực

Một bước phát triển khác nơi ý thức của Giáo hội đó là việc nhận ra yếu tố xã hội của các vấn đề ngày nay; lối nhìn đó đi vào tất cả các khía cạnh của tư tưởng Công giáo. Công đồng Vaticanô II rõ ràng là đã thích ứng với lối nhìn này khi cổ súy một cuộc đối thọai mới giữa đức tin Kytô giáo và thế giới ngày nay. Thí dụ điển hình tìm thấy ngay nơi bản văn tổng hợp giáo huấn xã hội của Giáo hội Công giáo, đó là Hiến chế Gaudium et Spes, về ''Giáo hội trong thế giới ngày nay'' (1965); qua chín chương, Hiến chế ấy đề cập các vấn đề sau đây: nhân phẩm, cộng đồng nhân loại, cuộc sống con người trong vũ trụ, vai trò của Giáo hội trong thế giới ngày nay, phẩm giá của hôn nhân và gia đình, sinh hoạt văn hóa, phát triển các dân tộc, định hướng cuộc sống xã hội - kinh tế, cộng đồng chính trị, bảo vệ hòa bình và xây dựng cộng đồng quốc tế.

Vaticanô II đã đóng góp rất nhiều cho sự tiến trìển của tư tưởng xã hội Công giáo, điều mà các nhà bình luận lại quên. Thật thế, Vaticanô II có thể xem là một khúc ngoặt, vì, suốt công đồng, các vấn đề mới mẻ đã được nghiên cứu theo đúng phương pháp dưới góc cạnh tổng quát và qui kết nhiều lãnh vực; nhiều giải đáp thần học mới đã hình thành đáp ứng những nhu cầu của các xã hội con người. Trong cuốn II, chúng tôi sẽ chọn lọc một số bản văn của Công đồng để xác minh sự kiện nầy.

Người Công giáo dần hồi cảm thấy được những nhu cầu xã hội và ý thức hơn về trách nhiệm của mình trước một thế giới đang tìm kiếm công lý. Trong hầu hết các bản văn quan trọng nhất mà các Đức Giáo hoàng viết ra, các vấn đề hoà bình, công lý và giải phóng thường được đề cập, ngay cả khi đề tài nêu lên không minh nhiên có tính cách "xã hội". Chẳng hạn, trong Thông điệp Evangelii Nuntiandi (1975) về các vấn đề truyền giảng Phúc âm, Đức Phaolô VI dành một đoạn dài nói đến công lý và giải phóng. "Các dân tộc cố gắng hết sức lực để chống trả và vượt qua tất cả những gì bức bách họ phải đứng ra bên lề cuộc sống: như đói khát, bệnh tật kinh niên, mù chữ, nghèo túng, bất công trong các mối tương quan quốc tế và đặc biệt là trong mậu dịch, những tình cảnh của hình thái tân thực dân kinh tế và văn hoá lắm lúc cũng khắc nghiệt không kém chế độ thực dân chính trị cũ. Các Giám mục đã từng nhắc lại rằng Giáo hội có bổn phận loan báo công cuộc giải phóng cho từng triệu người, mà nhiều người trong đó là con cái của chính họ; Giáo hội có bổn phận hỗ trợ cho công việc giải phóng đó xảy đến, làm chứng cho nỗ lực giải phóng nầy, thúc đẩy cho việc giải phóng được chung toàn. Công việc đó không phải nằm ngoài sứ mang truyền bá Phúc âm" 23.

Phần lớn các tài liệu và diễn từ của Đức Gioan Phaolô II phản ảnh một ý thức tương tự, không ngừng quan tâm đến các nhu cầu xã hội và những khát vọng của con người ngày nay . Có thể nêu lên nhiều thí dụ về sự kiện nầy nơi các Tông thư và Thông điệp của Ngài. Bắt đầu bằng Thông điệp Redemptor Hominis (1979), Ngài nói đến những đe dọa của văn minh duy vật và các khát vọng hiện nay hướng về một nền phát triển đứng đắn (các số 15-17); Dives in Misericordia (1980) nêu lên lòng nhân hậu của Thiên Chúa và nổ lực tìm kiếm công lý trong thế giới (các số 12, 14); Familiaris Consortio (1981) về gia đình Kitô giáo, phân tích những mối liên hệ của gia đinh trên toàn cuộc sống xã hội; nó phản ảnh nhiều khía cạnh xã hội của Humanae Vitae (1967), là thông điệp của Đức Phaolô VI về gia đình. Và Reconciliatio et Paenitentia (1984) là một lời mời gọi thống hối, lưu ý đến những tội lỗi có tính cách xã hội tiêu biểu của thời đại chúng ta (số 16), Dominum et Vivificantem (1986) về Chúa Thánh Thần, tố giác thuyết duy vật vô thần như một trong những tội gia trọng chống lại Thánh Thần (số 56); Redemptoris Mater (1987) về Đức Trinh Nữ, trình bày Mẹ Maria như một mẫu mực chiếu soi cho những ai nổ lực tiến hành công cuộc giải phóng xã hội và yêu thương đặc biệt kẻ nghèo khổ (số 37); Mulieris Dignitatem (1988) về phẩm giá người phụ nữ, bàn đến việc thăng tiến giới nầy và vai trò của họ trong Giáo hội và xã hội.

Những chiều kích văn hoá của công lý
Tất cả những thí dụ nầy làm sáng tỏ nội dung chúng ta trình bày: Giáo huấn Xã hội của Giáo hội bám rễ sâu rtrong thần học, trong nổ lực truyền bá Phúc âm và trong toàn bộ cuộc sống siêu nhiên của Giáo hội. Sự kiện đó giúp chúng ta hiểu rõ hơn tại sao giải pháp cho các "vấn đề xã hội" kỳ cùng phải tìm kiếm tận trong lương tâm con người, cá nhân cũng như tập thể. Thực thi công bình xã hội luôn lệ thuộc vào văn hoá của một xã hội. Vì thế, khi dấn thân thực sự vào các sinh hoạt văn hoá, người công giáo đóng góp kiến hiệu vào sự thăng tiến của văn hoá và công bằng: "Con người ngày nay và đặc biệt là người công giáo phải nghiêm chỉnh xét đến những điều kiện xây dựng nền tảng cho phát triển các dân tộc. Càng ngày nguời ta càng nhận rõ là tiến bộ văn hoá mật thiết liên hệ đến việc xây dựng một thế giới công bằng và huynh đệ hơn" 24.

Quan điểm mới nầy được Đức Gioan Phaolô II trình bày rõ ràng nơi một trong những bài diễn văn quan trọng nhất về Văn hoá, đó là diễn văn ngài đọc ở Paris, tại trụ sở Unesco năm 1980. Đây là một bài thuyết minh hùng hồn cổ suý việc sử dụng toàn lực trí khôn của con người nhằm bênh vực Con người chống lại những đe dọa của chiến tranh và áp bức, nhằm bảo vệ chủ quyền và sự phát triển toàn diện của các nước.

"Tương lai con người và thế giới đang bị đe dọa, đe dọa đến tận gốc rễ". Ngài nói rằng tương lai chúng ta tuỳ thuộc vào một nổ lực canh tân lại nền văn hoá đạo đức. "Vâng, tương lai con người tuỳ thuộc vào văn hoá! Vâng hoà bình thế giới tùy thuộc vào sự ưu thắng của tinh thần! Vâng, tưởng lai hoà bình của nhân loại tuỳ thuộc lòng yêu thương" 25.

Để cổ suý công lý trên thế giới, người Công giáo ngày nay ý thức được rõ hơn họ phải am tường những gía trị đang thịnh hành, các cung cách xã hội đang tạo ra áp bức, bất công, oan ức và đói khổ. Dấn thân xã hội có nghĩa là cổ võ các mẫu mực văn hoá. Giáo hội có một vai trò phải chu toàn trong việc phúc âm hoá các nền văn hoá và xây dựng một xã hội nhân đạo hơn. Ảnh hưởng của Giáo hội phải thấm nhập lương tâm con người và văn hoá của mỗi xã hội. Đó là vai trò quan trọng nhất mà Giáo hội đang thực hiện và vai trò nầy ngày nay càng được nhiều người nhìn nhận hơn nữa.



XV

Một ý niệm phong phú

hơn về nhân quyền

Trong ngót thế kỷ vừa qua, Toà thánh xứng danh là tiếng nói của mọi người trong nổ lực bảo vệ nhân quyền26. Dư luận công chúng nhận rõ Giáo hội là một tổ chức tích cực hành động cho công lý xã hội và bảo vệ tình huynh đệ nhân loại. Các vị Giáo hoàng và Giám mục thời đại tân kỳ đã tỏ ra là những chiến sĩ uy dũng bênh vực cho phẩm giá con người. Bài diễn từ nổi danh của Đức Giáo hoàng Piô XII vào dịp Giáng sinh 1942 đã đem lại một cái nhìn bao quát về nhân quyền và các nguyên tắc của một trật tự xã hội công bằng. Giáo hội đã luôn bênh vực các quyền cá nhân, gia đình và xã hội, mặc dù lối dùng chữ "nhân quyền" chỉ mới được sử dụng dần dần qua thời gian gần đây. Thành ngữ "nhân quyền" nầy thật ra đã được giải thích từ lúc đầu theo khuôn khổ của cách mạng và bài xích Kitô giáo 27. Nhiều người Công giáo đã từng ngại ngùng để hoàn toàn đồng ý với Bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền (1948), vì họ tiếc rằng bản văn ấy không nhìn nhận những quyền căn bản của Thiên Chúa.

Nhưng điểm đáng lưu ý là Giáo hội nhân tiện xác quyết lại quan điểm của mình và quan niệm thần học về nhân quyền . Quan niệm nầy nêu lên lập trường minh bạch, chủ trương việc tuyên dương nhân quyền phải tránh mọi hình thức bài trừ tôn giáo. Vaticanô II đã trình bày thái độ hiện nay của Giáo hội như sau: "Vì thế, do bởi Phúc âm đã được trao phó cho mình, Giáo hội tuyên dương nhân quyền, nhìn nhận và đánh giá cao nổ lực tích cực của thời đại chúng ta đang mạnh dạn cổ suý nhân quyền khắp nơi. Phong trào đó cần thấm nhuần tinh thần Phúc âm và tránh tiêm nhiễm mọi ý kiến về lối tự chủ sai lạc" 28.

Trong Thông điệp Pacem in Terris (số 140) năm 1963, Đức Giáo hoàng Gioan XXIII đã công khai nhìn nhận giá trị nển tảng của Bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, đã trình bày và giải thích chi tiết về quan niệm Kitô giáo trong vấn đề nhân quyền -, ở phần đầu bản Thông điệp 29. Biến cố quan trọng nầy được Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II kỷ niệm lại 20 năm sau khi Ngài tuyên bố về Đức Gioan XXIII như thế nầy: "Ngài nói lên sự đồng ý của Giáo hội với phần thiết yếu của bản văn và xem đó là một hiến chương thực sự phục vụ lợi ích cho mọi người, trước hết là những người đang ở vào hoàn cảnh ngặt nghèo và đang bị đe dọa hơn cả" 30.

Giáo hội cũng đã đóng góp một cách hữu hiệu vào việc giải thích Tuyên ngôn Nhân quyền như một tiến trình liên tục và luôn luôn thăng tiến. Ngày 02.10.1979 trong diễn văn đọc tại Liên Hiệp quốc, ở Nữu Ước, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nhìn nhận bước tiến đáng ca ngợi nầy của văn hoá ngày hôm nay.

"Bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền và các cơ sở tài phán cấp quốc tế cũng như quốc gia cố gắng tạo nên một ý thức chung về phẩm giá con người, trong một phong trào mà ai cũng mong ước ngày càng phát triển một cách liên tục. Tôi xin nêu lên một số trong những quyền quan trọng nhất được mọi người nhìn nhận".

Sau khi nhắc đến những quyền nền tảng thuộc cuộc sống tín lý, trí năng, tinh thần, văn hoá, xã hội và tôn giáo, Đức Giáo hoàng kết luận:

"Bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu các quyền đều qui chiếu vào nơi con người, nơi chiều kích trọn vẹn của nhân tính" 31.

Đối với Giáo hội, việc bảo vệ nhân quyền và phẩm giá văn hoá con người trực tiếp liên hệ đến sứ mạng siêu nhiên của mình. Ngày 08.10.1988, trước toà án Âu châu và trước Ủy ban Nhân quyền ở Strasbourg Đức Gioan Phaolô II xác quyết điều đó: "Trong khung cảnh long trọng nầy, tôi chỉ có thể xác quyết lại rằng Giáo hội tha thiết với các vấn đề liên hệ đến nhân quyền và tự do: Việc dấn thân của Giáo hội trong lãnh vực nầy hoàn toàn ăn khớp với sứ mạng đạo đức và tôn giáo của mình. Giáo hội mạnh mẽ bênh vực nhân quyền vì xem các quyền ấy là môt yếu tố cần thiết của bổn phận phải nhìn nhận phẩm giá của nhân vị được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa và được cứu chuộc bởi Chúa Kitô" 32.

Từ Đức Lêô XIII, ý thức xã hội của người Công giáo rõ ràng là đã tiến triển ở mọi cấp trong Giáo hội. Mặt khác, Giáo hội được thế giới đánh giá là thẩm quyền đạo đức cao nhất hành động cho hòa bình, công lý và tinh huynh đệ nhân loại. Nhưng, trước tinh trạng phức tạp và thử thách mới của xã hội hiện nay, người Công giáo được mời gọi để mãi luôn suy tư và tham gia hơn nữa vào cảnh vực xã hội.


XVI

Dấn thân vào

các lãnh vực xã hội

Có nhiều dấu chứng khác cho thấy Giáo hội ngày càng tha thiết với các vấn đề xã hội. Chúng ta đã nhấn mạnh đến sự kiện Công đồng Vaticanô II đã mạnh mẽ cổ suý đường hướng nầy.

Chúng ta cũng nêu lên những lần lên tiếng liên tiếp liên quan đến các vấn đề xã hội suốt trong các kỳ Thượng Hội đồng Giám mục, kể từ ngày định chế nầy được thiết lập năm 1969. Thượng Hội đồng năm 1971 lấy chủ đề "Công lý trên thế giới" đã nhấn mạnh đến các mối liên hệ chặt chẽ giữa cổ suý cho công lý và rao truyền Phúc âm. Thượng Hội đồng đặc biệt quan trọng để nêu lên mối tương quan nầy, đã từng quả quyết: "Sứ mạng rao giảng Phúc âm ngày nay buộc phải dấn thân hết sức mình cho công cuộc giải phóng toàn diện con người". Đức Phaolô VI sau đó giải thích xác tín ấy, viết rằng: "Giữa rao giảng Phúc âm và thăng tiến con người - Phát triển, giải phóng - thực ra có những mối liên hệ sâu xa" 33 Thượng Hội đồng Giám mục năm 1985 đáng lưu ý vì dành để kỷ niệm 20 năm Công đồng Vaticanô II. Nó xác nhận lại một cách Ímạnh mẽ rằng Hiến chế Gaudium et Spes còn mang đầy ý nghĩa và kêu gọi người Công giáo đào sâu tầm quan trọng hiện nay của học thuyết xã hội cùa Giáo hội, như chúng ta đã nêu lên trên đây.

Các tài liệu đặc loại do các Bộ của Toà thánh phổ biến cũng cống hiến một lối nhin cập nhật hơn nữa. Đặc biệt là hai Huấn thị về các vấn đề Gìải phóng được Thánh bộ Đức tin 34 phổ biến năm 1984 và 1986. Cũng có thể nêu các tài liệu do Hội đồng Giào hoàng "Công lý và Hòa bình" phổ biến: về Nợ Quốc tế (1986), về Nhà ở (1987), về Chủ nghĩa chủng tộc (1989). Tài liệu của Toà thánh do Hội đồng Giáo hoàng về Gia đình soạn Hiến chương về các quyền của gia đình (1983). Năm 1988, Thánh bộ Giáo dục Công giáo cho phổ biến tài liệu Những định hướng để học và dạy học thuyết xã hội của Giáo hội trong việc đào tạo linh mục.

Mặt khác, nhiều Bộ khác của Toà thánh, kể cả Phủ Quốc vụ khanh, đều tham gia tích cực vào các cuộc họp đại kết và quốc tế, thảo luận đến vấn đề phát triển và cổ suý cho công lý. Sự hợp tác như thế đuợc Hội đồng Giáo hoàng về Hiệp nhất Kitô hữu, Hội đồng Giáo hoàng về Giáo dân và Hội đồng Giáo hoàng về Văn hoá tiến hành đều đặn. Trong những lần họp nầy, các vị đại diện của Toà thánh đã đưa ra những lời tuyên bố chính thức trình bày những áp dụng giáo huấn của Giáo hội và các vấn đề trên thế giới.

Cuộc cải cách Giáo triều Rôma mới đây đã lưu ý đến Học thuyết về Giáo hội của Công đồng Vaticanô II nhằm mục đích làm cho Giáo hội đáp ứng một cách thích hợp hơn với những nhu cầu tinh thần và xã hội của thời đại chúng ta. Đức Gioan Phaolô II nói rõ ý định của Ngài: "Tôi nhất quyết cố sức làm sao tiến hành việc nầy để cơ cấu và sinh hoạt của Giáo triều luôn thích ứng với Học thuyết về Giáo hội của Công đồng Vaticanô II, nghĩa là phải thật sự đi sát với việc hoàn thành các mục đích mục vụ của cơ cấu Giáo triều; đồng thời đáp ứng được các nhu cầu của sinh hoạt bên ngoài của Giáo hội và của Xã hội dân sự" 35.




XVII

Một vai trò đặc loại

trong lãnh vực xã hội

Sau phần mô tả trên, chúng ta cần suy nghĩ sâu hơn nữa về sứ mạng giáo huấn của Giáo hội trong lãnh vực xã hội. Muốn hiểu rõ vai trò chính xác của Giáo hội trong lãnh vực xã hội, cần phải minh định rõ thẩm quyền riêng của Giáo quyền. Chúng ta có thể thấy rằng vai trò đó vừa hạn chế lại vừa đi sâu vào bất cứ đâu. Những giới hạn được ấn định bởi sứ mạng đặc loại của Giáo hội trong trần thế. Thật thế, Giáo hội không thể nại đến một thẩm quyền đặc biệt nào liên quan đến trật tự xã hội, kinh tế, chính trị hoặc kỷ thuật. Vai trò của Giáo hội thiết yếu là tôn giáo. Công đồng Vaticanô II đã nêu lên lý do nền tảng của vai trò ấy: "Sứ mạng riêng mà Đức Kitô đã trao phó cho Giáo hội Ngài không phải thuộc trật tự chính trị, kinh tế hay xã hội: Mục tiêu Ngài định nơi Giáo hội thuộc trật tự tôn giáo" 36. Nội dung đó được thể hiện qua truyền thống Giáo hội: Đức Piô XI nhắc lại thế nầy: "Đừng quên mục tiêu của Giáo hội là rao giảng Phúc âm, chứ không phải tạo văn minh. Nếu Giáo hội góp sức vào công cuộc kiến tạo văn minh, đó là phải xuyên qua sức mạnh rao giảng Phúc âm" 37.

Có nhiều phương cách hành động để ảnh hưởng trên xã hội: chẳng hạn xuyên qua hành động chính trị, xây dựng luật pháp, các phong trào giải phóng, các quyết định của các chính quyền, những lựa chọn về kinh tế, các dự án ý hệ, các nhóm có quyền lợì khác nhau. Hành động đặc loại của Giáo hội thiết yếu thuộc bản chất tôn giáo và đạo đức. Giáo hội không đề xuất một hệ thống chính trị, xã hội hoặc kinh tế nào đặc biệt. Giáo hội không nhằm áp đặt quan điểm riêng của mình về xã hội, xét về mặt trần thế.

Ảnh hưởng của Giáo hội đi sâu vào một cấp độ cao sâu hơn nhiều trong thực tại xã hội. Nó soi sáng lương tâm cá nhân và tập thể. Nó đưa Phúc âm thật sự đi vào đạo lý ảnh hưởng đến toàn bộ cuộc sống xã hội. Khi tuyên dương Phúc âm, Giáo hội bảo vệ các nền tảng thực sự của nhân phẩm và thân phận cao cả siêu phàm của mọi người nam-nữ. Giáo hội loan báo rằng Đức Giêsu Kitô là Đấng Cứu độ, người của mọi chân lý, công bằng và yêu thương. Qua lịch sử, không một lối giảng dạy nào có được một tác động tận căn trên các xã hội như thế khi các xã hội nầy biết thấm nhập nguyên tắc về tình huynh đệ Kitô giáo.

Đó là lý do tại sao vai trò của Giáo hội có nét đặc loại, là siêu nhiên và đạo đức. Việc đó không có nghĩa là vai trò ấy trừu tượng. Trái lại, nó kêu gọi ta áp dụng một cách cụ thể vào xã hội. Người công giáo do đức tin của mình thôi thúc, và tất cả những người thiện tâm, thiện chí được cổ suý để sử dụng tất cả các phương tiện của các ngành khoa học nhân văn, nhằm phát hiện những khía cạnh mới của các thực tại xã hội - kinh tế, đang tạo ra những vấn đề mới về mặt đạo đức. Giáo hội không nhân danh các thẩm quyền về kỷ thuật hoặc sử dụng các đòn phép chính trị bất chừng nào để ảnh hưởng trên xã hội. Nhưng Giáo hội nhất mực tìm cách phát triển các nguyên tắc công bình và nhân phẩm cho mọi người nơi cuộc sống xã hội . Như Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II từng phát biểu, "Giáo hội không có một thẩm quyền trực tiếp nào để đề xuất các giải pháp kỷ thuật thuộc bản chất kinh tế - chính trị; tuy vậy, Giáo hội kêu gọi phải luôn xét lại tất cả các chế độ cho thích hợp với tiêu chuẩn của phẩm giá con người" 38.

Nguời công giáo, hành động với tư cách cá nhân hay từng nhóm riêng, sẽ phải đối đầu với những quan điểm bất chừng và những lựa chọn chính trị khác nhau; và thông thường những đổi thay chính đáng có thể xảy ra. Người công giáo sẽ tìm được nơi giáo huấn của Giáo hội những nguyên tắc hướng dẫn cho hành động và những hình thức dấn thân tự do của họ. Họ có thể khác biệt nhau trong những chọn lựa và dự án của họ. Trong lãnh vực bao la của sinh hoạt chính trị trần thế, họ phải hành động như những Kitô hữu, nhưng tránh nói rằng họ hành động nhân danh Giáo hội. Việc tham gia tự do của một người trong các chọn lựa về sinh hoạt xã hội cụ thể không thể được xem là lập trường chính của Giáo hội . Gaudium et Spes đã nêu lên một cách rất rõ rệt qui tắc nầy: "Thường thường, quan điểm kitô giáo thúc đẩy họ chọn giải pháp nầy hay giải pháp khác, tuỳ hoàn cảnh. Nhưng những tín đồ khác cũng thành tâm không kém có thể phán đoán một cách khác, sự việc như thế thường xảy ra và là điều chính đáng. Nếu xảy ra việc nhiều người cứ gán bừa các ý kiến của người nầy hoặc người khác với sứ điệp Phúc âm, dẫn người được nêu lên không muốn chút nào, thì nên nhớ rằng trong trường hợp như thế không ai có quyền nhất mưc nại đến quyền uy của Giáo hội để bàu chữa cho ý kiến của mình" 39. Ï Học thuyết xã hội của Giáo hội định hướng và thúc đẩy người công giáo dấn thân vào trần thế, nhưng họ còn phải sáng tạo và can đảm chọn lựa tự do để tiếp cận những đổi thay chính trị có thể thực hiện một cách chính đáng trên quan điểm đạo đức.




XVIII

Những hình thức mới

về Hành động và Giáo huấn

Như chúng ta đã nhận xét, ngoài các tài liệu chính thức của Giáo triều Rôma, các Đức Giáo hoàng cũng đã lên tiếng qua nhiều diễn từ, công du, thăm viếng ở Liên Hiệp quốc (Đức Phaolô VI, năm 1965, Đức Gioan Phaolô II, năm 1979), tại Unesco (Đức Gioan Phaolô II năm 1980), ở Văn phòng Lao động Quốc tế (Đức Phaolô VI, năm 1969 và Đức Gioan Phaolô II năm 1982), ở Hội đồng Liên Hiệp quốc (Đức Gioan Phaolô II năm 1988).

Tuy vậy, vai trò của Giáo hoàng không phải là một vai trò bao gồm toàn bộ hành động của Giáo hội cho công lý, phát triển và hoà bình. Các giám mục trong mỗi nước, đặc biệt là sau Rerum Novarum, đã ý thức nhiều hơn về trách nhiệm của họ; đặc biệt ngày nay trong các xứ đang phát triển, các ngài là chứng nhân cụ thể đưa tinh thần Phúc âm vào xã hội. Bên cạnh, các linh mục, tu sĩ nam - nữ, vô số giáo dân trên khắp thế giới đang chu toàn trách nhiệm dấn thân tích cực của họ trong môi trường họ sống và làm việc.

Các hội đồng giám mục càng ngày càng lưu ý đến các vấn đề xã hội - kinh tế xét về khía cạnh đạo đức. Các tài liệu của các cuộc họp ở Medellin (1968) và Puebla (1979) do tất cả các giám mục Châu Mỹ La tinh soạn thảo, cho ta một thí dụ trong muôn ngày sự kiện khác. Trong các bản văn nầy , vai trò của Giáo hội trong một xã hội đang thay đổi được nghiên cứu kỹ lưỡng, đặc biệt đề cập đến vấn đề phát triển, tiến bộ văn hoá, tham gia vào các cuộc sống xã hội , phê bình các ý hệ, biệt đãi người nghèo và giới trẻ, và các dự án giải phóng mà Kitô hữu có thể chấp nhận được và đáng dấn thân.

Mười năm gần đây, nhiều hội đồng giám mục, như ở Pháp, Đức, Tây Ban nha, Hoa Kỳ, Canada, đã phổ biến các bức thư về các vấn đề quan trọng như chiến tranh nguyên tử và hoà bình, trách nhiệm kinh tế, nạn nghèo đói mới, phát triển, kỳ thị chủng tộc, người tị nạn, thất nghiệp, vai trò phụ nữ. Một số trong những tài liệu nầy là kết quả của những công trình nghiên cứu và tham khảo rộng rãi. Đôi khi, chúng phản ảnh những đề nghị để kiện toàn các chương trình chính trị. Các bản văn như thế được dư luận tiếp nhận như một đóng góp của Giáo hội và một cuộc đối thoại bổ ích.

Khi nói đến tư tưởng xã hội của Giáo hội , ta phải biết phân biệt một bên là học thuyết xã hội, gắn liền với sứ mạng thiết yếu và rao truyền Phúc âm của Giáo hội , và bên kia là những lời tuyên bố tuỳ trường hợp của các giám mục về những vấn đề cá biệt để đối đầu với những hoàn cảnh cụ thể như đói khổ, bất công, thất nghiệp, và kêu gọi hành động.

Ngày nay, Giáo hội được trang bị đầy đủ hơn để đề cập đến các vấn đề xã hội của thời đại chúng ta.

Các vấn đề nầy được nghiên cứ thấu đáo nhờ các chuyên gia trong các ngành khoa học xã hội . Phương pháp tiếp cận chúng có tính cách liên-ngành, nghĩa là phải được nhìn theo quan điểm thần học, nhưng vừa dựa trên các ngành khoa học thực nghiệm và luật tự nhiên. Nhờ thế, người không phải là kitô hữu cũng có thể chấp nhận được lập trường của Giáo hội. Và, cũng vì thế nhiều thông điệp gần đây không những gửi đến các giám mục và tín hữu, mà còn gửi đến "tất cả những người nam - nữ thiện tâm, thiện chí". Ta có thể nói rằng từ nay Giáo hội công giáo có được một Corpus hoặc một bộ tài liệu về học thuyết xã hội, mặc dù Corpus nầy không phải là một bộ khảo luận hoàn toàn đầy đủ và hoàn tất một cách dứt điểm. Giáo huấn xã hội nầy, bắt nguồn từ Kinh thánh và nghiên cứu dựa trên trí khôn con người, được tài bồi qua truyền thống lâu dài, vẫn luôn mở ra với một thế giới đang đổi thay. Việc trình bày có hệ thống về học thuyết nầy đã được phổ biến và được giảng dạy cho nhiều cấp độ giáo dục khác nhau trong các đại học. Nó đề cập đến tất cả các vấn đề mà các ngành khoa học xã hội tân thời nêu lên, như xã hội học và các ngành khoa học kinh tế và chính trị, đồng thời truy nguyên nguồn gốc làm phát xuất các vấn đề đạo đức.




Kết luận

Tóm lại, người ta phải nhìn nhận ảnh hưởng có tính cách quyết định và tác động trên lịch suủ của đoạn Phúc âm Mát-thêu 25, 31-46. Đoạn Phúc âm nầy đã truyền bá niềm xác tín rằng bác ái đối với người đói, khát, người ngoại quốc, người trần truồng không có áo che thân, người chịu tù đày là một cử chỉ yêu thương chính Chúa. Mặc dù hậu quả đoạn Phúc âm không thể lượng định được chính xác, nhưng niền tin vào giá trị tối thượng của bác ái đã làm đổi thay những mối liên hệ giữa con người với nhau, và vẫn mãi còn là một trong những phương thế mạnh mẽ nhất của Giáo hội nhằm gây hưng phấn đạo đức và siêu nhiên nơi các cộng đồng con người.

Qua hành động bác ái và xã hội, Giáo hội tạo một ảnh hưởng đáng kể trên cuộc sống của các xã hội. Các hình thức hành động rất đa diện: dấn thân cá nhân, giúp đỡ người túng thiếu, hành động bác ái từ thiện và đặc biệt là các hoạt động của các tổ chức do Giáo hội sáng lập, như bệnh viện, nhà mồ côi, các dưỡng đường, trường học cho người nghèo, các dự án công đồng. Trong các xứ đang phát triển, các hình thức hành động bác ái và xã hội như thế mang nhiều ý nghĩa. Trong các xứ kỷ nghệ hoá cũng vậy, những hoạt động nầy còn giữ lại giá trị toàn bộ của chúng, và bất cứ ở đâu các sinh hoạt nầy còn tồn tại, thì còn chứng kiến được những nhân chứng tận tụy theo tinh thần kitô giáo. Các nước tiến bộ đã nới rộng các hình thức trợ giúp bằng sáng kiến tạo nên những hệ thống phục vụ công cộng như bệnh viện, trường học, tổ chức cứu tế, và các hệ thống chính thức về dịch vụ xã hội . Nhưng Giáo hội vẫn cố gắng thường xuyên nhắc nhỡ những ai đang làm việc và dấn thân trong các ngành cứu trợ bác ái của các tổ chức trần thế, ý thức rằng giúp đõ người ta phải luôn được xem là một cử chỉ thân thiện bè bạn và yêu thương.

Giái huấn về mặt xã hội cũng tượng trưng cho một hình thức dấn thân kitô giáo có ý nghĩa, và, như chúng ta đã thấy, đó là mối lo lắng thường xuyên của Giáo hội đối với xã hội. Từ thời các Gìáo phụ, phải đương đầu với các vấn đề của thời đại của họ, đến thời đại chúng ta, các Giáo hoàng tiếp tục đưa ra một giáo huấn xã hội thích ứng với các hoàn cảnh ngày nay, Giáo hội tuần tự xây dựng toàn bộ các nguyên tắc, một bộ học thuyết liên quan đến các vấn đề nền tảng như: nhân phẩm, vai trò gia đình, phận vụ nhà nước, các khía cạnh xã hội của quyền tư hữu, các nguyên tắc về lao động và kỷ nghệ, các điều kiện cho hoà bình, liên đói và phát triển. Nếu các vấn đề xã hội - kinh tế đã chiếm một chỗ đặc biệt trong học thuyết xã hội của Giáo hội, thì cũng đừng xem nhẹ giáo huấn và các vấn đề quan trọng khác đối với xã hội, chẳng hạn như: Gia đình, hôn nhân, giáo dục, phát triển văn hoá cho mọi người, các quyền lợi và bổn phận của người công dân, trách nhiệm của quốc gia và vai trò của cộng đồng quốc tế. Từ nay, mọi vấn đề xã hội được nhìn nhận theo một nhãn quan rộng rãi hơn, có thể nói là bao quát.

Kể từ thời mà thông điệp Rerum Novarum của Đức Giáo hoàng Lêô XIII (1891) được phổ biến, và đúng là một biến cố lịch sử thật sự, nhiều tiến bộ đáng kể đã được thực hiện liên quan đến phương pháp và lối tiếp cận của giáo huấn xã hội của Giáo hội. Trước hết, việc phân tích các hoàn cảnh xã hội đã biết tận dụng những thành quả của các phương pháp mới trong các ngành khoa học xã hội áp dụng vào các thực tại phức tạp, như tính tương thuộc của kinh tế và kỷ nghệ, tình trạng bất công từ cơ cấu, các tiến trình phát triển, các mối quan hệ quốc tế và những xung đột ý thức hệ. Trong quá khứ, Giáo hội có thói quen tố giác các cá nhân vì lối hành xử bất công của họ: các vị vua, nhà làm luật, các sở hữu chủ, các người làm chủ các công xưởng. Ngày nay, không những phải nhìn thấy trách nhiệm của các cá nhân, nhưng còn phải lưu ý trách nhiệm chung của cộng đồng, cũng như những rối loạn từ cơ cấu tạo nên bất công, bạo lực và bóc lột tập thể. Sự kiện đó đòi hỏi các nhà xã hội học và các nhà luân lý học tiếp cận các vấn đề một cách mới mẽ hơn.

Hơn thế nữa, trong một thế giới đa nguyên, Giáo hội đã nhìn nhận một cách rõ rệt hơn về sự tự trị chính đáng của các thực tại chính trị và kinh tế. Vào thời Trung cổ và trong suốt thế kỷ XVIII, Giáo hội đã cố gắng kitô giáo xã hội và tìm cách giữ lại hình thái đó. Bây giờ, Giáo hội nổ lực đề xướng các nguyên tắc suy nghĩ và các mẫu mực cư xử trong cuộc sống xã hội , phát sinh từ tư tưởng kitô giáo, nhưng dựa trên những nhận xét vừa triết học vừa do kinh nghiệm thực tế.

Với lối hành xử như vậy, Giáo hội có thể trình bày giáo huấn của mình với mọi người nam - nữ thành tâm thiện chí. Nhờ thế Giáo hội nới rộng tác động giáo huấn của mình và tạo được một uy thế đáng kể trong lãnh vực nhân quyền, thương thảo quốc tế, hoà bình và phát triển con người.

Và đồng thời giáo huấn ấy cũng đạt được một chiều kích đại kết lớn lao hơn. Ngoài ra, giáo huấn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của công việc hợp tác giữa các tôn giáo để xây dựng một thế giới công bằng và hoà bình. Nó luôn mở ra với tất cả những lý tưởng xã hội thích ứng với nổ lực thăng tiến con người tự do trong những cộng đồng xã hội tự do.

Trong một xã hội phức tạp và đa nguyên, Giáo hội đề nghị những nguyên tắc đạo đức, và hy vọng rằng những cộng đồng kitô hữu sẽ là trung gian tìm kiếm những giải pháp cụ thể áp dụng cho những thực tại xã hội địa phương. Lối tìếp cận khôn ngoan và thực tế nầy, được Đức Giáo hoàng Phaolô VI diễn tả rất tinh tế như sau:

"Đối diện với những hoàn cảnh đa biệt như thế nầy, chúng tôi khó mà phát biểu một lối nói duy nhất cũng như đề xuất một giải pháp có giá trị tổng quát. Đấy không phải tham vọng của chúng tôi, và cũng không phải là sứ mệnh của chúng tôi. Chính các cộng đồng kitô giáo có phận vụ phân tích hoàn cảnh rìêng của nước mình một cách khách quan, nhìn hoàn cảnh ấy dưới ánh sáng của các lời chất chứa chân lý trường cửu của Phúc âm, rút tỉa những nguyên tắc suy tư, mẫu mực phán đoán và chỉ dẫn hành động nơi học thuyết xã hội của Giáo hội từng được hình thành suốt tiến trình lịch sử và đặc biệt là trong kỷ nguyên kỷ nghệ nầy" 40.

Ngày nay người ta chân nhận rõ rệt rằng giáo huấn Giáo hội thiết yếu hướng đến hành động và phải luôn mở rộng tiếp cận những vấn đề mới phát xuất từ những hoàn cảnh xã hội luôn đổi thay. Lối suy nghĩ mới nầy đem lại cho giáo huấn Giáo hội một đặc tính linh động cần phải nhấn mạnh:

"Giáo huấn nầy thiết yếu hướng đến hành động, phát triển cùng nhịp với những đổi thay của lịch sử. Vì thế, dù dựa trên nhuũng nguyên tắc luôn có giá trị vững bền, thì cũng có những phán đoán bất tất. Giáo huấn ấy không phải là một hệ thống đóng kín, nhưng luôn mở ra với các vấn đề mới mẽ không ngừng xảy đến; nó cần đến sự đóng góp của tất cả những đoàn sủng, kinh nghiệm và khả năng khác nhau" 41.

Cái nhìn tổng lược trong cuốn sách nầy cho thấy rõ rằng Giáo hội, do từ nơi sứ mệnh riêng của mình, không thể không tim hiểu và ảnh hưởng sâu xa vào các xã hội mà Giáo hội hiện diện trong đó một cách tích cực. Ý thức và sự biểu lộ về trách nhiệm của Giáo hội trong xã hội được gọi là "học thuyết xã hội công giáo". Nếu chữ học thuyết gặp một số khó khăn về tên gọi, do những lời chỉ trích phát xuất từ các tiền kiến ý thức hệ, thì không ai có thể chối cãi rằng trong thực tế Giáo hội đã giáo huấn và còn mãi giáo huấn để xã hội con người đi theo ánh sáng Phúc âm và lương tri. Kinh nghiệm tích luỹ nầy được tài bồi dần hồi như một thứ đạo đức xã hội và phải được mỗi thế hệ kitô hữu bảo trì, nó "cần đến sự đóng góp của tất cả những đoàn sủng, kinh nghiệm và khả năng khác nhau". Tóm lại, học thuyết xã hội của Giáo hội gắn liền với ơn gọi của mình là đi và giáo huấn tất cả các dân tộc cho đến ngày tận thế.

Trong cuốn II, chúng ta sẽ truy cứu các tài liệu chính yếu, để thấy rõ phương thức tiến hành giáo huấn xã hội công giáo. Với quan điểm bổ sung ấy, chúng ta sẽ xác minh sự phát triển linh động của học thuyết xã hội công giáo và bản chất đặc loại của giáo huấn nầy.

____________



1 GIOAN PHAOLÔ II, Thông điệp Sollicitudo Rei Socialis, số 1.

2 GIOAN PHAOLÔ II, Thông điệp Sollicitudo Rei Socialis, số 41, trong cuốn II bộ nầy, chúng ta sẽ thấy tư tưởng các Giáo hoàng về bản chất học thuyết xã hội của Giáo hội đã diễn tả thành văn tuần tự như thế nào

3 Thượng Hội đồng Giám mục năm 1965, Bản đúc kết

4 Thư gửi Diognète số 5: P.G., 2, 1173. Xem dẫn nhập, bản dịch và bình giải của Henri Irénée Marrou, xb. lần 2, Paris, Cerf, 1965.

5 Epist. 138, 5 "Ad Marcellinum", ch. 2, 05.

6 GIOAN PHAOLÔ II đã nhắc lại vai trò lịch sử của cộng đờng Kitô giáo Âu châu. Ngày 8.10.1988, tại Strasbourg, Ngài tuyên bố trước Quốc hội Âu châu rằng: "Gần 20 thế kỷ, Kitô giáo đã đóng góp vào việc xây dựng một quan niệm vế thế giới và con người, và vũ trụ quan, nhân sinh quan đó còn là một gia sản nền tảng đến hôm nay , vượt lên trên những chia rẽ, những yéu hèn, ngay cả bỏ quên từ phía chính người Kitô hữu... Trong nhiều thế kỷ, Âu châu đã đóng một vai trò lớn lao nơi những phần còn lạì của thế giới. Phải nhận rằng không phải lúc nào Âu châu cũng cống hiến phần cao đẹp nhất của mình khi gặp gỡ các văn minh khác, nhưng không ai có thể chối cãi rằng Âu châu đã chia sẻ cho mọi người nhiều giá trị mà nó đã tài bồi qua nhiều năm tháng. Con cái của Âu châu đã đóng góp một phần thiết yếu trong việc quảng bá sứ điệp Kìtô giáo.


7 J. A. Schumpeter, History of Economic Analysis, New York, 1954, tr. 95.

8 G. Rinaldi, L 'apprezzamento etico - sociale dell 'attivitị commerciale nel più eminente Moralợsta Dominicano del Quattrocento: S. Antonino di Firenze, Pinerolo, 1959.

9 O. Bazzichi, "La Proprietả secondo tre pensatori Francescani del Medioevo: Pietro di Giovanni Olivi, Guglielmo Ockham e Alvaro Pelagio" , trong Rivista di Politica Economica V, 1985, serie III.



8


9


10 Lé éo Moulin, Le Monde vivant des religieux, Paris, Calmann- Lévy, 1964.

11Ï Xem Victoria et Suarez, Contrìbution des théologiens au droit international moderne (nhiều tác giả), Paris (Hiệp hội quốc tế Vitoria, Suarez), 1939.


12 Xem các công trình nghiên cứu của L-R. Villermé ở Pháp (1840) và của

Fr. Engels ở Anh (1845)




13 G. Goyau, Ketteler, Paris, 1908.

14 PAUL DROULERS, Action pastorale et problèmes sociaux sous la Monarchie de Juillet, chez Monseigneur d'Astros, Paris, 1954. Cùng tác giả" Des évêques parlent de la question ouvrière en France avant 1848 "Revue de l 'Action populaire, 1947 (4.1961) các trang 442-460; và P. Droulers"L 'Épiscopat devant la question ouvrière en France sous la Monarchie de Juillet", trong Revue Historique, 229 (1963), các trang 335 - 362.


15 Đây là những tác phẩm tuyển chọn về phong trào xã hội Công giáo trong các nước Âu châu suốt trong thời kỳ này : J.B. Duroselle, les débuts du catholicisme social en France ( 1822 - 1870 ), Paris 1951; H.Rollet, L'action sociale des catholiques en France ( 1871 - 1901 ), Paris, 1947; E.Ritter, die Katholische - soziale Bewegung Deutschland im Neunzehnten Jahrhundert und der Volksverein , Cologne. 1954; các bản dịch ra tiếng Ý: Il movimento catholice - sociale in Germania del XIX secolo e il Volksverein; S.H.Sholl, 150 anni di movimento operaio cattolico nell 'Europa centro occidentale (1879-1939), Padoue, 1962; A.Gambasin, Il movimento sociale nell 'Opera dei Congressi , Roma, Univesité Pontificale Grégorienne , 1958; R. Aubert, '' Aux origines de la doctrine sociale catholique '', trong les dossiers de l 'action sociale cathoklique, Bruxelles, tháng 4-1966; xem J.Joblin và F. Duchini ở chú thích 19 và 20 dưới đây


16 ALPHONSE BREGOU "Une ''catholique sociale'' Marie - Louise Rochebillard", la pensée catholique, 238 ( tháng 1 và 2.1989), các trang 40 - 61.


17 Etienne Gilson, The Church Speaks to the Modern World. The Social Teachings of Leo XIII . xb, chú thích và dẫn nhập của E. Gilson, New York 1954

18 Các dự án của Vaticanô I về các '' Vấn đề xã hội '' đã được Paolo Petruzzi nghiên cứu kỹ lưỡng, Chiessa e società civile al Concilio Vaticano I , Roma. PUG. 1984.

19 Xem Joseph Joblin "Doctrine et action sociale: réflexion sur l 'évolution du mouvement social chrétien avant et après Rerum Novarum '' , trong De Rerum Novarum à Laborem Exercens '': vers l 'an 2000, Roma, HĐGM Công lý và Hòa bình , 1982, các trang 89-114 ( với một thư mục phong phú ); nhiều nhà chuyên môn đã đóng góp vào tuyển tập này, nhấn mạnh ảnh hưởng của Rerum Novarum trên tư tưởng và hành động xã hội hiện nay tại nhiều quốc gia; cũng xem Georges Jarlot, Doctrìne sociale et Histoire, Roma, PUG, 1964

20 Xem Francesca Duchini "Insegnamento sociale della Chiesa e problematica economia: da Leone XIII a Pio XII", trong A. Bausola và nhiều tác giả, L 'insegnamento sociale della Chiesa, Milanô, Vita et Pensiers, 1988, các trang 54-88.

21 Keynes J. M. Keynes, The General Theory of Employment Interes and Money, Luân đôn 1936


22 Xem T.P. Mc Laughlin, The Church and the Reconstruction of the Modern World. The Social Encyclicals of Pope Pius XI, New York, Image Books, 1975 (gồm 11 thông điệp với phần dẫn nhập).


23 PHAOLÔâ VI, Evangelìi Nuntiandi (1975) số 30.


24 GIOAN PHAOLÔ II, Thư thành lập HĐGH về Văn hoá, 20.5.1982; AAS 74 (1983), các trang 683-688. Về vấn đề nầy xem "The Links between Culture, Justice and Peace", ch. 4, trong H. Carrier, Gospel Message and Human Culture. From Leo XIII to John Paul II. Pittsburgh (Penn.), Duquesne University Press. 1989.


25 GIOAN PHAOLÔ II, diễn văn tại Unesco 2.6.1980

26 Franco Biffi. "Les droits de l 'homme dans le magistère des Papes du XXe siècle" trong FIUC, Droits de l 'homme: approche chrétienne, Roma, Herde, 1984, các trang 152-197.

27 J. JOBLIN có một tài liệu hữu ích cho vấn đề phừc tạp nầy: "La Chiesa e i dìritti umani: quadro storico e prospettive future" trong La Civiltà Cattolica, 3334 (20.5.1989) các trang 326-341. Cũng nên xem Paul Ladrière "La révolution Fran?aise dans la doctrine politique des Papes de la fin du XVIIIe à la moitié du XXe siècle" Archives de Sciences Sosiales des Religions, 66 (tháng 7 - tháng 9. 1988) các trang 87-112.


28 Gaudium et Spes, số 41

29 Nên đọc ở chương số 144 của Pacem in Terris, các câu nầy: "Không phải chúng tôi không biết rằng một số điểm trong bản Tuyên ngôn nầy đã dấy lên nhiều chống đối và tạo ra nhiều dè dặt chính đáng. Tuy vậy, chúng tôi xem bản Tuyên ngôn đó như một bước tiến đến việc thiết lập một tổ chức pháp lý chính trị của cộng đồng thế giới. Bản Tuyên ngôn ấy long trọng nhìn nhận phẩm giá của tất cả mọi người không phân biệt; nó xác nhận cho mỗi cá nhân các quyền của họ về nổ lực tìm kiếm chân lý một cách tự do, tuân theo các mực thước của đạo lý, thực thi các bổn phận của công lý, đòi hỏi những điều kiện sống xứng hợp với nhân phẩm, cũng như các quyền khác gắn liền với các quyền nầy".


30 GIOAN PHAOLÔ II, Diễn văn tại Ủy ban Âu châu và Toà án Nhân

quyền Âu châu.



31 GIOAN PHAOLÔ II, Diễn văn tại Đại Hội đồng Liên Hiệp quốc

32 Evangelii Nuntiandi số 31.

33 Thánh bộ Đức tin, Huấn thị về Thần học Giải phóng, 6.6.1984, Huấn thị về Giải phóng, 22.3.1986.

34 Thánh bộ Đức tin, Huấn thị về Thần học Giải phóng, 6.6.1984, Huấn thị về Giải phóng, 22.3.1986.


35 GIOAN PHAOLÔ II, Tông huấn Pastor Bonus (1988), Dẫn nhập số 13.

36 Trích Gaudium et Spes, số 42.

37 Trích Gaudium et Spes, số 58.

38 GIOAN PHAOLÔ II, Diễn văn ngày 3.4.1982, trong Tổng lược từ "Rerum Novarum" đến "Laborem Exercens" xem chú thích 19 trên đây.


39 Gaudium et Spes, số 43.


40 PHAOLÔ VI, Octogesima Adveniens (1971) số 4.

41 Thánh Bộ Đức tin, Huấn thị về Giải phóng 22.3.1986, số 72






tải về 332.21 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương