Câu Chuyện Triết Học ns trí Hải o0o Nguồn



tải về 2.14 Mb.
trang56/56
Chuyển đổi dữ liệu03.11.2017
Kích2.14 Mb.
#34032
1   ...   48   49   50   51   52   53   54   55   56

IX. PHÊ BÌNH


Đấy là một bài thơ đẹp; và có lẽ đấy là một bài thơ hơn là một nền triết học. Chúng ta biết ở đây có nhiều mâu thuẫn phi lý, và biết anh chàng đã đi quá xa trong một cố gắng tự thuyết phục và tự sửa sai; nhưng chúng ta có thể thấy chàng khổ đau ở từng giòng chữ, và phải yêu mến chàng dù ngay ở điểm chúng ta chất vấn chàng. Có một lúc nào đó ta mệt mỏi vì cảm tình và ảo tưởng, ta nếm mùi châm chích của hoài nghi và phủ nhận; khi ấy Nietzsche sẽ đến với ta như một liều thuốc bổ, như không gian khoáng đạt và gió mát sau một buổi lễ dài trong một Giáo đường đông nghẹt. "Ai biết được cách thở trong bầu không khí của tác phẩm tôi, người ấy ý thức rằng đấy là không khí thượng tầng bồi dưỡng sức khoẻ. Một người phải khoẻ mạnh để đón nhận nó; nếu không rất có thể nó giết y" (Đây, con người ). Đừng ai lầm lẫn chất axit này với sữa mẹ.

Rồi thì chao ơi là lời lẽ văn chương ! "Một ngày kia, người ta sẽ nói rằng Heine và tôi là những nghệ sĩ vĩ đại nhất, vượt rất xa, đã từng viết bằng Đức ngữ, rằng chúng tôi đã để lại sau mình cách xa muôn vạn dặm những gì tốt đẹp nhất mà bất cứ một người Đức nào có thể làm". Và thật cũng gần đúng như vậy. Văn của tôi nhảy múa" chàng nói; mỗi câu là một chiếc lao; ngôn ngữ uyển chuyển, hùng tráng, mạnh mẽ, văn lời của một người đánh kiếm, nhanh nhẹn quá, chói loà quá cho một con mắt thường. Nhưng khi đọc lại Nietzsche ta nhận thấy vẻ sáng chói phần nào do sự nói quá đáng, do ở lòng tự tôn thú vị nhưng chung quy, có tính cách thần kinh loạn, ở một lối đảo nghịch - quá dễ dàng - mọi quan niệm được mọi người công nhận, ở sự nhạo báng tất cả mọi đức hạnh, tán dương mọi thói xấu; chúng ta khám phá rằng Nietzsche có niềm khoái trá kiểu học trò trung học trong việc gây xúc động mạnh, chúng ta kết luận rằng; cũng dễ thấy thú vị khi ta không có thiên kiến bênh vực đạo đức. Những quyết đoán giáo điều này, những lối quy nạp không châm chước ấy, những sự lập lại kiểu tiên tri ấy, những lối nghịch ngôn ấy - với người khác cũng như với chính chàng - biểu lộ một tâm trí đã mất quân bình, đang chờn vờn trên bờ vực của điên loạn. Cuối cùng sự sáng chói này làm chúng ta mỏi mệt và làm kiệt quệ những sợi thần kinh ta, như những ngọn roi quất lên thịt, hay như giọng nhấn mạnh quá lớn trong một cuộc đàm thoại. Có cái gì om sòm của người Teutonic trong lối phát ngôn hùng hổ này: không có chút gì chừng mực vốn là nguyên tắc số một của nghệ thuật; không có chút gì của thế quân bình, hoà điệu và sự tao nhã trong tranh biện, những điều mà Nietzsche rất thán phục nơi người Pháp. Dù sao, đấy là một lời văn hùng tráng đầy uy lực; chúng ta bị áp đảo bởi sự đam mê và lối lặp đi lặp lại trong đó; Nietzsche không chứng minh, chàng thông báo và khải thị; chàng chiếm được lòng chúng ta bằng tưởng tượng hơn là bằng luận lý của chàng; chàng hiến cho chúng ta không phải chỉ một nền triết học, cũng không phải chỉ một bài thơ, mà một niềm tin mới, một hy vọng mới, một tôn giáo mới.

Tư tưởng chàng, cũng như lời văn chàng, biểu lộ rõ rệt chàng là một người con của phong trào lãng mạn. "Cái gì, chàng hỏi, - một triết gia đòi hỏi đầu tiên và cuối cùng nơi chính mình ? Chính là vượt khỏi thời đại của họ, trở thành phi thời gian". Nhưng đấy là một lời khuyên toàn hảo mà chàng đã vi phạm hơn là tuân giữ; chàng được rửa tội bằng tinh thần của thời đại. Chàng không nhận ra làm sao chủ quan luận của Kant : "Thế giới là ý tưởng tôi" - như Schopenhauer đã thật thà nói - đã đưa đến "ngã tuyệt đối" của Fichte, và thuyết này đưa đến cá nhân chủ nghĩa mất quân bình nơi Stirner, và đến lượt chủ nghĩa này lại đưa đến thuyết phi đạo đức của siêu nhân. Siêu nhân không chỉ là "thiên tài" của Schopenhauer, và "người hùng" của Carlyle, Siegfried của Wagner; anh chàng siêu nhân này giống một cách khả nghi với Karl Moor của Schiller và Goetz của Goethe; Nietzsche đã rút từ Goethe nhiều hơn là chỉ có danh từ Uebermensch(Siêu nhân), Goethe, người mà vẻ bình lặng olympian (thượng giới ?) sau này đã làm chàng khinh bỉ vì ganh tị. Những bức thư chàng đầy dẫy tình cảm lãng mạn và sự âu yếm; "tôi khổ đau" trở đi trở lại nhiều lần trong những bức thư ấy cũng gần như "tôi chết" trong Heine, chàng tự gọi mình là "một linh hồn huyền bí và gần như của tửu thần" và nói về cuốn Khai sinh của Bi kịchlà lời thú của một nhà lãng mạn". Chàng viết cho Brandes "Tôi sợ rằng tôi có quá nhiều chất nhạc sĩ để trở thành một nhà lãng mạn". "Một tác giả phải im lặng khi tác phẩm bắt đầu nói"; nhưng Nietzsche không bao giờ ẩn mình, và nhào vào ngôi thứ nhất trên từng trang giấy một; sự tán dương của chàng về bản năng đối lại tư tưởng , về cá nhân đối lại xã hội, về yếu tố Dionysus đối lại Apollon (nghĩa là lãng mạn chống lại cổ điển), nói lên thời đại chàng sống một cách rõ ràng như ngày sinh ngày tử của chàng. Nietzsche đối với triết học của thời đại chàng cũng như Wagner đối với âm nhạc của thời đại ông, - tột đỉnh của phong trào lãng mạn, ngọn triều cao nhất của dòng lãng mạn; Nietzsche giải phóng ca tụng "ý chí" và "thiên tài" của Schopenhauer khỏi mọi kiềm chế xã hội, cũng như Wagner đã giải phóng và ca tụng nguồn đam mê trong bản Sonata Pathetique và các khúc hoà âm thứ 5 và 9. Nietzsche là kẻ hậu duệ vĩ đại cuối cùng của dòng họ Rousseau.

Bây giờ hãy trở lại trên đường ta đã du lịch với Nietzsche và nói với chàng - dù vô hiệu - một vài điểm chống đối mà chúng ta rất thường muốn đưa ra để ngắt lời chàng. Chàng cũng khá minh triết để tự thấy, vào những năm về sau của đời chàng, biết bao phi lý đã đóng góp cho vẻ độc đáo của cuốn Khai sinh của Bi kịch. Những học giả như Wilamowitz-Moellendorff cười nhạo tác phẩm ấy, bài nó ra khỏi lãnh vực ngữ học. Sự cố suy ra Wagner từ Achille là sự tự thiêu của một tín đồ trẻ trước một vị thần chuyên chế. Ai sẽ nghĩ rằng thời canh tân là Dionysian, hoang dã, vô luân, rượu chè, đầy Bacchus-tính, và thời Phục Hưng là hoàn toàn ngược lại những điều này - bình lặng, kiềm thúc, điều độ, đầy Apollon-tính ? - Ai sẽ nghi ngờ rằng "Chủ nghĩa Socrate là nỗi miệt thị của một người mê say Wagner đối với nền tư tưởng hợp luận lý, lòng ái mộ Dionysus là sự tôn thờ hoạt động nơi con người thường ngồi một chỗ, và sự thèm muốn thầm kín của một kẻ độc thân hay thẹn đối với tửu lượng và dục tính đầy khí chất nam nhi.

Có lẽ Nietzsche có lý khi cho rằng thời tiền-Socrate là những ngày tốt đẹp của Hy Lạp; dĩ nhiên chiến tranh đã phá tung nền tảng kinh tế và chính trị của văn hoá Périclès. Nhưng cũng hơi phi lý khi chỉ thấy ở Socrate một nền phê phán gây phân hoá (làm như thể công việc của chính Nietzsche không phải là điểm này) chứ không thấy cả một công trình cứu rỗi một xã hội bị tàn phá không phải vì triết học mà vì chiến tranh , mục nát và vô luân. Chỉ có một giáo sư chuyên về nghịch lý mới có thể xếp hạng những đoạn văn tối nghĩa và độc đoán của Héraclites trên sự minh triết của chín chắn và nghệ thuật đã phát triển của Platon. Nietzsche tố cáo Platon như đã tố cáo tất cả những người chàng vay mượn - không ai là một anh hùng đối với chủ nợ của mình; nhưng triết học của Nietzsche là gì nếu không là nền đạo đức của Thrasymachus và Callicles, và nền chính trị của Socrate - Platon ? Với tất cả môn ngữ học của mình, Nietzsche cũng chưa bao giờ hoàn toàn lọt vào được trong tinh thần Hy Lạp, chàng chưa bao giờ học được bài học theo đó sự điều độ và tự tri (như lời dạy của những bia đền Delphes và những triết gia vĩ đại) có tác dụng ngăn chận - chứ không dập tắt - ngọn lửa của đam mê và dục vọng; rằng Apollon phải hạn chế bớt Dionysus. Một số người đã mô tả Nietzsche là một người vô thần, song không hẳn thế, không phải chàng vô thần kiểu Hy Lạp như Périclès, hay kiểu Đức như Goethe, chàng thiếu chính cái thế quân bình và tiết độ đã làm cho những người này mạnh. "Tôi sẽ đem lại cho người niềm bình an trong sáng vốn là điều kiện cho mọi nền văn hoá", chàng đã viết. Nhưng than ôi, làm sao một người có thể cho cái mà y không có ?

Trong tất cả những tác phẩm của Nietzsche, Zarathustrađược yên ổn nhất không bị phê bình, một phần vì nó tối nghĩa, một phần nhờ những giá trị không thể chối cãi của nó đã làm lu mờ mọi sự chỉ trích những sai lầm. Ý tưởng về sự tái hồi vĩnh viễn, mặc dù chung cho Spencer "Apollon" cũng như cho Nietzsche "Dionysus", đã đập vào trí ta như một tưởng tượng thiếu lành mạnh, một nỗ lực kỳ dị cuối cùng để phục hồi niềm tin vào bất tử. Mọi nhà phê bình đều thấy rõ mâu thuẫn giữa lối thuyết giáo táo bạo về duy ngã (Zarathustra tuyên bố Ngã là toàn vẹn và linh thiêng, sự vị ngã được ban phước) và sự kêu gọi vị tha, quên mình đã chuẩn bị phụng sự siêu nhân. Nhưng đọc triết lý này, ai sẽ tự xếp hạng mình là kẻ nô lệ chứ không phải là siêu nhân ?

Còn về hệ thống đạo đức của Bên kia thiện và ácvà Nguồn đạo đức, thì quả là một cuộc nói quá trớn rất gây kích động. Chúng ta công nhận rằng cần phải đòi hỏi con người dũng cảm hơn, cứng rắn hơn đối với mình - hầu hết mọi nền đạo đức đều đã đòi hỏi chuyện ấy; song thật không có gì cần thiết khẩn cấp trong việc kêu gọi con người phải tàn bạo hơn và "xấu xa" hơn. Dĩ nhiên đấy là một công việc dư thừa. Và cũng không quá khẩn thiết để phàn nàn rằng đạo đức là một khí giới mà kẻ yếu sử dụng để hạn chế kẻ mạnh: kẻ mạnh không bị ấn tượng quá sâu xa của đạo đức, trái lại đúng hơn họ đã rất khéo sử dụng nó: mọi quy lực đạo đức đều bị bắt buộc từ bên trên, chứ không phải từ bên dưới; đám đông thường ca tụng và chê trách rập theo uy lực. Cũng thế, thỉnh thoảng nên tàn nhẫn với tính khiêm cung là điều tốt; "chúng ta đã cầu xin quỵ luỵ khá lâu rồi", như nhà thi sĩ râu xám (bạc) của chúng ta nói, song ngày nay ta không thấy ai có quá nhiều tính ấy. Ở đây Nietzsche đã thiếu mất ý thức lịch sử mà chàng vẫn ca tụng là rất cần thiết đối với triết học; nếu không chàng sẽ thấy rằng lý thuyết về tính hoà nhã và khiêm cung của tâm hồn chính là một liều thuốc giải cần thiết cho những đức hạnh bạo động hiếu chiến của những người dã man đã - vào nghìn năm đầu của kỷ nguyên Ki-tô - suýt phá hoại chính nền văn hoá trong đó Nietzsche luôn luôn trở về để trú ẩn và bồi dưỡng. Có lẽ sự nhấn mạnh điên rồ man dại này trên quyền lực và động chuyển chính là dư vang của một thời đại lên cơn sốt hỗn loạn ? Cái ý chí quyền lực mà Nietzsche cho là phổ quát không thể chứng minh được sự trầm lặng của người Ấn, bình tĩnh của người Trung Hoa, hay tập tục được tuân giữ nơi người dân quê thời trung cổ. Quyền lực là thần tượng của một vài người, nhưng phần đông chúng ta đều mong được yên ổn, hoà bình.

Nói chung, như có lẽ mọi độc giả đã thấy rõ, Nietzsche không nhận chân được địa vị và giá trị của những bản năng xã hội; chàng cho rằng những kích động của lòng tự cao và cá nhân chủ nghĩa cần được triết học tăng cường ! Người ta phải ngạc nhiên tự hỏi con mắt chàng để ở đâu khi tất cả Âu châu đang quên bẵng những tập tục trong một vũng lầy chiến tranh vị kỷ, đang hấp thụ chính nền văn hoá mà Nietzsche vô cùng tán dương, và đang cần một sự hợp tác, tiện nghi xã hội và sự tự chế. Vai trò cốt yếu của Ki-tô giáo là phải tiết chế điều hoà bản tính dã man tự nhiên của con người bằng cách ghi tạc vào trong y một lý tưởng cực đoan về sự từ hoà, và một nhà tư tưởng nào lo sợ con người đã đồi truỵ không còn đủ vị ngã, và lại bước vào sự thực hành quá độ đức hạnh Ki-tô giáo, nhà tư tưởng ấy chỉ cần nhìn quanh mình một cái để được an tâm.

Bị cô độc vì bịnh hoạn và thần kinh dễ kích động, bị bắt buộc tuyên chiến với sự biếng nhác uể oải tầm thường của con người, Nietzsche đi đến chỗ cho rằng mọi đức hạnh lớn là đức hạnh của những con người biệt lập. Chàng phản kháng lại thuyết Schopenhauer cho rằng cá nhân phải chìm trong nòi giống bằng một sự giải phóng thiếu quân bình của cá nhân ra khỏi kiểm soát của xã hội. Bị thất bại trong cuộc săn tìm tình yêu, chàng đã xoay ra đả kích phụ nữ bằng giọng điệu chua chát không xứng với một triết gia, và không tự nhiên nơi một người đàn ông; thiếu giây liên hệ thân thuộc và mất tình bạn, chàng không bao giờ biết được rằng những giai đoạn tốt đẹp nhất trong đời chỉ xuất hiện qua sự hỗ tương bè bạn hơn là từ sự thống trị và chiến tranh. Chàng đã không sống đủ lâu và đủ rộng để làm chín mùi những chân lý nửa chừng của mình thành ra minh triết. Có lẽ nếu Nietzsche sống lâu hơn, chàng đã biết đổi đám lý thuyết hỗn độn chát chúa của mình thành nền triết học nhịp nhàng hoà điệu. Những lời sau đây của Nietzsche nói về Chúa Giê-su thật đúng cho chàng hơn: "Ngài chết quá sớm; chính Ngài sẽ rút lui lý thuyết của mình nếu Ngài đạt đến tuổi chín chắn hơn, vì Ngài khá cao thượng để rút lui như thế !". Nhưng thần chết có những chương trình khác.

Có lẽ về chính trị, thị kiến của Nietzsche xem ra lành mạnh vững vàng hơn về đạo đức. Nền quý tộc là nền cai trị lý tưởng, ai chối cãi được ? "Ôi hỡi trời cao ! Trong mọi quốc gia ...có một con người xứng đáng nhất, minh triết nhất, dũng cảm nhất, tốt nhất, con người chúng ta có thể tìm ra và tôn làm chúa tể ngự trị chúng ta, tất cả quả thật, đều tốt đẹp... khám phá người bằng phương thế nào ? Trời cao không vì trắc ẩn mà dạy phương thế nào hay sao ? Vì nhu cầu của chúng ta đối với người ấy thật quá lớn lao !*)" [*) Carlyle, Past and Present , NY 1901). Nhưng ai là người tốt nhất ? Người ấy có phải chỉ xuất hiện trong một vài gia đình, và bởi thế phải chăng chúng ta cần có nền quý tộc tập truyền ? Nhưng chúng ta đã có nền quý tộc ấy; và đã dẫn đến sự theo đuổi phe đảng, sự vô trách nhiệm của giai cấp, sự cô đọng. Có lẽ những nền quý tộc đã được cứu rỗi cũng nhiều lần như bị phá hoại - nhờ sự kết hôn với lớp trung lưu; giới quý tộc Anh đã tự duy trì bằng cách nào khác đâu ? Và có lẽ nhờ nuôi dưỡng bên trong những kẻ suy đồi ? Hiển nhiên có rất nhiều khía cạnh trong vấn đề phức tạp này mà Nietzsche đã mạnh mẽ tung vào những tiếng " ừ " và " không ". Những nền quý tộc tập truyền không thích thống nhất thế giới; họ thường thiên về một chính sách quốc gia hẹp hòi, dù những người quý tộc ấy tỏ ra có thế giới chủ nghĩa mấy đi nữa trong cách cư xử của họ; nếu họ bỏ quốc gia chủ nghĩa, họ sẽ mất một nguồn chính yếu của quyền lực họ - sự điều khiển những giao tế ngoại bang. Và có lẽ một quốc gia cỡ thế giới sẽ không lợi cho văn hoá nhiều như Nietzsche tưởng; những khối lớn thường di chuyển rất chậm chạp; và có lẽ Đức quốc đóng góp được nhiều cho văn hoá khi chỉ là một "biểu hiện địa lý" với những triều đình độc lập cạnh tranh nhau trong việc bảo trợ văn hoá - hơn là vào thời đại của nước Đức thống nhất; cũng không phải vị hoàng đế đã yêu quý Goethe và cứu vãn Wagner .

Một ảo tưởng thông thường là những giai đoạn lớn lao của văn hoá đã là những thời đại của quý tộc tập truyền, trái lại, những thời kỳ thịnh vượng của Périclès, Medici, Elizabeth và thời lãng mạn đều được nuôi dưỡng bằng tài sản của giới trưởng giả giàu có, và công trình sáng tạo văn chương nghệ thuật thường hoàn tất không phải do những gia đình quý tộc mà do con cháu của giới trung lưu: - Do những người như Socrate, con của một bà đỡ; Voltaire, con một viên đại tụng (luật sư); Shakespeare, con một người hàng thịt. Chính những thời đại của biến động đổi thay đã kích động sức sáng tạo văn hoá; những thời đại trong đó một giai cấp mới hùng mạnh vươn lên quyền lực. Trong chính trị cũng thế; sẽ là một việc tự sát nếu gạt ra khỏi những thiên tài thiếu dòng máu quý tộc; chắc chắn công thức tốt hơn là một "nghề mở rộng cửa cho tài năng" dù sinh ở đâu đi nữa; và thiên tài thường có thói ra đời ở những chỗ lạ lùng nhất. Chúng ta hãy để cho tất cảnhững người tốt nhất cai trị. Một nền quý tộc chỉ tốt đẹp nếu nó là một tập đoàn linh động gồm những người mà bảo-chứng để nắm quyền hành không phải là dòng dõi mà là tài năng, một nền quý tộc không ngừng được đào thải, chọn lọc và nuôi dưỡng từ sự mở rộng cơ hội cho tất cả mọi người.

Sau những suy luận ấy (nếu cần ta phải suy luận) cái gì còn lại. Đã đủ để làm cho người phê bình khó chịu. Nietzsche đã bị bài bác bởi những người ưa sự khả kính : tuy nhiên chàng vẫn đứng vững như trụ đá trong tư tưởng hiện đại, là một đỉnh núi trong tản văn Đức. Chắc hẳn chàng có lỗi nói hơi quá đáng khi tiên đoán rằng tương lai sẽ chia quá khứ thành những giai đoạn "trước Nietzsche" và "sau Nietzsche"; nhưng quả là chàng đã thành công trong việc thi hành một cuộc soát lại, có tính cách phê phán những định chế và quan niệm đã được xem như tất nhiên qua nhiều thế kỷ. Chàng lại còn mở rộng một tầm nhãn quan mới rọi vào kịch nghệ và triết học Hy Lạp; chàng đã chỉ rõ ngay từ đầu, những hạt mầm sự suy tàn lãng mạn trong âm nhạc Wagner; chàng đã phân tích bản tính người của chúng ta một cách tinh vi sắc bén như mũi dao của nhà giải phẫu, và có lẽ cũng có tính cách cứu chữa như mũi dao ấy; chàng đã vạch trần một số cội rễ thầm kín của đạo đức như chưa một nhà tư tưởng hiện đại nào đã làm; chàng "du nhập một giá trị bấy lâu nay hầu như không được biết tới, vào trong những lãnh vực của đạo đức : ấy là quý tộc"; chàng buộc chúng ta phải suy nghĩ một cách đứng đắn về những hàm ẩn đạo đức trong thuyết Darwin; chàng đã viết bài thơ tản văn vĩ đại nhất trong văn chương thế kỷ chàng; và (điều này trên hết) chàng đã quan niệm về con người như một cái gì phải vượt qua. Chàng ăn nói chua chát, nhưng với một sự chân thành vô giá; và tư tưởng chàng đi qua những đám mây mờ và tơ nhện của tâm thức hiện đại như một làn chớp quét sạch một cơn gió tạt mạnh. Không khí của triết học Âu châu bây giờ trong sáng hơn, tươi mát hơn, nhờ Nietzsche đã tung ngọn bút.

---o0o---

X. KẾT CUỘC


"Ta yêu con người muốn tạo một cái gì cao hơn chính mình, và chết vì thế", Zarathustra đã nói.

Chắc hẳn nồng độ mãnh liệt của tư tưởng Nietzsche đã sớm tiêu diệt chàng. Cuộc chiến chống lại thời gian làm tâm trí chàng mất quân bình; "người ta đã luôn luôn nhân thấy rằng thật là một điều ghê gớm khi tuyên chiến với hệ thống đạo đức của thời đại mình; việc ấy sẽ gây cuộc phục thù từ bên trong và từ bên ngoài" (Ellis, 39). Càng về cuối đời, tác phẩm Nietzsche càng chua chát; chàng đả kích nhân vật cũng như tư tưởng Wagner, đấng Ki-tô v.v. "Sự tăng trưởng trí tuệ - chàng viết - có thể được đo chính xác bằng sự giảm thiểu tính cách cay chua" nhưng chàng không thể thuyết phục được ngọn bút của chàng. Ngay giọng cười của Nietzsche cũng trở thành bệnh hoạn khi tâm trí chàng suy sụp; không có gì có thể chỉ bày chất độc đang làm tiêu mòn Nietzsche rõ hơn ý tưởng này: "Có lẽ tôi biết rõ vì sao con người là con vật duy nhất có nụ cười: vì chỉ mình nó là đau đớn dữ dội đến nỗi buộc lòng phải phát minh tiếng cười" (Ý chí quyền lực, 1, 24). Bệnh hoạn và sự mù loà càng ngày càng tăng là khía cạnh sinh lý trong cơn suy sụp của chàng. Nietzsche bắt đầu tuôn ra những cơn ám ảnh của bệnh vọng tưởng, như cảm thấy mình vĩ đại, cảm thấy bị hành hạ; chàng gởi một trong những cuốn sách của chàng cho Taine với một lời ghi cả quyết với nhà phê bình lỗi lạc ấy rằng đấy là tác phẩm tuyệt diệu nhất từ xưa tới nay, và trong tác phẩm cuối cùng của Nietzsche, Ecce Homo (Đây, con người), chàng trút đầy những lời tự tán dương điên loạn như ta đã thấy Ecce homo - than ôi, chúng ta đã thấy con người ấy ở đây quá rõ !

Có lẽ nếu được những người khác tán thưởng thì chàng đã bớt được kiểu tự tôn tự đại, và có chỗ bám víu vững hơn vào tương lai và vào sự sáng suốt bình thường. Nhưng sự khen ngợi đến quá muộn. Taine gởi cho chàng một lời khen nồng hậu trong khi hầu hết mọi người khác đều xem chàng như không có, hoặc chửi rủa chàng ; Brandes viết cho chàng hay, ông đang giảng một khoá về "chủ nghĩa cấp tiến quý tộc" của Nietzsche ở đại học Copenhagen; Strindberg viết rằng ông đang đưa những tư tưởng của Nietzsche vào kịch nghệ; và có lẽ điều hay hơn cả là một người hâm mộ vô danh đã gửi một chi phiếu 4000 Mỹ kim. Nhưng khi những mảnh tia sáng như thế đến, thì Nietzsche đã gần như mù loà về thị giác lẫn tâm hồn, chàng đã bỏ hy vọng, "Thời tôi chưa đến", -chàng viết - "chỉ có cái ngày sau ngày mai mới thuộc về tôi" (Đây, con người, 55).

Tai hoạ cuối cùng xảy đến ở Turin vào tháng giêng năm 1889, dưới hình thức một cơn trúng gió, chàng lảo đảo quờ quạng đi trở về gian phòng sát mái của chàng, và tung ra những bức thư điên: gởi cho Cosima Wagner bốn chữ - "Ariadne, anh yêu em"; gởi cho Brandes một thư dài hơn, ký tên "Đấng Bị Đóng Đinh" (trên thập giá -chú thích của người đánh máy-)và gởi cho Burckhardt và Overbeck những bức thư quái dị đến nỗi Overbeck vội vàng đến thăm chàng. Ông bắt gặp Nietzsche đang nện chiếc dương cầm bằng hai khuỷu tay, vừa hát vừa gào lên cơn mê cuồng kiểu Dionysus.

Ban đầu họ đưa chàng đến một viện dưỡng trí, nhưng mẹ già chàng liền đến xin đem chàng về dưới sự săn sóc đầy bao dung của bà. Cảm động làm sao ! Người đàn bà ngoan đạo ấy đã chịu đựng một cách đau đớn nhưng kiên nhẫn cơn kinh hoàng trước sự bội giáo của con bà, đối với tất cả những gì bà yêu quý, song không vì thế mà bớt yêu thương chàng, bây giờ bà đang đón nhận chàng trong đôi tay, như hình ảnh mộtPieta. Bà chết năm 1897, và Nietzsche được em chàng đem đến sống ở Weimar. Ở đây Kramer đã nặn một bức tượng của chàng - một cảnh đau lòng, cho ta thấy bộ óc một thời oanh liệt bây giờ đã tan rã, vô vọng. Tuy nhiên chàng không phải hoàn toàn bất hạnh; niềm bình an mà chàng chưa bao giờ hưởng được lúc lành mạnh bấy giờ đã đến với chàng. Trời đã thương khi làm cho chàng điên loạn. Một lần bắt gặp em chàng khóc khi nhìn chàng, Nietzsche không thể hiểu được, chàng hỏi: "Này Lisbeth, tại sao em khóc ? Chúng ta không hạnh phúc đấy hay sao ?". Vào một dịp khác, khi nghe nói đến sách vở, gương mặt xanh xao của Nietzsche vụt ngời sáng: "A, tôi cũng thế, tôi cũng đã từng viết vài cuốn sách hay !". Rồi giây phút minh mẫn ấy vụt tắt.

Chàng mất năm 1900. Chưa ai từng phải trả một giá lớn lao đến thế cho thiên tài



---o0o---

HẾT

tải về 2.14 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   48   49   50   51   52   53   54   55   56




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương