Câu Chuyện Triết Học ns trí Hải o0o Nguồn



tải về 2.14 Mb.
trang48/56
Chuyển đổi dữ liệu03.11.2017
Kích2.14 Mb.
#34032
1   ...   44   45   46   47   48   49   50   51   ...   56

IX. KẾT LUẬN


Nguyên lý đầuđã khiến Spencer hầu như lập tức trở thành triết gia nổi tiếng nhất của thời đại ông. Tác phẩm được phiên dịch ngay ra phần lớn những ngôn ngữ của Âu châu; và ngay cả Nga, nơi mà nó phải đối diện và đánh bại một sự truy tố của chính quyền. Ông được nhận là triết gia đại diện cho tinh thần thời đại; và không những ảnh hưởng ông lan khắp tư tưởng Âu châu, mà nó còn tác động mạnh mẽ trên phong trào tả thực trong văn chương nghệ thuật. Năm 1869 ông kinh ngạc thấy rằng Nguyên lý đầuđã được dùng làm sách giáo khoa ở Oxford. Còn kỳ diệu hơn, những tác phẩm ông bắt đầu đem lại cho ông, từ 1870, lợi tức khiến ông được bảo đảm về tài chính. Trong vài trường hợp những người hâm mộ gửi cho ông những món quà lớn, mà ông luôn luôn gửi trả lại. Khi Nga hoàng Czar Alexandre II viếng London và tỏ ý với Lord Derby muốn gặp những nhà thông thái đặc biệt của Anh quốc, Derby mời Spencer, Huxley, Tyndall, v.v. Những người khác đều đến, riêng Spencer từ chối. Ông chỉ giao dịch với một ít bạn thân. "Không có người nào ngang với tác phẩm họ viết. Tất cả những sản phẩm tốt đẹp nhất của hoạt động tinh thần họ đều đi vào trong tác phẩm, chúng xuất xứ từ vô số những sản phẩm thấp kém hơn lẫn lộn với chúng trong cuộc chuyện trò hằng ngày của họ" (Tự thuật, i, 423). Khi người ta năn nỉ xin đến gặp ông, ông nhém hai lỗ tai lại và thản nhiên lắng nghe họ nói chuyện.

Thật lạ lùng, danh tiếng ông tan biến gần như cũng đột ngột như nó đã đến. Ông đã sống dai hơn cao độ của danh tiếng mình, và vào những năm cuối đời, ông buồn rầu khi thấy những đoạn văn dông dài của ông đã ít hiệu lực ra sao trong việc chận đứng ngọn triều của nền lập pháp kiểu "cha mẹ". Ông đã trở thành khó ưa đối với hầu hết mọi tầng lớp. Những nhà chuyên môn khoa học - mà những địa hạt thuộc đặc quyền của họ ông đã xâm lấn - giả cách khen ông để rồi quật lại, tảng lờ sự đóng góp của ông và nhấn mạnh những lỗi lầm ông ; và giám mục của mọi đức tin hợp nhau lại để gửi ông xuống hoả ngục đời đời kiếp kiếp. Những đảng viên Lao động đã thích sự tố cáo chiến tranh của ông bây giờ giận dữ xa lánh ông khi ông nói lên ý nghĩ mình về chủ nghĩa xã hội và nền chính trị công nhân tổ hợp; trong khi những người bảo thủ đã thích quan điểm ông về chủ nghĩa xã hội thì lại tránh ông vì chủ trương về bất-khả-tri của ông. "Tôi bảo thủ hơn bất cứ đảng viên bảo thủ nào và tiến bộ hơn bất cứ đảng viên tiến bộ nào", ông nói với vẻ khao khát (II, 431). Ông thành thật một cách không sửa chữa được, và làm mếch lòng mọi nhóm với lối nói thẳng; sau khi tỏ cảm tình với thợ thuyền là những nạn nhân của chủ, ông thêm rằng thợ thuyền cũng sẽ thống trị như thế nếu địa vị đảo ngược; và sau khi tỏ sự lân mẫn với phụ nữ như nạn nhân của đàn ông, ông không quên thêm rằng đàn ông cũng là nạn nhân của đàn bà khi đàn bà có thể xoay sở được. Ông sống cô độc khi về già.

Khi đã có tuổi, ông trở nên nhẹ nhàng hơn trong sự chống đối, và điều độ hơn về quan niệm. Ông vẫn thường cười nhạo về ông vua dùng để trang hoàng của nước Anh, nhưng bây giờ ông bày tỏ ý kiến rằng thật là một việc làm không phải khi muốn bỏ quách ông vua của dân chúng, việc ấy không khác gì giật lấy con búp-bê của một đứa trẻ (Elliott, tr. 66). Cũng thế, về tôn giáo ông cho là vô lý và không tốt khi quấy rầy nền tin tưởng cựu truyền trong lúc nó dường như là một ảnh hưởng tốt lành và làm người ta vui vẻ. Ông bắt đầu nhận ra rằng những niềm tin tôn giáo và phong trào xã hội đều được xây trên những nhu yếu và động cơ vượt khỏi tầm công kích của trí thức; và ông cam chịu ngồi nhìn thế giới tiếp tục lăn quay không cần chú ý nhiều đến những pho sách nặng ông ném về phía họ. Nhìn lại quãng sự nghiệp hăng hái của ông, ông tự cho mình điên rồ vì đã ham tìm danh tiếng trong văn học trong khi đáng lẽ nên tìm những lạc thú giản dị hơn của sự sống . Khi ông mất vào năm 1903, ông đã chợt nghĩ rằng công trình của ông đã là công dã tràng (Thompson, tr. 51).

Dĩ nhiên bây giờ chúng ta biết không phải vậy. Sự suy tàn của danh tiếng ông là một phần của sự phản kháng của người Anh theo Hegel chống lại thực nghiệm luận; sự phục hưng của thuyết tự do sẽ lại nâng ông lên vị trí của ông như là triết gia Anh vĩ đại nhất của thế kỷ. Ông đem lại cho triết học một tiếp xúc mới mẻ với sự vật, và một thuyết duy thực đã làm cho nền triết học Đức quốc bên cạnh có vẻ yếu ớt trừu tượng. Ông tóm lược thời đại ông như chưa ai từng tóm lược thời đại nào cả kể từ Dante; và ông hoàn thành một cách thiện xảo sự phối trí của một lãnh vực tri thức rộng lớn đến nỗi nhà phê bình hầu như phải hổ thẹn lặng im trước sự hoàn thành của ông. Chúng ta bây giờ đang đứng trên những chiều cao mà những tranh đấu và khó nhọc của ông đã đem lại : chúng ta có vẻ như ở trên ông bởi vì ông đã đưa vai nâng chúng ta lên. Một ngày kia, khi mũi dùi của sự chống đối ông đã bị lãng quên, chúng ta sẽ định giá ông một cách phải chăng hơn

---o0o---

CHƯƠNG 09 - FRIEDRICH NIETZSCHE (1844 - 1900)

I. DÒNG DÕI


Nietzsche là con đẻ của Darwin và (là) anh em của Bismarck.

Nietzsche nhạo báng những người Anh chủ trương thuyết Tiến hoá và những người Đức theo chủ nghĩa quốc gia, song điều này không quan trọng; ông có thói quen tố cáo những người đã ảnh hưởng tới mình nhiều nhất; đó là cách ông che đậy -một cách vô thức- những món nợ của mình.

Triết học đạo đức của Spencer không phải là hệ luận tự nhiên nhất của thuyết tiến hoá. Nếu đời sống là một cuộc tranh đấu để sống sót, thì sức mạnh khi ấy sẽ là tối hậu, và sự yếu kém là lỗi lầm duy nhất. Tốt là cái gì sống sót, ưu thắng; xấu là cái gì đầu hàng, thất bại. Chỉ có những người Anh theo thuyết Darwin vào thời đại Victoria, những người Pháp trưởng giả theo thuyết duy nghiệm và những người Đức theo xã hội chủ nghĩa mới có thể che dấu tính cách tất yếu của kết luận này. Những người ấy khá can đảm để chối bỏ thần học Ki-tô giáo, nhưng họ không dám tỏ ra hợp luận lý, không dám phủ nhận những ý tưởng đạo đức, sự tôn sùng tính hoà nhã lịch sự và vị tha, những yếu tố đã thoát thai từ nền thần học ấy. Họ không còn là những người theo giáo đường Anh cát lợi, hay theo Công giáo La Mã, hay theo thánh Luther; nhưng họ không dám thôi làm những người Ki-tô giáo - Friedrich Nietzsche đã lý luận như thế.

"Yếu tố kích thích những nhà tư tưởng tự do Pháp từ Voltaire cho đến Auguste Comte là không theo đuôi lý tưởng Ki-tô giáo, ... mà phải vượt hơn nó nếu có thể. Comte, với lý tưởng "Sống cho kẻ khác", đã có tính cách Ki-tô hơn cả chính Ki-tô giáo. Ở Đức quốc, Schopenhauer và ở Anh, John Stuart Mill, đã đem lại tiếng tăm lừng lẫy nhất cho lý thuyết về thiện cảm, về lòng trắc ẩn, và về sự lợi tha kể như nguyên tắc hành động ... Tất cả những hệ thống thuộc xã hội chủ nghĩa đã vô tình tự an vị trên một nền tảng chung đã kể" *) [(*) trích dẫn trong Faguet: On Reading Nietzsche, NY, 1918, tr. 71].

Vô tình Darwin đã hoàn tất công việc của những nhà làm Bách khoa tự điển: họ đã dẹp bỏ nên tảng thần học của đạo đức tân tiến, nhưng vẫn để nguyên vẹn nền đạo đức ấy không động tới.

Những người sáng suốt sẽ nhận thấy ngay những gì mà những bộ óc sâu sắc nhất của mọi thời đại đã biết: ấy là, trong trận đấu ta gọi là cuộc sống này, cái gì ta cần không phải là sự tốt lành mà sức mạnh, không phải tính khiêm cung mà niềm kiêu hãnh, không phải lòng vị tha mà trí thông minh cả quyết; bình đẳng và dân chủ là phản lại luật đào thải và sống còn; không phải là quần chúng mà chính thiên tài mới là cùng đích của tiến hoá; không phải "công bằng" mà chính quyền lực mới là trọng tài của mọi cuộc phân tranh và mọi số phận - Friedrich Nietzsche nghĩ thế.

Nếu tất cả điều trên là đúng, thì không gì hùng vĩ, đầy ý nghĩa hơn Bismarck. Đây là một con người đã hiểu biết những thực tại cuộc đời, người đã nói toạc rằng "không có lòng cao thượng vị tha giữa các quốc gia", rằng những vấn đề hiện nay phải được định đoạt không phải bằng đầu phiếu và tài hùng biện, mà bằng máu và sắt. Bismarck quả là một cơn lốc tẩy uế cho một Âu châu đã thối rữa vì những ảo tưởng dân chủ và những "lý tưởng" ! Chỉ trong vài tháng ngắn ngủi, ông đã khiến toàn thể nước Áo suy tàn phải nhận quyền lãnh đạo của ông; chỉ trong vài tháng ngắn ngủi ông đã triệt hạ một nước Pháp say sưa với huyền thoại Napoléon; và trong những tháng năm ngắn ngủi ấy ông đã đồng lúc bắt buộc tất cả những "tiểu quốc" của nước Đức , tất cả những vị vua chuyên chế, những lãnh chúa, những quyền lực nho nhỏ kia phải tan hoà vào trong một đế quốc hùng mạnh, biểu tượng chính cống của nền đạo đức mới về sức mạnh. Hùng lực kỹ nghệ và quân sự đang lên của nước Đức mới này cần một tiếng nói; chiến tranh cần một nền triết học làm trọng tài để biện minh cho nó. Ki-tô giáo sẽ không làm việc ấy, nhưng thuyết tiến hoá có thể làm. Chỉ cần một ít can đảm để hoàn tất công việc.

Nietzsche đã có cái can đảm ấy và trở thành tiếng nói của thời đại.

---o0o---



tải về 2.14 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   44   45   46   47   48   49   50   51   ...   56




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương