Con Ðường Cổ Xưa (The Buddha's Ancient Path)


KINH NÓI VỀ CÁC NỀN TẢNG CHÁNH NIỆM



tải về 1.51 Mb.
trang13/17
Chuyển đổi dữ liệu20.05.2018
Kích1.51 Mb.
#38731
1   ...   9   10   11   12   13   14   15   16   17

KINH NÓI VỀ CÁC NỀN TẢNG CHÁNH NIỆM [308[20]]
(Kinh Niệm Xứ)

Ta nghe như vầy:

Một lần nọ Ðức Thế Tôn đang trú ở xứ Kuru, tại Kammàsadhamma, một thị tứ của người dân kuru.

Lúc bấy giờ Ðức Thế Tôn gọi các vị Tỳ khưu lại và nói như vầy: "Này các Tỳ khưu", chư Tỳ khưu trả lời "Vâng bạch Ðức Thế Tôn". Ðức Thế Tôn nói như sau:

Ðây là con đường độc nhất, này các Tỳ khưu, nhằm tịnh hoá các chúng sanh vượt khỏi sầu bi, đoạn tận khổ, ưu, đưa đến chánh đạo và chứng đắc Niết bàn, đó là con đường Tứ Niệm Xứ. Thế nào là bốn? Ở đây (trong giáo pháp này), vị Tỳ khưu309[21] sống thực hành quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác và chánh niệm (trên thân) để vượt qua mọi tham ái, ưu bi ở đời (tức thân); vị ấy sống thực hành quán thọ trên các cảm thọ, nhiệt tâm, tỉnh giác và chánh niệm để vượt qua mọi tham ái, ưu bi ở đời (tức cảm thọ); vị ấy sống thực hành quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tỉnh giác; chánh niệm để vượt qua mọi tham ái ưu bi ở đời (tức tâm); vị ấy sống thực hành quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác và chánh niệm để vượt qua mọi tham ái, ưu bi ở đời (tức các pháp).

I. QUÁN THÂN TRÊN THÂN

1) Niệm Hơi Thở:

Như thế nào, này các Tỳ khưu, là một vị Tỳ khưu sống thực hành quán thân trên thân. Ở đây, vị Tỳ khưu sau khi đã đi vào rừng, đến dưới gốc cây, hay một nơi thanh vắng310[22], ngồi kiết già giữ lưng thật thẳng và niệm của vị ấy tỉnh táo, chánh niệm vị ấy thở vào, chánh niệm vị ấy thở ra. Khi thở vào một hơi dài, vị ấy biết rõ: "Ðang thở vào hơi dài"; khi thở ra một hơi dài, vị ấy biết rõ Ðang thở ra hơi thở dài, khi thở vào một hơi ngắn, vị ấy biết rõ "Ðang thở vào hơi ngắn"; khi thở ra một hơi ngắn, vị ấy biết rõ "Ðang thở ra hơi ngắn". Ý thức rõ toàn tiến trình (hơi thở) ta sẽ thở vào, vị ấy tự luyện tập như vậy ý thức rõ toàn tiến trình311[23] (hơi thở). Ta sẽ thở ra,vị ấy tự luyện tập như vậy.

Như vậy vị ấy sống thực hành quán thân trên nội thân hay quán thân trên ngoại thân hoặc quán thân trên nội và ngoại thân "đó là quán hơi thở của chính mình và hơi thở của người khác (ngoại thân) và quán xen kẽ hơi thở mình và hơi thở người khác"... Như vậy, vị ấy sống không lệ thuộc, không chấp trước điều gì trên thế gian này.

Vị Tỳ khưu sống thực hành quán thân trên thân là như vậy.



2) Các Oai Nghi Của Thân

Lại nữa, khi đi vị ấy biết rõ: "Ðang đi", khi đứng, khi ngồi, khi nằm, vị ấy biết rõ (đó là vị ấy ý thức rõ các tư thế của thân). Ðang ở trong tư thế nào vị ấy biết rõ rệt như vậy. Như vậy, vị ấy sống thực hành quán thân trên thân... (như trước). Vị ấy sống không lệ thuộc và không chấp trước bất cứ điều gì trên thế gian này.



3) Bốn Loại Tỉnh Giác:

Lại nữa, khi đi tới và đi lui, vị ấy ứng dụng trí tuệ tỉnh giác. Khi nhìn thẳng và nhìn sang hai bên, vị ấy ứng dụng trí tuệ tỉnh giác; khi co, khi duỗi chân tay, vị ấy ứng dụng trí tuệ tỉnh giác; khi mặc y, khi mang bát (đi khất thực), khi ăn, khi uống, khi nhai, khi nếm, khi đại tiện, khi tiểu tiện, vị ấy ứng dụng trí tuệ tỉnh giác, khi đi, đứng, nằm, ngồi312[24], khi thức, khi nói năng, khi yên lặng, vị ấy ứng dụng trí tuệ tỉnh giác.

Như vậy vị ấy sống thực hành quán thân trên thân...

Vị ấy sống không lệ thuộc và chấp trước bất cứ điều gì trên thế gian này.



4) Quán Thân Uế Trược.

Lại nữa, vị ấy quán sát ngay nơi thân này, từ lòng bàn chân trở lên và từ tóc trên đỉnh đầu trở xuống, được bao bọc bởi một lớp da và chứa đầy những thứ bất tịnh, vị ấy quán như vầy: "Trong thân này có tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương v.v...".

Như vậy vị ấy sống thực hành quán thân trên thân.

Vị ấy sống không lệ thuộc, chấp trước vào bất cứ điều gì trên thế gian này.



5) Quán Sát Tứ Ðại.

Lại nữa, vị Tỳ Khưu quán sát ngay trên thân này... tư duy: "Trong thân có địa đại, thủy đại, hỏa đại và phong đại..."

Như vậy, vị ấy sống thực hành quán thân trên thân... Vị ấy sống không lệ thuộc, không chấp trước vào bất cứ điều gì trên thế gian này.

6) Quán Chín Ðề Mục Tử Thi.

Lại nữa, nếu vị ấy thấy một xác chết... vị ấy quán ngay trên thân mình như vầy: "Quả thực, thân của ta đây cũng có những bản chất như vầy, rồi nó sẽ trở thành như tử thi này, không thể nào thoát khỏi".

Như vậy, vị ấy sống thực hành quán thân trên thân.

Vị ấy sống không lệ thuộc, không chấp trước vào bất cứ điều gì trên thế gian này.



(Bài kinh giải thích rõ chín giai đoạn biến dạng của tử thi như: Tử thi chết một ngày, hai ngày, ba ngày, trương phình lên, xanh đen lại, nát thối ra... mỗi trường hợp như vậy người hành thiền phải quán ngay trên thân mình như vầy: ‘Quả thực, thân này của ta đây, cũng có những bản chất như vậy, rồi nó sẽ trở thành như thế ấy không thể nào thoát khỏi’).

II. QUÁN CÁC CẢM THỌ

Và, như thế nào là một Tỳ Khưu sống thực hành quán thọ trên các cảm thọ? Ở đây, vị Tỳ Khưu khi cảm giác một thọ lạc, vị ấy biết rõ: "Ðang cảm giác một thọ lạc"; khi cảm giác một thọ khổ, vị ấy biết rõ: "Ðang cảm giác một thọ khổ"; khi cảm giác một thọ bất lạc bất khổ, vị ấy biết rõ: "Ðang cảm giác một thọ bất lạc, bất khổ", khi cảm giác một thọ lạc thuộc vật chất, vị ấy biết rõ: "Ðang cảm giác một thọ lạc thuộc vật chất"; khi cảm giác một thọ lạc phi vật chất, vị ấy biết rõ: "Ðang cảm giác một thọ lạc phi vật chất"; khi cảm giác một thọ khổ thuộc vật chất, vị ấy biết rõ: "Ðang cảm giác một thọ khổ thuộc vật chất"; khi cảm giác một thọ khổ phi vật chất, vị ấy biết rõ: "Ðang cảm giác một thọ khổ phi vật chất"; khi cảm giác một thọ bất khổ bất lạc thuộc vật chất, vị ấy biết rõ: "Ðang cảm giác một thọ bất lạc bất khổ thuộc vật chất", khi cảm giác một thọ bất lạc bất khổ phi vật chất, vị ấy biết rõ: "Ðang cảm giác một thọ bất lạc bất khổ phi vật chất"313[25].

Như vậy vị ấy sống thực hành quán thọ trên các nội thọ, hay sống quán thọ trên các ngoại thọ, hay sống quán thọ trên các nội, ngoại thọ ...(như trước)... vị ấy sống không lệ thuộc, không chấp trước vào điều gì trên thế gian này.

III. QUÁN TÂM

Và thế nào là một vị Tỳ khưu sống thực hành quán tâm trên tâm? Ở đây, vị Tỳ khưu khi tâm có tham, biết tâm có tham, khi tâm không tham, biết tâm không tham. Khi tâm có sân, biết tâm có sân... khi tâm không sân, biết là tâm không sân, khi tâm có si, biết tâm có si, khi tâm không si biết tâm không si; tâm đang ở trạng thái co rút biết rằng tâm co rút (đó là một trạng thái trì trệ của tâm). Khi tâm đang ở trạng thái tán loạn, biết tâm tán loạn (đó là một trạng thái bất an của tâm). Khi tâm đang ở trạng thái phát triển (đó là tâm thiền sắc giới và vô sắc giới, nghĩa là tâm định sắc giới và tâm định vô sắc giới). Khi tâm đang ở trạng thái không phát triển, biết tâm không phát triển (phàm tâm thuộc dục giới), khi tâm hữu hạn, biết tâm hữu hạn (tâm dục giới); khi tâm vô hạn, biết tâm vô hạn (tâm sắc giới và vô sắc giới); khi tâm có định biết tâm có định, khi tâm không định biết tâm không định; khi tâm giải thoát biết tâm giải thoát, khi tâm không giải thoát biết tâm không giải thoát. Như vậy vị ấy sống thực hành quán tâm trên nội tâm, hay quán tâm trên ngoại tâm, hay quán tâm trên nội, ngoại tâm... (như trước).

Vị ấy sống không lệ thuộc, không chấp trước vào điều gì trên thế gian này.

IV. QUÁN PHÁP

Thế nào là vị Tỳ khưu sống thực hành quán pháp trên các pháp?



Năm Triền Cái:

Ở đây vị Tỳ khưu sống thực hành quán pháp trên các pháp đối với năm triền cái314[26]. Và vị ấy quán pháp trên các pháp đối với năm triền cái như thế nào?

Ở đây, khi tham dục có mặt, vị ấy biết rõ: "Nội tâm có tham dục", hay khi tham dục vắng mặt, vị ấy biết rõ: "Nội tâm không có tham dục", vị ấy biết rõ vì sao những tham ái chưa sanh nay sanh khởi, và vị ấy biết rõ vì sao tham ái đã được diệt trừ không còn khởi sanh trong tương lai nữa. (đối với sân hận cái, hôn trầm thuỵ miên cái, trạo cử phóng dật cái và hoài nghi cái cũng áp dụng như trên).

Như vậy vị ấy sống thực hành quán pháp trên các nội pháp, hay quán pháp trên các ngoại pháp, hoặc quán pháp trên nội pháp, ngoại pháp... (như trước).

Vị ấy sống không lệ thuộc, không chấp trước vào bất cứ điều gì trên thế gian này.

Năm Thủ Uẩn

Ở đây vị Tỳ khưu tư duy: "Sắc là như vầy, sự sanh khởi của sắc là như vầy, sự đoạn diệt của sắc là như vầy (tương tự như thế đối với thọ, tưởng, hành và thức)". Như vậy vị ấy sống thực hành quán pháp trên các nội pháp... (như trước)...

Vị ấy sống không lệ thuộc, không chấp trước vào bất cứ điều gì trên thế gian này.

Sáu Nội Xứ và sáu Ngoại Xứ (sáu Căn và sáu Trần)

Ở đây, vị Tỳ khưu biết rõ con mắt, biết rõ các sắc và kiết sử phát sanh do duyên con mắt và các sắc ấy, vị ấy biết rõ kiết sử chưa sanh nay sanh khởi như thế nào, vị ấy cũng biết rõ kiết sử đã sanh nay được đoạn trừ như thế nào, và các kiết sử đã được đoạn trừ không còn sanh khởi trong tương lai như thế nào.

Vị ấy biết rõ tai và các tiếng...; mũi và các mùi...; lưỡi và các vị....; thân và các xúc...;ý và các pháp, và biết rõ kiết sử khởi sanh do duyên hai pháp này, vị ấy biết rõ kiết sử chưa sanh nay sanh khởi như thế nào; vị ấy cũng biết rõ kiết sử đã sanh nay được đoạn trừ như thế nào, và kiết sử đã được đoạn trừ không còn khởi sanh trong tương lai như thế nào.

Như vậy vị ấy sống thực hành quán pháp trên các nội pháp... (như trước).

Vị ấy sống không lệ thuộc và không chấp trước vào bất cứ điều gì trên thế gian này.

Thất Giác Chi

Ở đây khi Niệm Giác Chi có mặt, hành giả biết rõ: "Ðang có niệm giác chi"; hoặc khi niệm giác chi vắng mặt, vị ấy biết rõ: "Niệm giác chi không có mặt". Vị ấy biết rõ lý do Niệm giác chi chưa sanh nay sanh khởi, và biết rõ lý do niệm giác chi đã sanh nay được phát triển hoàn mãn (tương tự như vậy đối với sáu giác chi khác): Trạch pháp (Dhamma)315[27] giác chi; Tinh tấn giác chi; Hỉ giác chi; Khinh an giác chi; Ðịnh giác chi và Xả giác chi.

Như vậy vị ấy sống thực hành quán pháp trên các nội pháp hay quán pháp trên các ngoại pháp... (như trước).

Vị ấy sống không lệ thuộc, không chấp trước vào bất cứ điều gì trên thế gian này.



Bốn Thánh Ðế:

Ở đây vị Tỳ khưu như thật rõ biết (biết hợp theo sự thật) "đây là khổ, đây là nhân sanh của khổ; đây là sự diệt khổ; đây là con đường dẫn đến sự diệt khổ".

Như vậy vị ấy sống thực hành quán pháp trên các nội pháp, hay quán pháp trên các ngoại pháp... (như trước).

Vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên các pháp, hay vị ấy sống quán tánh hoại diệt trên các pháp, hay vị ấy sống quán tánh sanh diệt trên các pháp. Hay "chỉ có các pháp hiện tiền"vị ấy an trú chánh niệm như vậy cho đến mức độ cần thiết đủ để phát triển chánh trí và chánh niệm, và vị ấy sống không lệ thuộc, không chấp trước vào bất cứ điều gì trên thế gian này.

Này các Tỳ khưu, vị Tỳ khưu sống thực hành quán pháp trên các pháp đối với Bốn Thánh Ðế là như vậy.

Này các Tỳ khưu, nếu có người nào thực hành Bốn Niệm Xứ này đúng theo cách Như Lai đã giảng giải trong vòng bảy năm, vị ấy có thể trông đợi một trong hai quả; một là Chánh Trí (giải thoát cuối cùng, A-La-Hán quả hay Thánh quả) ngay trong kiếp hiện tại này, hoặc nếu còn hữu dư y, sẽ chứng quả Bất lai (Anàgàmità, A-Na-Hàm, tầng Thánh áp chót)316[28].

Nói gì đến bảy năm, nếu có người nào thực hành Bốn Niệm Xứ như vậy trong vòng bảy tháng... bốn tháng, ba tháng, hai tháng, một tháng... nửa tháng, lúc ấy vị ấy có thể chứng được một trong hai quả: Một là chứng Chánh Trí ngay trong kiếp hiện tại, hoặc nếu còn hữu dư y, sẽ chứng quả Bất lai (A Na Hàm).

Nói gì đến nửa tháng, nếu có người nào thực hành Bốn Niệm Xứ này trong vòng bảy ngày. Vị ấy vẫn có thể trông đợi một trong hai quả: Một là chứng chánh trí ngay trong kiếp hiện tại, hoặc nếu còn hữu dư y, sẽ chứng quả Bất lai.

Bởi thế mới nói rằng: "Ðây là con đường độc nhất, này các Tỳ khưu, để tịnh hoá các chúng sanh, để vượt qua sầu muộn và bi ai, để đoạn tận khổ, ưu, để thành tựu chánh đạo, chứng ngộ Niết bàn, đó là Bốn Niệm Xứ".

Ðức Thế Tôn thuyết như vầy, các Tỳ khưu hoan hỉ thọ trì lời dạy của Ðức Thế Tôn.

Ở đây, người đọc thận trọng sẽ nhận ra rằng trong bài kinh này, chánh niệm đặc biệt chỉ liên quan đến bốn pháp: Thân, Thọ, Tâm và Pháp - tất cả những gì gắn liền với con người, việc quán thân giúp chúng ta hiểu được bản chất thực của nó, không qua bất cứ sự giả cách nào cả, nhờ phân tích nó thành những yếu tố cơ bản, hay những yếu tố cùng tột của nó. Sự quán xét thân này còn giúp chúng ta nhận ra thân con người thuộc loại hiện tượng gì, và hiểu rằng đó chỉ là một tiến trình không có một thực thể hay cốt lõi nào nằm đằng sau nó để có thể được xem là thường hằng hay vĩnh cửu cả.

Hơi thở vào và hơi thở ra được bàn đến ở đây, như chúng ta biết, là tự động, bình thường không ai cố thở một cách có ý thức cả. Song khi thực hành chánh niệm hơi thở, chúng ta cố gắng thở một cách ý thức và tỉnh giác về hơi thở của mình. Mục đích của việc làm đó là để tu tập và làm tăng trưởng khả năng tập trung, đồng thời để đạt được sự vắng lặng của thân và tâm. Thật thú vị là hiện nay các nhà tâm lý học cũng đã nhận ra giá trị và tầm quan trọng của hơi thở ý thức như có khuynh hướng làm dịu lại những căng thẳng và bất an của tâm con người.

Lại nữa việc vận dụng tỉnh giác liên hệ đến các oai nghi và hoạt động của thân như đi, đứng, nằm, ngồi... giúp chúng ta loại trừ những tư duy lan man, cải thiện khả năng tập trung và phát triển sự tỉnh thức và chú niệm của chúng ta.

Quán thọ là loại chánh niệm thứ hai được đề cập trong kinh là thuần tuý chủ quan, một "việc làm trong tâm". Chúng ta được trông đợi là phải phân tích những cảm thọ hay cảm giác của chúng ta và quyết định xem chúng là loại gì: Lạc, khổ hay bất lạc bất khổ. Thường thường người ta ngao ngán khi phải tiếp nhận những cảm giác khó chịu hay thọ khổ, họ không thích những loại thọ như vậy, nhưng lại hân hoan với những cảm giác dễ chịu (thọ lạc). Tuy nhiên, sự luyện tập chánh niệm trên các cảm thọ này giúp cho ta cảm nhận mọi cảm thọ với một thái độ xả ly và tránh trở thành nô lệ cho chúng. Dần dần ta cũng nhận ra rằng chỉ có thọ, mà thọ này cũng chỉ là một hiện tượng thoáng qua, chứ không có Ngã nào cảm thọ (có thọ nhưng không có người cảm thọ).

Quán tâm là loại chánh niệm thứ ba nói lên cho chúng ta biết tầm quan trọng của việc nghiên cứu bản tâm của chúng ta, về sự tỉnh giác thích hợp đối với những tư duy khác nhau của chúng ta, trong trường hợp này, là những tư duy tham, sân, si, căn để của mọi điều ác, và những tư duy đối nghịch của chúng có khả năng làm mất tác dụng của những tư duy bất thiện đó. Chính loại phân biện vô tư của tâm và những tư duy của nó này giúp cho ta hiểu được chức năng thực sự của tâm, bản chất thực sự và cách hành xử của nó, nó có thể được dùng cho cả hai loại: Hành động đem lại lợi ích (thiện) và hành động không lợi ích (bất thiện) như thế nào. Người thực hành tâm quán niệm xứ này sẽ biết cách kiềm chế nó và không nằm dưới sự thống trị của nó.

Kinh điển có đề cập một câu chuyện khá thú vị về Trưởng lão Màhà Phussa. Trưởng lão thực hành niệm tâm và luôn luôn canh chừng những tư duy của mình một cách nghiêm ngặt. Nếu trong lúc đang đi mà một tư duy ác khởi lên trong tâm, ngài liền dừng lại và sẽ không tiếp tục cho đến khi nào tư duy bất thiện này đã được đoạn trừ. Người đi đường để ý thấy điều này thường tự hỏi không hiểu Trưởng Lão này có phải bị lạc đường hay đánh rơi vật gì trên đường chăng. Sau đó, nhờ thực hành chánh niệm liên tục như vậy mà vị ấy trở thành một bậc Thánh A-La-Hán, bậc không còn các cấu uế. Trường hợp của Trưởng Lão đã chỉ cho ta thấy rằng các bậc cổ đức ngày xưa không chỉ tỉnh giác đối với những tư duy của họ khi ngồi thiền thôi, mà các ngài còn thường xuyên thực hành trong mọi lúc mọi nơi.

Tâm quán niệm xứ cũng giúp chúng ta hiểu rằng, cái chúng ta gọi là tâm này chỉ là một tiến trình hằng chuyển bao gồm những tâm sở cũng luôn luôn thay đổi như vậy, và rằng không có một thực thể thường trú nào gọi là Bản Ngã hay Linh Hồn cả.

Loại chánh niệm thứ tư và cuối cùng của Bốn Niệm Xứ bao trùm tất cả các pháp (Dhamma) cơ bản, lời dạy của bậc Ðạo Sư, hầu hết các pháp đó đã được đề cập chi tiết trong tác phẩm này.

Sự mô tả mỗi loại chánh niệm trong bài kinh này đều kết thúc với những lời: "Vị ấy sống không chấp trước vào bất cứ điều gì trên thế gian này". Ðây là kết quả mà một vị hành giả nhắm đến, một sự thành tựu dành cho người luôn luôn nhiệt tâm và tinh tấn. Quả thực là rất khó để sống mà không chấp trước (dính mắc) vào bất cứ điều gì trên thế gian này, và những nỗ lực của chúng ta đạt đến những tầng bậc cao của cuộc sống tâm linh như vậy có thể không thành công rực rỡ. Tuy vậy, nó cũng xứng đáng cho ta để nỗ lực mãi mãi. Một ngày nào đó, nếu không ở kiếp sống này, trong kiếp sống tương lai chúng ta có thể đạt đến đỉnh cao mà những ai thực sự cố gắng đã đạt đến. Như ai đó đã nói:

"Hãy gieo một ý nghĩ, bạn sẽ gặt một hành động, hãy gieo một hành động, bạn sẽ gặt một thói quen. Hãy gieo một thói quen bạn sẽ gặt một nhân cách. Hãy gieo một nhân cách, bạn sẽ gặt một định mệnh, vì nhân cách chính là định mệnh vậy".

--ooOoo--



Ðầu trang | Mục lục | 01 | 02 | 03 | 04 | 05 | 06 | 07 | 08 | 09 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14
[Trở về trang Thư Mục]

Con Ðường Cổ Xưa
(The Buddha's Ancient Path)
Piyadassi Thera
Dịch giả: Tỳ Khưu Pháp Thông

CHƯƠNG XIII

CHÁNH ÐỊNH (SAMMÀ-SAMÀDHI)

-ooOoo-


Mỗi Tôn giáo đều đưa ra một loại hành thiền hay luyện tập tinh thần nào đó nhằm phát triển nội tâm của con người. Họ có thể chọn hình thức tĩnh tâm cầu nguyện, đọc kinh một mình hay hoà cùng một nhóm người, hoặc tập trung tinh thần vào một đối tượng thiêng liêng nào đó, có thể là người hay ý tưởng. Và người ta tin rằng những sự luyện tập tinh thần này, đôi lúc đưa đến kết quả là thấy được hình ảnh các vị Thánh hay các đấng linh Thiêng, nói chuyện với họ hoặc nghe được tiếng họ, và một số các điều huyền hoặc khác nữa. Dù cho đó là những ảo ảnh, sự tưởng tượng, ảo giác hay chỉ là những phóng hiện trong phần vô thức của tâm, hay những hiện tượng có thực chăng nữa, ta cũng không thể đoan chắc được. Tâm là một năng lực vô hình và hoàn toàn có khả năng tạo ra những hiện tượng này. Cho đến nay loại thiền xuất thần này vẫn được các vị tu theo phái Du Già (Yogis) và theo lối mặc khải thần linh thực hiện, loại thiền này đưa đến trạng thái mất hết ý thức và họ không còn cảm giác gì cả. Người viết bài này đã từng gặp những người trong tư thế "hành thiền" này rơi vào một loại mê man như thể đắm chìm trong tư lự nào đó. Một số người khác khi chứng kiến những trường hợp như vậy hiểu lầm rằng đây là một loại tu thiền (Bhavanà).

Kinh điển Phật giáo cho chúng ta biết rằng qua sự nhập định (Jhàna), và qua việc phát triển các khả năng của tinh thần, con người có thể thành tựu những năng lực thần thông, mà năng lực này có thể làm cho họ thấy những vật ở rất xa, thậm chí thấy được những chúng sanh ở cõi khác, nghe được các âm thanh ở xa và thấy được các kiếp quá khứ... nhưng một điều vô cùng quan trọng cần ghi nhớ ở đây là thiền Phật giáo không phải là một trạng thái tự động thôi miên, vô thức hay hôn mê. Thiền Phật giáo là một trạng thái thanh tịnh nội tâm ở đây các dục khuấy động và những thôi thúc bị chế ngự và làm cho lắng dịu xuống, nhờ vậy tâm trở nên chuyên nhất và tập trung hơn, từ đó đi vào một trạng thái ý thức trong sáng và chánh niệm rõ ràng.

Ðiều thú vị là trong các công trình nghiên cứu mới đây ở khoa cận tâm lý (para-psychology) người ta đã đi đến một sự chấp nhận nào đó về các hiện tượng này, quan tâm trong đề tài nghiên cứu khả năng ngoại cảm (extra-sensory perception) ở khoa tâm lý thực nghiệm cũng đang từng bước tiến triển và những kết quả nhận được dường như vượt quá sự hiểu biết thông thường.

Tuy nhiên đây chỉ là những sản phẩm bên lề mang ý nghĩa nhỏ nhoi so với sự giải thoát cuối cùng của con người khỏi những trói buộc. Ðôi khi những hiện tượng huyền bí này thậm chí còn có thể tác động như những trói buộc và làm chậm lại sự chứng ngộ giải thoát của con người. Thiền được dạy trong đạo Phật không phải để đạt đến sự hợp nhất với bất kỳ đấng siêu nhiên nào, hoặc để biểu thị những kinh nghiệm huyền bí, hay nhằm đưa mình vào những trạng thái thôi miên, thiền Phật giáo nhằm đem lại sự an tịnh và tuệ giác cho mục đích duy nhất là đạt đến bất động tâm giải thoát và sự an ổn tối thượng khỏi những trói buộc nhờ sự triệt tiêu hoàn toàn những cấu uế của tâm.

Con người là một tiến trình luôn luôn chuyển dịch của thân và tâm, trong đó yếu tố quan trọng nhất là tâm. Trong đạo Phật, do đó, điều tối quan trọng được gắn liền với tâm con người. Một lần nọ vị Tỳ khưu kia bạch hỏi Ðức Phật: "Bạch Ðức Thế Tôn thế gian do cái gì dẫn dắt? Thế gian bị lôi kéo bởi cái gì? Dưới sự thống trị của một pháp (Dhamma) nào mọi vật bị tuỳ thuộc?".

"Này Tỳ khưu, thế gian này do tâm dẫn dắt, do tâm thế gian bị lôi kéo, mọi vật đều tuỳ thuộc vào một pháp đó tà tâm"317[1].

Hay trong Tương Ưng Bộ (S.I 39), một vị Chư Thiên hỏi:



"Vật gì dẫn dắt đời
Vật gì tự não hại
Và có một pháp nào
Mọi vật đều tuỳ thuộc?".

Ðức Thế Tôn đáp:



"Chính tâm dẫn dắt đời,
Chính tâm tự não hại
Chính tâm là một pháp,
Mọi vật đều tuỳ thuộc".

Trong khi một số các vị giáo chủ đương thời với Ngài như Nàtaputta (jaina mahàvìra) coi thân hành là điều quan trọng nhất thì Ðức Phật lại đặt tâm lên vị trí hàng đầu318[2]. Cốt lõi những lời dạy của Ðức Phật là nhằm chế ngự và tịnh hoá nội tâm. Hạnh phúc phải được tìm nơi tự tâm cũng như sự hoàn thiện phải đạt được qua chính cái tâm này. Nhưng bao lâu tâm còn bị cấu uế, ô nhiễm và không chế ngự, chừng đó ta vẫn chưa thể thành tựu được điều gì xứng đáng qua nó cả. Vì vậy Ðức Phật nhấn mạnh việc tịnh hoá nội tâm như là điều cần yếu cho chân hạnh phúc và giải thoát khỏi mọi khổ đau.

Ngày nay nhiều người cho rằng tự do và buông thả là đồng nghĩa, và do những xu hướng quá thiên về vật chất của văn hoá hiện đại, trong đó nhục dục là chính, nghĩ rằng sự điều phục tự ngã319[3] sẽ gây trở ngại cho việc phát triển tự thân. Tuy nhiên, theo lời dạy của Ðức Phật, điều đó hoàn toàn khác. Nếu người ta thực sự muốn trở nên toàn hảo họ cần phải điều phục và chế ngự tự ngã của mình theo những đường lối chánh đáng. Ngăn ngừa tâm khỏi những nghiệp tham, sân, si và tập cho nó thực hiện những nghiệp không bị chi phối bởi tham, sân, si là con đường đi đến hạnh phúc và an lạc trong Giáo Pháp của Ðức Phật.

Chỉ khi tâm được chế ngự và được hướng vào con đường tấn hoá chân chánh lúc ấy nó mới trở nên hữu dụng cho người sở hữu nó và cho xã hội. Một cái tâm bừa bộn, phóng đãng đúng là gánh nặng cho cả chủ nhân của nó lẫn mọi người. Tất cả những sự tàn phá trong thế gian này đều được làm bởi những con người không biết cách chế ngự tâm, quân bình tâm và nhu thuận tâm.

Giai cấp, địa vị, mầu da và ngay cả sự giàu sang và quyền lực nhất thiết không thể làm cho một người trở thành người có giá trị trên thế gian này. Chỉ có nhân cách mới làm cho con người trở nên vĩ đại và đáng tôn trọng "chính nhân cách làm chói sáng trí tuệ"320[4]. Như Ðức Phật nói: "Tâm này là chói sáng (lúc mới sinh), nó trở nên ô nhiễm chỉ vì những cấu uế từ bên ngoài vào"321[5]. Quả thực khó mà đè nén được những thôi thúc và chế ngự những khuynh hướng bất thiện, buông bỏ những gì đã một thời quyến rũ và giam giữ ta trong cảnh tôi đòi nô lệ, và xua đuổi những ma chướng đã từng ám ảnh tâm hồn con người bằng hình thức của những tư duy bất thiện. Những tư duy này là sự biểu hiện của tham dục, sân hận và si mê, ba đạo quân của Tử Thần (Màra), chúng khó có thể bị đánh bại cho tới khi nào ta đạt đến sự thanh tịnh tuyệt đối nhờ thường xuyên tu tập nội tâm của mình.

Kiểm soát tâm là mấu chốt đưa đến hạnh phúc. Nó là Vua của mọi giới hạnh và là sức mạnh nằm đằng sau mọi sự thành tựu chân chánh. Chính do thiếu kiểm soát mà các xung đột khác nhau đã dấy sinh trong tâm con người. Nếu họ muốn kiểm soát tâm, họ phải học cách không buông thả cho những khát vọng và khuynh hướng của mình và phải cố gắng sống biết tự chế, khắc kỷ, trong sạch và điềm tĩnh.

Ðiềm tĩnh không phải là sự nhu nhược. Một thái độ điềm tĩnh lúc nào cũng tỏ cho thấy là một người có văn hóa. Thực ra, khi mọi vấn đề đều thuận chèo mát mái thì không quá khó cho một người để giữ được thái độ điềm tĩnh, nhưng giữ được thái độ này trong những tình huống bất thuận lợi thì quả thực là khó, mà chính cái khó này mới đáng để thành tựu, vì nhờ sự điềm tĩnh và kiểm soát như vậy mà họ củng cố được nhân cách. Thật là sai lầm khi nghĩ rằng chỉ có những người ồn ào, ba hoa và lăng xăng một cách cầu kỳ mới là những người mạnh mẽ, đầy quyền lực.

"Cái gì trống kêu to, cái gì đầy yên lặng,
Ngu như ghè vơi nước, bậc trí như ao đầy".

Người thường xuyên trau dồi tâm điềm tĩnh khó có thể bị nao núng khi đương đầu với những thăng trầm của cuộc đời. Người ấy cố gắng thấy các pháp đúng theo viễn cảnh của nó, nghĩa là thấy được vì sao các pháp có mặt để rồi hoại diệt. Không còn lo lắng và bất an, người ấy cố gắng để thấy tính chất mong manh của các vật mỏng manh, dễ vỡ "Hãy làm cho tâm yên tĩnh... tiến tới, dù vận may hay rủi, với từng bước chân của mình, giống như chiếc kim đồng hồ ung dung từng nhịp trong cơn bão đầy sấm sét".

Lý luận dù nhiều bao nhiêu về sự an tịnh tâm và hoàn thiện cuộc sống cũng không đủ để đưa chúng ta đến mục đích mong muốn của mình. Chỉ có những hành động thực sự hướng về sự xuất ly và buông xả những đối tượng chuyên kích thích lòng dục, những đối tượng hằng dẫn chúng ta càng lúc càng sâu vào đêm tối vô minh và biến chúng ta thành những kẻ nô lệ cho sức quyến rũ của chúng, mới dẫn chúng ta đến sự an tịnh và giải thoát cuối cùng.

Thường thì những cố gắng của chúng ta nhằm đạt đến sự hoàn thiện không phải lúc nào cũng thành công rực rỡ. Nhưng sự thất bại sẽ không thành vấn đề, bao lâu những động cơ thúc đẩy việc làm của chúng ta vẫn chân thành và trong sáng, và chúng ta vẫn cố gắng mãi mãi không ngừng. Chẳng có ai leo đến đỉnh núi liền một khi được. Họ phải leo lên dần dần từng chặng một. Giống như người thợ vàng khéo léo, từng chút từng chút lọc bụi ra khỏi vàng như thế nào, hành giả cũng phải cố gắng thanh lọc những cấu uế ra khỏi cuộc đời mình như thế ấy. Con đường mà Ðức Phật đã chỉ ra nhằm tăng trưởng và phát triển nội tâm là con đường thiền quán. Vậy giờ đây chúng ta hãy xoay qua con đường đó.

Một sự thật mà ai cũng phải chấp nhận rằng khi tâm nột người quá mải miết với những vấn đề phàm tục hay trong những pháp thế gian thì những khuynh hướng của họ nhằm phát triển tinh thần sẽ trở nên kém cỏi. Ngược lại, người thực lòng thiên về hành thiền hay luyện tập tinh thần sẽ rất ít quan tâm đến những pháp thế gian. Vị hành giả hay người có tư duy nghiêm túc rất ít bị dính mắc vào vật chất, ít quan tâm đến những vấn đề phàm tục.

Mặc dù phần lớn mọi người đều thích thú trong những dục lạc thế gian, bị dính mắc vào những điều xem ra có vẻ quan trọng và vừa ý, vẫn có những người cả ở phương Ðông lẫn phương Tây "với ít bụi trong mắt", "với các căn nhạy bén", đang tầm cầu một điều gì đó hoàn toàn ngược lại với sự khôn khéo thế gian (lõi đời), khác hẳn với mối bận tâm của phàm gian.

Trong những năm gần đây người ta đã bỏ rất nhiều thời giờ vào việc thẩm tra, xem xét các hiện tượng tâm linh, việc nghiên cứu này dường như đã hé mở cho thấy những nguồn thông tin bí mật của tâm con người, và những thôi thúc tầm cầu sự hướng dẫn tâm linh trong họ. Nhu cầu của con người về sự phát triển tinh thần hiện đang gia tăng và có thể xem đây là dấu hiệu đáng mừng cho nhân loại.

Hiển nhiên rằng những tư tưởng thực sự quan trọng chỉ có thể phát sanh do kết quả của những giai đoạn trầm tư tĩnh lặng lâu dài. Chính trong và qua sự tĩnh mịch đó mà tâm con người thu nạp được năng lượng và sức mạnh. Năng lực sáng tạo vĩ đại nhất vận hành trong thầm lặng, nhưng người ta dường như lại thích náo động hơn sự yên lặng này. Phần lớn mọi người bị chất nặng với những công việc hằng ngày, bị thu hút bởi những vấn đề có vẻ như rất quan trọng đến nỗi họ không nhận ra sự quan trọng thực sự của việc quán chiếu trong tĩnh lặng. Khi chúng ta rút vào một nơi yên tĩnh, hoàn toàn đơn độc để đối diện với chính mình, với thực tại để nhận ra chính con người thực của mình, chỉ lúc ấy chúng ta mới có thể biết cách vượt qua sự yếu đuối và những hạn chế của kinh nghiệm đời thường. Thế nhưng chúng ta dường như lúc nào cũng lăng xăng giống như con sóc trong cái lồng quay của nó mà, mặc dù rất tích cực, cũng chỉ để làm quay cái lồng. Gà mái ấp trứng, dù có vẻ thụ động và lười biếng nhưng lại đang làm một việc vô cùng hữu ích. Nó đang sưởi ấm những quả trứng để cho những chú gà con nở ra an toàn.

Chúng ta phải cố gắng đầu tư ít nhất nửa giờ mỗi ngày để được bận rộn như gà mái ấp trứng vậy. Khi tâm chúng ta lắng dịu và tĩnh lặng đó là lúc chúng ta tận dụng nó bằng cách tiến hành sự liên lạc thầm lặng với tâm để hiểu được bản chất thực sự của chúng ta không thông qua sự giả cách nào cả. Nơi đây người tại gia cư sĩ có thể hỏi: "Làm thế nào để chúng tôi những gia chủ, sống cuộc sống lăng xăng bận rộn, với quá nhiều phận sự phải làm, có thể tìm được thời gian để hành thiền?". Tuy nhiên, con người vẫn tìm được thời gian để đắm chìm trong những gì họ thích. Nếu họ có ý chí chắc chắn họ có thể hy sinh một thời gian ngắn mỗi ngày để hành thiền. Có thể đó là lúc rạng đông hay ngay trước khi đi ngủ, hoặc bất cứ khi nào tâm đã sẵn sàng dành một thời gian nào đó, dù ngắn ngủi, ở đó họ có thể tập trung những tư duy của mình lại và quán chiếu.

Nếu bạn cố gắng thực hành một chút thiền quán trong tĩnh lặng như vậy hết ngày này sang ngày khác, bạn có thể thực hiện những phận sự hằng ngày của bạn tốt hơn và trong một phương cách hiệu quả hơn, bạn sẽ có thêm dũng lực để đối diện với những nỗi khổ đau và âu lo trong cuộc sống bằng lòng can đảm đồng thời sẽ dễ dàng tìm được sự mãn nguyện hơn trong mọi hoàn cảnh. Ðó là một cố gắng rất xứng đáng. Vấn đề duy nhất là phải có sự quyết tâm và lòng thôi thúc để cố gắng thực hiện quyết tâm đó.

Tất cả các pháp hành được đề cập trong Phật giáo đều đưa đến sự lành mạnh tinh thần chứ không bao giờ đưa đến sự bệnh hoạn; vì mỗi pháp hành là một cố gắng để kiểm soát và giải toả sự căng thẳng của các trạng thái tâm có khuynh hướng làm cho tâm bệnh hoạn. Thân bệnh không đến nỗi khó chữa, nhưng những chứng bệnh của tâm mới thực sự khó phục hồi. Chính vì vậy mà sự cần thiết và sự cố gắng là để gột rửa tâm khỏi những bất tịnh của nó. Ðây có thể là điều khó khăn nhất mà con người phải làm, nhưng đó cũng chỉ là những gì họ cần phải làm. 'Hiếm thay trên thế gian này là những người có thể tuyên bố thoát khỏi các tâm bệnh dù chỉ trong khoảnh khắc ngoại trừ trong ai các cấu uế đã được đoạn trừ (chỉ các bậc A-La-Hán)'322[6].

Khi Nakulapità, một nam cư sĩ đã già, cao niên, ốm yếu và bệnh hoạn, đi đến chỗ Thế Tôn, đảnh lễ Ngài và mong được nghe pháp ngõ hầu tăng trưởng sự an vui và hạnh phúc, Ðức Phật nói: "Thật sự là vậy, này gia chủ. Thực sự là vậy, này gia chủ. Thân của ông là bệnh hoạn, ốm yếu. Ðối với người nào mang tấm thân này, lại tự cho là không bệnh dù chỉ trong giây phút thôi; người ấy hẳn là người ngu! Vì vậy, này gia chủ, ông phải tự tập luyện như vầy: "Dù cho thân ta bệnh hoạn, tâm ta sẽ không bệnh", ông hãy tự luyện tập như vầy"323[7].

Cần phải xác định một cách rõ ràng rằng thiền không phải một sự tự nguyện trục xuất mình ra khỏi cuộc đời, hay thiền chỉ là pháp để thực hành cho lợi ích về sau. Thiền cần phải được áp dụng trong những công việc của đời sống hằng ngày, và kết quả của nó nhận được ngay tại đây và bây giờ (tức trong kiếp sống này). Thiền không phải là cái gì tách biệt khỏi đời sống bình thường. Nó là một bộ phận khắn khít của cuộc sống chúng ta. Nếu chúng ta không biết thiền thì cuộc sống của chúng ta đã thiếu đi ý nghĩa, mục đích và sự phấn khích.

Trong Phật giáo, Thiền 324[8] chiếm một vị trí tối cao vì chính nhờ thực hành và thông qua thiền mà sự giác ngộ và an ổn tối thượng khỏi các khổ ách được đạt đến.

Những mô tả về thiền như đã được ghi chép trong các bản kinh Phật cổ xưa không ít thì nhiều đều y cứ vào những phương pháp Ðức Phật đã sử dụng để chứng đạt sự giác ngộ và Niết bàn của Ngài, cũng như dựa vào kinh nghiệm riêng của Ngài về sự phát triển tinh thần.



tải về 1.51 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   9   10   11   12   13   14   15   16   17




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương