Con Ðường Cổ Xưa (The Buddha's Ancient Path)



tải về 1.51 Mb.
trang8/17
Chuyển đổi dữ liệu20.05.2018
Kích1.51 Mb.
#38731
1   ...   4   5   6   7   8   9   10   11   ...   17

Con Ðường Cổ Xưa
(The Buddha's Ancient Path)
Piyadassi Thera
Dịch giả: Tỳ Khưu Pháp Thông

CHƯƠNG VIII

CHÁNH NGỮ (SAMMÀ-VÀCÀ)

-ooOoo-


Tất cả các Tôn giáo và triết học đều chủ trương đời sống luân lý hay đạo đức bằng hình thức này hay hình thức khác vì hạnh phúc riêng của con người, và vì sự tốt đẹp chung của xã hội trong đó họ sống. Những nguyên tắc luân thường đạo lý này không cùng một mức độ và phạm vi mà rất đa dạng. Ðiều được xem là đạo đức đối với Tôn giáo này hay triết thuyết này, có thể không phải như vậy đối với Tôn giáo hay triết thuyết khác. Ðiều mà Tôn giáo này lên án là phi luân, có thể được nhìn nhận là đạo đức đối với Tôn giáo khác. Những nguyên tắc cư xử phải, trái, đôi khi tuỳ thuộc vào bối cảnh của các dân tộc khác nhau trên thế giới, tùy thuộc vào các điều kiện địa dư, kinh tế, xã hội... của họ. Như vậy tiêu chuẩn định đặt ra các nguyên tắc đạo đức rất khác nhau.

Có vẻ như với sự trôi qua của thời gian, người ta dường như nghĩ rằng một số những nguyên tắc đạo đức mà các bậc Ðạo Sư ban hành đã trở nên lỗi thời, và trong niềm say mê của họ đối với một cuộc sống phóng đãng, họ đã không ngần ngại gạt qua một bên những nguyên tắc ứng xử nào mà họ thấy là chướng ngại. Sau đó họ tiếp nhận những cách cư xử mới, mà về lâu dài trở thành tục lệ, một khi điều đó đã xảy ra, chẳng còn ai quan tâm đến việc chỉ trích họ nữa. Tuy nhiên, có rất nhiều những phép tắc mà mọi người, không kể màu da, chủng tộc hay tôn giáo, đều được trông đợi phải tuân theo.

Giới luật trong đạo Phật có rất nhiều và đa dạng, tuy nhiên nhiệm vụ của giới (Sìla) chỉ có một. Ðó là kiểm soát những hành động của thân và khẩu, cách cư xử của con người, hay nói khác đi là để thanh tịnh lời nói và hành vi của họ. Tất cả những điều học (giới) được ban hành trong đạo Phật đều dẫn đến mục đích chánh hạnh này. Tuy nhiên, giới (sìla) tự thân nó không phải là cứu cánh, mà chỉ là phương tiện, vì nó hỗ trợ cho định (samàdhi). Samàdhi ngược lại là phương tiện cho sự thu thập trí tuệ (Pannà), và chánh trí tuệ này lần lượt dẫn đến sự giải thoát của tâm, mục tiêu cuối cùng của đạo Phật. Do đó Giới, Ðịnh và Tuệ là một sự kết hợp hài hoà giữa những xúc cảm và tri thức của con người. Chính vì mục đích này mà bậc Ðạo Sư hướng dẫn hàng đệ tử của mình.

Thái độ của Ðức Phật đối với cuộc sống không chỉ thuần lý, mà là sự thực hiện thực tiễn những gì được xem là tốt đẹp - sự hoàn thiện luân lý cũng như sự giải thoát tâm. Ðiều này hàm ý rằng Ðức Phật muốn chúng ta trau dồi những cảm xúc tốt đẹp và từ bỏ những cảm xúc xấu xa. Phương diện tình cảm cũng phải được phát triển dù rằng một mình nó không dẫn chúng ta đến sự giải thoát cuối cùng được. Những cảm xúc tốt đẹp luôn luôn phải được kết hợp hài hoà với chánh kiến. Như vậy rõ ràng là Giới, Ðịnh và Tuệ là ba tao của sợi dây, mà nhờ sự trợ giúp của nó bậc hiền trí thành tựu cứu cánh tối hậu và tuyên bố sự thành tựu của mình bằng câu nói bất hủ: "việc cần làm đã làm xong" (Katam karanìyam). Như vậy Pháp (dhamma) hướng dẫn người hành trì pháp qua lối sống thanh tịnh và sự hiểu biết chơn chánh, đến sự thành tựu giải thoát khỏi mọi khổ đau.

Trong chương này chúng ta sẽ thảo luận về Chánh Ngữ. Hai chương tiếp theo Chánh Nghiệp và Chánh Mạng sẽ được lần lượt đề cập đến. Vì ba chi này đều nằm trong nhóm giới (Sìla). Toàn bộ giới luật của đạo Phật được nói đến trong nội dung của Bát Chánh Ðạo, dĩ nhiên với vài dòng như vậy không thể giải thích hết ý nghĩa của giới như đã mô tả trong hệ thống kinh điển Phật giáo.

Sự giải thoát cuối cùng hay cứu cánh tối hậu của đạo Phật, không thể đạt đến ngay lập tức được. Ðó là một tiến trình tuần tự, một sự đào luyện từng bước. Như kinh điển thường nói: sự thanh tịnh tâm chỉ đạt được sau khi đã thành mãn giới hạnh. Thanh tịnh tâm và trí tuệ là điều không thể có nếu không thanh tịnh giới. Ðức Phật thúc giục các đệ tử của Ngài trước tiên hãy tự đặt mình vào nếp sống giới hạnh, sau đó mới bước vào con đường thiền định và trí tuệ. Chính vì vậy cần phải khởi sự ngay từ bước đầu. Ðiểm khởi đầu trong giáo pháp là Giới (Sìla). Sau khi đã đứng vững trên đất giới, hành giả sẽ nỗ lực làm chủ cái tâm dao động của mình.

Ðức Phật vạch ra cho hàng đệ tử của Ngài những cách để khắc phục tà hạnh về thân và khẩu. 'Sau khi đã điều phục lời nói, đã chế ngự được các hành động của thân và tự làm cho mình thanh tịnh trong cách nuôi mạng (khất thực), vị đệ tử tự đặt mình vào nếp sống giới hạnh (Silavà). Như vậy vị ấy thọ trì và học tập các học giới, giữ giới một cách thận trọng và thấy sự nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt'190[1]. Trong khi tiết chế lời nói và hành động như vậy vị ấy phải cố gắng phòng hộ các căn (Indriyaguttadvàra). Vì nếu vị ấy thiếu sự kiểm soát các căn của mình thì các tư duy bất thiện sẽ xâm nhập đầy tâm vị ấy. Thấy một sắc, nghe một âm thanh v.v...Vị ấy không thích thú, cũng không khó chịu với những đối tượng giác quan ấy, mà giữ lòng bình thản, bỏ qua một bên mọi ưa ghét. Vị ấy thực hành việc kiểm soát các căn này với sự nhiệt tình hứng thú.

Vị ấy ăn uống có tiết độ191[2] và chánh niệm: không đam mê vô độ, không để làm đẹp thân, mà chỉ để cho thân này không bị tổn hại vì mục đích sống đời phạm hạnh (Bhramacariya). Vị ấy nhiệt tâm tỉnh giác192[3] và gột sạch tâm khởi những cấu uế193[4]. Nếp sống giới hạnh này áp dụng cho một vị Tỳ khưu (bậc xuất gia) chớ không phải cho hàng tại gia cư sĩ.

Khi vị đệ tử đã có nhiệt tâm và chánh niệm, họ sẽ tiến tới không nao núng và khởi sự một công việc khó khăn hơn, đó là hành thiền, thành tựu tâm định (Samatha) bằng cách chọn một đề mục thiền thích hợp với căn cơ của mình194[5] và duy trì trên đề mục đó không ngừng nghỉ, dần dần từng chút, từng chút một, từ sát na này đến sát na khác195[6] vị ấy tịnh hoá tâm mình nhờ khắc phục các triền cái ngăn trở tâm thiền. Người nỗ lực chánh niệm như vậy sẽ thành công trong việc điều phục tâm dao động của mình. Khi những hành động và lời nói, cũng như các căn đã được chế ngự và tâm đã được điều phục, giờ đây vị ấy đã đạt đến sự tự chủ. Sau khi đã tự mình rèn luyện trong Giới và Ðịnh như vậy (Sìla-Sikkhà và Samàdhi-Sikkhà), vị ấy sẽ cố gắng để thành tựu Chánh Trí bằng cách thấy các pháp như chúng thực sự là (Yathabhùtam: Như thị). Thấy các pháp như chúng thực sự là, hàm ý như chúng ta đã đề cập ở trên196[7], thấy tính chất vô thường, khổ và Vô ngã của vạn pháp hữu vi.

Ðối với một hành giả đệ tử Phật "thế gian" ở đây không phải là thế gian bên ngoài hay thế gian theo lối kinh nghiệm, mà là thân người với tâm của nó. Ðó là thế gian của năm uẩn chấp thủ. Chính thế gian này mới là cái vị ấy cố gắng tuệ tri như vô thường, khổ và vô ngã. Cũng chính thế gian của thân và tâm này là cái mà Ðức Phật muốn đề cập đến khi Ngài nói với Mogharàja:



"Này Mogharàja
Hãy nhìn đời rỗng không
Luôn luôn giữ chánh niệm,
Nhổ lên ngã tuỳ kiến
197[8]
Như vậy vượt tử vong
Hãy nhìn đời như vậy
198[9]
Thần chết không thấy được".

Giờ đây, khi hành giả đã tự rèn luyện trong trí tuệ như vậy (Pannàsikkhà) vị ấy sẽ hiểu một cách chơn chánh rằng "Bất cứ cái gì là vô thường đều không đáng hoan hỉ, cái gì vô thường đều không đáng để ý, cái gì vô thường đều không đáng chấp giữ"199[10].

Vị ấy không xem năm thủ uẩn, năm căn và năm trần tương ưng của nó như là "của Tôi", như là "Tôi" hoặc "Tự Ngã của Tôi" và hiểu được lời nhắc nhở của bậc Ðạo Sư.

"Cái gì không phải của các con, nầy các Tỳ khưu, hãy từ bỏ nó, từ bỏ nó sẽ đem lại hạnh phúc và an lạc cho các con. Cái gì, này các Tỳ khưu, là không phải của các con? Sắc (thân), này các Tỳ khưu, không phải của các con, hãy từ bỏ nó, từ bỏ nó sẽ đem lại hạnh phúc và an lạc cho các con. Thọ không phải của các con... tưởng không phải của các con... hành không phải của các con... .thức không phải của các con, hãy từ bỏ nó; từ bỏ nó sẽ đem lại an lạc và hạnh phúc cho các con"200[11].

Tuệ tri các pháp như chúng thực sự là như vậy, nhận chân được thực chất của năm uẩn chấp thủ như vậy, vị ấy 'sống không nương tựa (độc lập), không chấp giữ điều gì trong thế gian (năm thủ uẩn) này'201[12]. Thế gian của các uẩn và của các giác quan - và sống chứng nghiệm hạnh phúc của Niết bàn, Hạnh Phúc Tuyệt Ðối. Tóm lại, đây là con đường mà các bậc Thánh (Àryan) đệ tử nhờ tuần tự tu tập đã chứng đạt cứu cánh của mình.

Người đọc sẽ nhận ra rằng tiến trình tự thanh lọc và tự làm chủ bản thân để hướng đến giải thoát cuối cùng này là nhờ tu tập theo tuần tự, hoàn toàn không có sự ép buộc hay thúc bách từ bất kỳ tác động bên ngoài nào, không có sự thưởng, phạt đối với những việc đã làm hoặc chưa làm; không có sự rửa tội bằng nước Thánh, chẳng phải nhờ cúng dường cho các vị Thần linh, cũng không phải vì tôn thờ các vị thần như Thần Mặt Trời, Thần Lửa...v..v..tại sao vậy? Vì thanh tịnh hay không thanh tịnh tuỳ thuộc tự thân mỗi người. Các hiện tượng bên ngoài dù hữu tình hay vô tình không thể và chắc chắn không ban cho chúng ta sự thanh tịnh và giải thoát được.

"Không phải sống loã thể
Bện tóc, tro trét mình,
Tuyệt thực lăn trên đất,
Sống nhớp, siêng ngồi xổm
Làm người ta thanh tịnh,
Nếu không trừ nghi hoặc"
202[13]

Bây giờ chúng ta đi vào chi tiết của giới (Sìla). Trong bài kinh đầu tiên của Trường Bộ (Dighà Nikàya), chúng ta sẽ thấy một số giải thích khá dài và toàn diện về các học giới mà ở đây không thể bàn hết được.

Trong số các học giới, thấp nhất là ngũ giới (Pancasila), năm giới mở đầu cho luân lý Phật giáo. Năm giới này là những nguyên tắc căn bản cho người tại gia cư sĩ. Ðó là:

Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự sát sanh.


Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự trộm cắp.
Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự tà dâm.
Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự nói dối.
Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự dễ duôi uống rượu và các chất say.

Năm giới này cần phải được giữ gìn và thực hành trong đời sống hàng ngày của mỗi người, giới không phải để tụng đọc suông, không phải là lời nói cửa miệng hoặc để xin cho người khác.



"Người học thuộc lòng giới,
Nhưng không chịu hành trì,
Như thắp lên ngọn đèn,
Rồi ngồi nhắm mắt lại
203[14].

Ðạo Phật không đòi hỏi người tại gia cư sĩ tất cả những điều mà một thành viên của Tăng Ðoàn (một vị sư) phải có trách nhiệm gìn giữ. Nhưng dù là vị sư hay cư sĩ, chánh hạnh cũng là nền tảng cơ bản cho con đường hướng thượng. Một người trở thành Phật tử bằng cách thọ Tam Quy, ít nhất họ cũng phải gìn giữ năm giới căn bản được coi là khởi điểm của Ðạo Lộ (giải thoát). Ngũ giới nầy không hạn cuộc trong một ngày đặc biệt hay nơi đặc biệt nào, mà cần phải được thực hành suốt đời dù ở đâu và bất cứ lúc nào. Dĩ nhiên, ngoại trừ các bậc đã chứng đạt ít nhất là Thánh quả đầu tiên (Sotàpatti) ra, còn lại tất cả mọi người đều có thể phạm vào những học giới này, nhưng khi có sự phạm giới xảy ra nếu ta tỏ ra hối hận về những khuyết điểm và những thiếu sót của mình thì thật là vô ích, vì sự hối hận ấy chẳng có lợi hay giúp ích gì cho bản thân ta và người khác cả. Sự hối hận chỉ quấy động tâm ta thêm mà thôi. Vả lại cũng cần thấy được rằng lầm lỗi, theo đạo Phật, không xem như một "tội", vì từ đó hoàn toàn xa lạ với lời dạy của Ðức Phật. Không có gì gọi là 'phạm luật Phật' cả, vì Ngài không phải là nhà làm luật hoặc một vị quan toà đứng ra trừng phạt những hành động tội lỗi và ban thưởng cho những hành động thiện của con người, vì vậy không cần phải có sự hối hận, ăn năn hay buồn rầu vì "tội". Người tạo nghiệp phải có trách nhiệm đối với những điều mình làm; người ấy phải thọ lãnh những quả khổ vui của nó, do đó, làm thiện hay làm một kẻ phạm giới mới chính là mối quan tâm của người ấy. Ðiều cũng cần đề cập ở đây là mọi hành động thiện hay ác, không nhất thiết phải trả quả (dị thục quả). Nghiệp thiện của một người có thể triệt tiêu ác nghiệp của họ và ngược lại.

Như nghi thức thọ giới đã cho thấy rõ, hoàn toàn không có những quy luật hay điều răn nào ở đó. Một cách tự nguyện bạn hứa gìn giữ các học giới và không có sự cưỡng ép hay thúc bách nào cả, chính bạn là người phải chịu trách nhiệm cho mọi hành động (nghiệp) của mình. Nếu bạn phạm vào những gì bạn đã hứa giữ, lúc ấy điều tối cần là phải hạ quyết tâm không tái phạm đồng thời sửa chữa những khuyết điểm của mình và cố gắng hết sức không để lầm lỗi nữa. Một người có tư duy thận trọng phải hiểu rằng mục đích duy nhất của việc giữ giới này là để tự rèn luyện mình, để kiểm soát những bản năng của mình, để chế ngự những khuynh hướng ác và những hành động sai lầm của mình, và như vậy mở lối đi đến sự thanh tịnh và hạnh phúc, đóng góp sự an ổn cho xã hội và thúc đẩy những tình cảm chân thành. Nếu phân tích kỹ chúng ta thấy rằng việc giữ giới là cách duy nhất để giảm thiểu tham, sân, si của chúng ta, những nguyên nhân căn để của mọi tội ác trong xã hội. Chẳng hạn, giới đầu tiên không thể vi phạm mà không nuôi dưỡng những ý nghĩ sân hận và độc ác, trường hợp giới thứ ba thì nó là đặc biệt tham, còn giới thứ hai và thứ tư có thể là vừa tham và vừa sân, giới thứ năm là tham, trong khi si mê nằm đằng sau cả năm giới này.

Ðiều quan trọng cần nhận ra ở đây là uống rượu và các chất say khiến cho si mê. Nó ngăn những tư duy trong sáng, giảm thiểu năng lực lý trí của con người và gây ra sự cẩu thả, cuồng dại và rất nhiều điều ác khác. Một người say không còn làm chủ được những hành động của mình và có thể phạm vào bất cứ tội nào. Chính vì vậy chỉ cần phạm một giới này có thể dẫn người ta đến chỗ phạm luôn các giới khác. Ðức Phật nói:



"Chỉ kẻ ngu say rượu
Mới làm các điều ác
Và khiến các người khác
Sống buông lung phóng dật
Hãy từ bỏ tránh xa
Xứ phi công đức này
204[15]
Khiến điên cuồng si mê
Làm kẻ ngu thoả thích
205[16]".

Dĩ nhiên người ta có thể lý luận rằng uống rượu điều độ thì đâu có hại gì, nhưng hãy nghe ai đó nói:



"Ðầu tiên người uống rượu
Kế tiếp rượu uống rượu
Cuối cùng rượu uống người".

Vì vậy tốt hơn hết vẫn phải nhớ lời cảnh tỉnh của Ðức Phật "Hãy chánh niệm, tự chủ và bình thản". Chúng ta hãy tránh xa rượu và các chất say, những thứ làm mất lý trí khiến cho người ta không thấy được những sự thật của cuộc đời và con đường đi đến giải thoát.

Hãy nhớ rằng giới thứ ba và giới thứ năm có một mối quan hệ, chúng hỗ trợ lẫn nhau và cả hai đều đem lại sự "thoả mãn" (Rasassàda). Ðôi khi trong kinh điển Pàli giới thứ năm này được bỏ đi, như vậy nó đã được kể trong giới thứ ba như ở trường hợp nhóm giới đã đề cập trong bát chánh đạo. Kế tiếp, chúng ta có mười giới hay 10 điều học, dành cho các vị Sa di (Sàmaneras)206[17] thập giới này được tạo thành bằng cách thêm năm giới vào ngũ giới vừa mới đề cập207[18]. Ðó là:

Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự ăn sái giờ.


Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự múa hát thổi đờn kèn, xem múa hát nghe đờn kèn.
Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự sự trang điểm, thoa vật thơm, dồi phấn và đeo tràng hoa.
Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa chỗ nằm ngồi nơi quá cao và xinh đẹp.
Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự thọ lãnh, cất giữ, hoặc bảo kẻ khác thọ lãnh, cất giữ vàng bạc châu báu, hoặc cảm xúc đến các vật ấy.

Cũng có tám học giới cho hàng tại gia cư sĩ thọ trì vào những ngày đặc biệt, đó là các ngày Bát Quan Trai từ hai đến 10 ngày trong một tháng. Bát giới này được thành lập bằng cách kết hợp giới thứ bảy và giới thứ tám trong thập giới Sa di, và bỏ bớt giới thứ 10.

Một người giữ giới, theo cách nói của Ðức Phật, là một thiện nhân hay chân nhân (Sappurisa). Ngoài ra, nếu người ấy biết khuyến khích người khác giữ giới, người ấy là bậc xứng đáng được kính trọng hơn nữa.

Trong Bát Chánh Ðạo, phần nói về chánh ngữ đề cập đến bốn điều nên tránh: Nói lời giả dối, nói ly gián, nói lời thô ác và nói lời nhảm nhí vô ích.

Mặc dù những học giới này được nói lên một cách tiêu cực, ta không nên nghĩ rằng giới của đạo Phật đơn thuần là sự ngăn cấm mang tính tiêu cực. Trước khi muốn gieo giống, điều cần thiết đầu tiên là phải dọn cỏ và sửa soạn đất. Cũng vậy, đối với người muốn làm điều thiện, điều thiết yếu trước tiên là phải cố gắng làm cho trong sạch thân và khẩu nghiệp của mình đã. Chúng ta phải thừa nhận rằng tâm của chúng ta luôn luôn bị ô nhiễm với những ý tưởng bất thiện. Nó bị thiêu đốt bởi ba ngọn lửa tham, sân, si và lúc nào cũng ở trong trạng thái không lành mạnh. Ðương nhiên biểu hiện của những tư duy không lành mạnh như vậy bằng hình thức của những hành động của thân và khẩu, không thể nào lành mạnh được. Vì vậy việc cần phải làm là trước tiên là chặn đứng điều ác, tránh lối cư xử buông thả. Sự tiết chế này thúc đẩy người ta hành thiện và sống trong sạch từ lời nói đến việc làm. Ðối với những người thích làm điều thiện giúp mọi người thường cảm thấy khó khăn trong việc phải tránh làm những điều không hợp nào đó. Ðiều này cần phải có nghị lực, cố gắng và quyết tâm. Mặt khác chính vì lòng trắc ẩn và cảm thông, đây không phải là những đức tính thụ động tiêu cực, mà người ta tránh làm hại kẻ khác, và vì lòng yêu mến sự thật mà người ta tránh nói dối v.v...

Người đọc cẩn thẩn những bản kinh Phật sẽ thấy rằng bậc Ðạo Sư cũng từng tuyên bố các học giới bằng những từ rất tích cực như vầy:



'Vị ấy sống thành tựu học pháp chánh hạnh, từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng bỏ kiếm, biết tàm, biết quý (hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi), có lòng từ, sống thương sót hạnh phúc của tất cả chúng sanh và các loài hữu tình. Vị ấy từ bỏ lấy của không cho, chỉ lấy những gì được cho, ...vị ấy sống thanh tịnh không có những khuynh hướng trộm cắp. Từ bỏ lời nói hai lưỡi, ...vị ấy sống hoà hợp những kẻ ly gián, và khuyến khích những ai sống hoà hợp, ưa thích trong hoà hợp và hân hoan trong hoà hợp, nói những lời đưa đến sự hoà hợp. Từ bỏ những lời nói độc ác, vị ấy nói những lời không lỗi lầm, dễ nghe, dễ thương. Từ bỏ lời nói phù phiếm, vị ấy nói đúng thời, nói hợp với sự thật, nói hợp với mục đích, hợp với pháp (Dhamma) và luật những lời đáng lưu giữ (trong tâm), hợp lý, sáng suốt, và đúng trọng tâm208[19]'.

Như vậy chúng ta thấy bậc Ðạo Sư cũng đã nhấn mạnh đến phương diện tích cực của việc giữ giới là như thế nào bằng những ngôn ngữ không thể nhầm lẫn được.

Tuy nhiên, một người nỗ lực, quyết tâm dứt khoát đi trên con đường thanh tịnh sẽ không phí thời giờ và việc suy đoán vô ích, mà "tự cảnh tỉnh và sách tấn mình bước theo con đường đã định sẵn:

Trên đường thẳng được thuyết,
Hãy bước chớ quanh ta,
Hãy tự mình trách mình,
Hãy đem lại Niết bàn"
209[20].

Không có gì mơ hồ trong lời dạy của Ðức Phật. Ðã biết ác là ác, thiện là thiện, tại sao ta còn do dự không tránh ác và bước theo con đường chân chánh đi? Ðối với người Phật tử, nếu đã hiểu đúng đắn lời dạy của bậc Ðạo Sư thì việc từ bỏ điều ác và làm điều thiện là điều tất nhiên, không thể tránh được.



Từ bỏ mọi điều ác
Trau dồi các thiện pháp
Gột rửa sạch nội tâm
Ðây lời dạy chư Phật
210[21].

Như bài kệ vô cùng quan trọng này chỉ rõ, trước khi muốn hành thiện, điều cần yếu là phải dứt ác. Khi một người đã làm xong cả hai điều trên là đã tự củng cố mình trong nếp sống giới hạnh, lúc ấy người ấy có thể, nếu họ thích, đảm nhận một công việc khó khăn hơn nữa là khép tâm vào kỷ luật nhờ hành thiền. Tuy nhiên, một cố gắng để luyện tập tâm như vậy nếu không có một nền tảng giới luật, không điều chỉnh cách cư xử theo chánh hạnh, thì đó chỉ là niềm hy vọng và sự tưởng tượng hão huyền mà chẳng bao giờ có thể trở thành hiện thực được.

Bát Chánh Ðạo trong Phật giáo, là con đường duy nhất đưa đến sự thanh tịnh. Ðức Phật nói:

"Nghiệp 211[22], minh 212[23], pháp 213[24] và giới thanh tịnh sinh mạng, chính nhờ những pháp này mà các chúng sanh thanh tịnh, chứ không phải do giai cấp và tài sản 214[25]".

"Phàm những pháp nào là bất thiện, liên quan đến bất thiện, thuộc về bất thiện, tất cả những pháp ấy đều phát sanh từ tâm (nghĩa là tâm đi trước các pháp Manopubbangamà). Phàm những pháp nào là thiện, liên quan đến thiện, thuộc về thiện - Tất cả những pháp ấy đều phát sanh từ tâm"215[26].

"Khi tâm hay tư duy được phòng hộ thì thân nghiệp cũng được phòng hộ, khẩu nghiệp cũng được phòng hộ"216[27].

"Nhân sanh của tất cả các nghiệp này hoặc là tham, sân, si hoặc là vô tham, vô sân, vô si. Những nghiệp nào được làm dưới ảnh hưởng của tham, sân, si đều là bất thiện, các nghiệp ấy đáng khiển trách, chúng đem lại quả khổ đau và dẫn đến các ác nghiệp khác, không dẫn đến sự đoạn tận nghiệp. Những nghiệp nào được làm dưới ảnh hưởng của vô tham, vô sân, vô si đều là thiện nghiệp, chúng đem lại lợi ích và không bị khiển trách, những nghiệp này cho quả an vui và dẫn sự đoạn diệt nghiệp, các nghiệp khác không sanh từ đó"217[28].

Như vậy có ba cách hành thiện và ác do ba tâm sở khác nhau làm duyên, và chúng tạo ra các dị thục quả hay những phản ứng tương ưng với nghiệp đã làm. Trong trường hợp này tâm có thể so sánh với một bể chứa cần được chú ý chăm sóc để giữ cho nước không bị ô nhiễm và trong sạch. Nếu bể nước bị xao lãng thì nước sẽ trở nên ô nhiễm, người uống nước từ nơi vòi của bể ấy sẽ gặp vấn đề. Tuy nhiên nếu biết nước đã bị ô nhiễm, người ấy khoá vòi lại, chắc chắn họ sẽ không phải khổ mặc dù bể nước đã ô nhiễm. Vì người ấy không thể giữ cho vòi nước đóng mãi được, do đó trách nhiệm của người ấy là phải thấy rằng bể nước cần được chăm sóc để cho họ có thể mở vòi ra mà uống nước. Tâm chúng ta cũng giống như một bể chứa nước, có hai vòi thoát, thân hành và khẩu hành. Những gì nằm ở trong tâm sẽ thoát qua hai vòi này. Nếu những tư duy là trong sạch, người chủ sở hữu của nó sẽ thọ lãnh những quả báu thiện, nếu tư duy bị ô nhiễm họ sẽ thọ lãnh bất thiện quả. Nếu người ấy ngăn ngừa không để cho những tư duy bất thiện thoát qua hai đường này, những hành động của thân và những lời nói của họ sẽ không bị ô nhiễm, vì hai lối thoát đó đã được đóng lại một cách an toàn. Tuy nhiên tâm, bể chứa nước, vẫn không được bảo hộ. Người ấy phải thực hiện một nỗ lực chân thật để canh phòng tâm mình sao cho những gì chứa trong đó không bị ô nhiễm, và muốn làm được điều này người ấy phải hành thiền hay cần phải định tâm. Mặc dù tâm người ấy có định, và được phòng hộ như vậy, nó vẫn chưa ở trong trạng thái an toàn, vì thế, người ấy cần phải có trí tuệ để giữ cho tâm không bị ô nhiễm. Một khi điều này đã được thành tựu tâm người ấy đã được làm cho miễn nhiễm khỏi mọi cấu uế, phiền não và ô nhiễm.

Từ thí dụ trên chúng ta có thể hiểu rằng mặc dù giới (Sìla) hay nói nôm na là cách cư xử hợp với đạo đức, phòng hộ những hành động của thân và khẩu chỉ là khởi điểm của đạo lộ giải thoát, tuy thế nó vẫn là điều tối yếu cho sự phát triển và thanh tịnh của con người.

Với sự giới thiệu ngắn gọn và tổng quát về giới trong đạo Phật như vậy, bây giờ chúng ta hãy xét đến Chánh Ngữ. Ngôn ngữ quả thật là điều kỳ diệu biết bao, vì chỉ một lời nói có thể làm thay đổi hẳn toàn bộ quan niệm của con người về vấn đề thiện ác. Không phải là chúng ta đã thực sự may mắn có được đặc ân này một điều mà bị từ chối đối với loài vật đó sao? Vậy mà quá ít người trong chúng ta quan tâm đến việc sử dụng nó vì lợi ích của bản thân chúng ta và của mọi người đến như thế nào! Giá như con người ta biết đắn đo hơn và tế nhị hơn trong những gì họ nói và chính xác hơn, thành thật hơn trong những gì họ viết hẳn rất nhiều điều phiền muộn và hiểu lầm đã có thể tránh khỏi.

Ngôn ngữ là một món quà vô giá vì qua nó chúng ta có thể diễn đạt những ý tưởng và quan niệm, nói chung những điều cần được chia xẻ với người khác. Nhưng nếu cái lưỡi không xương nhiều đường lắt léo này, cứ mặc cho nó phóng túng, nó có thể phá hỏng mọi sự. Rất nhiều những xung đột và rắc rối - từ những chuyện cãi nhau lặt vặt giữa các gia đình đến những cuộc chiến tranh giữa các quốc gia đâu không phải là trách nhiệm của các lưỡi đó sao? Chỉ cần người ta điều phục được cái lưỡi của mình, không phải là thế giới này sẽ trở thành một nơi tốt đẹp hơn để sống hay sao?

Ngôn ngữ không nên để bị chi phối bởi những tư duy bất thiện bởi tham, sân, ganh tỵ, ngã mạn, ích kỷ, v.v... Nói nhiều chắc chắn sẽ cản trở sự điềm tĩnh và tư duy chơn chánh, cũng như một cái lưỡi lúc nào cũng liến thoáng sẽ dẫn đến bốn loại tà ngữ. Ðức Phật nói: 'Này các Tỳ khưu, có năm bất lợi và nguy hại cho lời nói ba hoa này. Thế nào là năm? Người nói nhiều sẽ thốt ra những lời giả dối, nói lưỡi hai chiều, nói lời độc ác và những lời phù phiếm và sau khi chết sẽ tái sanh vào một trong bốn đường ác'218[29].




tải về 1.51 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   4   5   6   7   8   9   10   11   ...   17




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương