Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số


CHƯƠNG 2 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI



tải về 263.13 Kb.
trang3/4
Chuyển đổi dữ liệu20.05.2018
Kích263.13 Kb.
#38864
1   2   3   4

CHƯƠNG 2

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUẢN TRỊ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI



    1. Những vấn đề lý luận về quản trị ngân hàng thương mại

      1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của quản trị ngân hàng thương mại


Khái niệm quản trị ngân hàng thương mại

Quản trị ngân hàng thương mại là cách thức tổ chức nội bộ, định hướng kinh doanh cho ngân hàng và giám sát ngân hàng hoạt động theo định hướng đó để đạt mục tiêu tối đa hóa lợi ích của ngân hàng và chủ sở hữu trong khuôn khổ định ra bởi Nhà nước nhằm đảm bảo sự tính bền vững của ngân hàng và sự ổn định tài chính của cả nền kinh tế.

Đặc điểm của quản trị ngân hàng thương mại

Chủ thể của quản trị ngân hàng thương mại là các chủ thể tham gia vào hoạt động quản trị ngân hàng thương mại. Hoạt động quản trị chủ yếu diễn ra ở cấu trúc thượng tầng của mỗi công ty cổ phần. Tại ngân hàng thương mại cũng vậy. Hoạt động quản trị ngân hàng thương mại chủ yếu diễn ra ở cấu trúc thượng tầng và được thực hiện bởi các chủ thể sau: Cổ đông; Đại hội đồng cổ đông; Hội đồng quản trị; Ban kiểm soát; Ban giám đốc; Các bộ phận điều hành khác có tham gia vào hoạt động quản trị như Hệ thống quản lý và kiểm soát rủi ro, kiểm toán nội bộ và các đối tượng khác có quyền và lợi ích liên quan.



Mục đích và nhiệm vụ của quản trị ngân hàng thương mại: Cũng giống như quản trị công ty, quản trị ngân hàng thương mại hướng tới mục đích cuối cùng là tối đa hóa lợi ích của chủ sở hữu – các cổ đông ngân hàng thương mại. Để đạt được mục đích này quản trị ngân hàng thương mại phải thực hiện được hai nhiệm vụ sau: Thứ nhất là đảm bảo được sự hài hòa lợi ích của chủ sở hữu (cổ đồng) và người quản lý (Hội đồng quản trị, Ban giám đốc) sao cho quyền và lợi ích của người quản lý không đi ngược lại lợi ích của ngân hàng và các cổ đông ngân hàng; Thứ hai, là nắm bắt, kiểm soát được mức độ chấp nhận rủi ro của ngân hàng thương mại.

Quản trị ngân hàng thương mại phải được đặt dưới sự giám sát chặt chẽ của Nhà nước.



Vai trò của quản trị ngân hàng thương mại

Vai trò của quản trị ngân hàng thương mại đối với ngân hàng thương mại: Thứ nhất, quản trị ngân hàng thương mại đảm bảo sự ổn định và an toàn tài chính của ngân hàng thương mại; Thứ hai, quản trị ngân hàng thương mại tốt nâng cao khả năng thu hút nguồn vốn cho ngân hàng thương mại; Thứ ba, quản trị ngân hàng thương mại tốt góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại

Vai trò của quản trị ngân hàng thương mại đối với lợi ích kinh tế của người gửi tiền, cổ đông, nhà đầu tư.

Vai trò của quản trị ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế. Sự minh bạch trong báo cáo tài chính của ngân hàng thương mại giúp Chính phủ thu đúng, thu đủ số tiền thuế mà ngân hàng thương mại phải đóng góp vào ngân sách. Hơn nữa, một ngân hàng hoạt động ổn định, bền vững sẽ là một công cụ đắc lực của Chính phủ trong công tác điều tiết nền kinh tế vĩ mô và chính sách tiền tệ quốc gia. Ngân hàng hoạt động ổn định cũng phát huy vai trò là trung gian trong nên kinh tế giúp thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế theo cấp số nhân.


      1. Các mô hình quản trị ngân hàng thương mại


Mô hình quản trị ngân hàng thương mại có nhiều nét tương đồng với mô hình quản trị công ty cổ phần. Hiện nay trên thế giới, nguời ta thừa nhận ba mô hình tổ chức công ty phổ biến là mô hình một cấp (phổ biến ở Anh, Mỹ), mô hình hai cấp (phổ biến ở Đức và một vài quốc gia láng giềng) và mô hình quản trị hỗn hợp (ở các quốc gia như Nhật Bản, Trung Quốc, Việt Nam). Các mô hình tổ chức này được sinh ra bởi sự khác biệt về văn hóa, thể chế chính trị, pháp luật và phuơng thức cấp vốn cho công ty.
    1. Những vấn đề lý luận của pháp luật về quản trị ngân hàng thương mại

      1. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật về quản trị ngân hàng thương mại


        1. Khái niệm pháp luật quản trị ngân hàng thương mại

Những cơ sở của việc điều chỉnh pháp lý hoạt động quản trị ngân hàng thương mại.

Cơ sở của việc điều chỉnh pháp lý của một hoạt động diễn ra trong đời sống xã hội là tầm ảnh hưởng của hoạt động đó lên mọi mặt của đời sống xã hội. Các hoạt động có ảnh hưởng lớn đến các mặt của đời sống xã hội cần phải được điều chỉnh, định hướng bởi pháp luật để hạn chế những tác động tiêu cực mà hoạt động đó gây ra cho xã hội và để thúc đẩy những lợi ích mà hoạt động đó mang lại cho xã hội.

Chúng ta đã thấy được tầm quan trọng của hoạt động quản trị ngân hàng thương mại qua những phân tích về vai trò của hoạt động của quản trị ngân hàng thương mại đối với ngân hàng thương mại, hệ thống ngân hàng, các chủ thể của nền kinh tế, sự phát triển của kinh tế và sự ổn định xã hội đã được phân tích ở phần đầu của Luận án. Tầm ảnh hưởng sâu rộng của quản trị ngân hàng thương mại đến kinh tế xã hội là cơ sở của việc điều chỉnh pháp lý đối với hoạt động quản trị ngân hàng thương mại. Hoạt động quản trị ngân hàng thương mại cần phải được điều chỉnh, định hướng bởi pháp luật nhằm giảm thiểu những ngân hàng có hoạt động quản trị kém hiệu quả, gia tăng những ngân hàng trong sạch, vững mạnh, có hoạt động quản trị hiệu quả, qua đó mang lại lợi ích cho kinh tế, xã hội thay vì đẩy nền kinh tế, xã hội đến bờ vực khủng hoảng.

Định nghĩa pháp luật quản trị ngân hàng thương mại

Việc điều chỉnh pháp luật về hoạt động quản trị ngân hàng thương mại là một tất yếu, xuất phát từ tính chất, vai trò, tầm ảnh hưởng của hoạt động quản trị ngân hàng thương mại trong xã hội. Việc điều chỉnh pháp luật này hình thành nên một lĩnh vực pháp luật tác động, điều chỉnh, định hướng hoạt động quản trị trong ngân hàng thương mại hay còn gọi là pháp luật về quản trị ngân hàng thương mại.

Định nghĩa: Pháp luật về quản trị ngân hàng thương mại là tập hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình áp dụng các cách thức tổ chức nội bộ, định hướng kinh doanh cho ngân hàng thương mại và giám sát ngân hàng thương mại thực định hướng để đạt mục tiêu tối đa hóa lợi ích của ngân hàng và chủ sở hữu trong khuôn khổ xây dựng bởi Nhà nước nhằm đảm bảo sự tính bền vững của ngân hàng và sự ổn định tài chính của cả nền kinh tế.


        1. Đặc điểm của pháp luật quản trị ngân hàng thương mại

Chủ thể của pháp luật quản trị ngân hàng thương mại.

Chủ thể của quan hệ pháp luật là những cá nhân hay tổ chức có khả năng trở thành các bên tham gia quan hệ pháp luật, có được những quyền và nghĩa vụ pháp lý trên cơ sở những quy phạm pháp luật[58,394]. Do vậy, các chủ thể của pháp luật quản trị ngân hàng thương mại là: Cổ đông ngân hàng thương mại, Đại hội đồng cổ đông; Hội đồng quản trị; Ban Kiểm soát(trong một số mô hình quản trị); Ban Giám đốc; Hệ thống quản lý và kiểm soát rủi ro; các cá nhân là quản lý cấp cao của ngân hàng thương mại. Các cá nhân này bao gồm Chủ tịch Hội đồng quản trị và các thành viên khác của Hội đồng quản trị, Trưởng Ban Kiểm soát và các thành viên Ban kiểm soát, Tổng giám đốc và các thành viên Ban giám đốc, Giám đốc quản lý rủi ro hoặc tương đương; các cơ quan giám sát ngân hàng thương mại; Người có quyền và lợi ích liên quan khác tham gia vào quá trình quản trị ngân hàng thương mại.



Đối tượng điều chỉnh của pháp luật quản trị ngân hàng thương mại

Căn cứ vào tính chất của các hoạt động, đối tượng điều chỉnh của pháp luật quản trị ngân hàng thương mại bao gồm các nhóm:

Thứ nhất, các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động định hướng, tổ chức kinh doanh cho ngân hàng thương mại.

Thứ hai, các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động giám sát ngân hàng thương mại. Hoạt động giám sát ngân hàng thương mại ở đây phải thuộc về hai nhóm chủ thể. Một là Nhà nước mà đại diện là các cơ quan nhà nước có nhiệm vụ chuyên trách là giám sát hoạt động ngân hàng thương mại. Hai là các chủ thể còn lại bao gồm cổ đông ngân hàng thương mại cùng với người gửi tiền, nhà đầu tư, thị trường chứng khoán v.v...

Căn cứ vào hệ thống các chủ thể tham gia vào quá trình hoạt động quản trị ngân hàng thương mại, đối tượng điều chỉnh của pháp luật về quản trị ngân hàng thương mại bao gồm những nhóm sau:

Nhóm quan hệ xã hội phát sinh giữa các cổ đông ngân hàng thương mại với nhau.

Nhóm quan hệ xã hội phát sinh giữa cổ đông và ngân hàng thương mại mà đại diện là những quản lý cấp cao của ngân hàng thương mại như Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Ban giám đốc và các thành viên của những thực thể này.

Nhóm quan hệ xã hội phát sinh giữa Nhà nước và ngân hàng thương mại mà đại diện là những quản lý cấp cao của ngân hàng thương mại như Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Ban giám đốc và các thành viên của những thực thể này.



Phương pháp điều chỉnh của pháp luật quản trị ngân hàng thương mại

Đối với pháp luận quản trị ngân hàng thương mại, hoạt động quản trị ngân hàng thương mại phát sinh trên cơ sở quyền tự do kinh doanh, quyền tự do lập hội nên phương pháp điều chỉnh pháp luật ở đây là theo chiều ngang.

Ngoài ra, hoạt động quản trị ngân hàng thương mại thường có sự tham gia của một bên chủ thể mang quyền lực nhà nước là cơ quan giám sát ngân hàng. Hơn nữa,ngân hàng thương mại lại được xem như một công cụ của nhà nước trong việc điều hành nền kinh tế vĩ mô. Vì vậy, có sự trực thuộc giữa ngân hàng thương mại và nhà nước trong mối quan hệ pháp luật quản trị ngân hàng thương mại. Đặc điểm trên đây xác định một phương pháp điều chỉnh nữa của pháp luật quản trị ngân hàng thương mại là phương pháp mệnh lệnh, quyền uy.

Như vậy, pháp luật quản trị ngân hàng thương mại sử dụng hỗn hợp cả hai phương pháp điều chỉnh pháp luật theo chiều dọc và theo chiều ngang.



Cấu trúc của pháp luật về quản trị ngân hàng thương mại

Điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động quản trị ngân hàng thương mại, pháp luật quản trị ngân hàng được cấu thành bởi những quy phạm pháp luật thuộc nhiều ngành luật khác nhau. Trong đó, chủ yếu là nhóm quy phạm pháp luật của luật doanh nghiệp và luật ngân hàng.



Phạm vi điều chỉnh của pháp luật quản trị ngân hàng thương mại

Phạm vi điều chỉnh của pháp luật là phạm vi các quan hệ xã hội được pháp luật nói chung điều chỉnh[58,431]. Như vậy, phạm vi điều chỉnh của pháp luật quản trị ngân hàng thương mại là phạm vi các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động tổ chức quản trị nội bộ của ngân hàng thương mại, định hướng kinh doanh của ngân hàng thương mại và giám sát ngân hàng hoạt động theo định hướng đó sao cho đạt mục tiêu tối đa hóa lợi ích của ngân hàng và chủ sở hữu trong khuôn khổ đảm bảo sự tính bền vững của ngân hàng và sự ổn định tài chính của cả nền kinh tế.


      1. Các nguyên tắc của pháp luật về quản trị ngân hàng thương mại


Thứ nhất là nguyên tắc tách bạch giữa sở hữu và điều hành. Sự tách bạch giữa quyền sở hữu của cổ đông và quyền điều hành của người quản lý là nền tảng cho sự ra đời của quản trị công ty cổ phần nói chung và quản trị ngân hàng thương mại nói riêng.

Thứ hai là nguyên tắc đảm bảo sự bình đẳng giữa các cổ đông. Nguyên tắc này xuất phát từ mục đích ban đầu của quản trị công ty nói chung và quản trị ngân hàng thương mại nói riêng là bảo vệ quyền và lợi ích của chủ sở hữu.

Thứ ba là nguyên tắc đảm bảo tính trung thực trong công bố thông tin và minh bạch hóa hoạt động ngân hàng. Quản trị công ty và pháp luật quản trị công ty cũng phải tuân thủ nguyên tắc đảm bảo tính trung thực trong công bố thông tin và minh bạch hóa hoạt động. Thế nhưng sự khó khăn trong việc thực hiện nguyên tắc và tầm quan trọng của nguyên tắc này trong pháp luật quản trị ngân hàng thương mại ở mức độ cao hơn nhiều so với trong pháp luật quản trị công ty.

Thứ tư là nguyên tắc đảm bảo nắm bắt, kiểm soát được mức độ chấp nhận rủi ro trong hoạt động của ngân hàng thương mại. Như đã phân tích ở phần đầu của Luận án, mức độ chấp nhận rủi ro của ngân hàng quá cao sẽ dẫn đến những thiệt hại cho ngân hàng thương mại, hệ thống ngân hàng, thị trường tài chính và nền kinh tế. Các ngân hàng thương mại cần phải đạt được mức độ chấp nhận rủi ro trong khuôn khổ của nhà nước. Việc xác định khuôn khổ mức độ chấp nhận rủi ro cho phép là một việc làm khó khăn, phức tạp và phụ thuộc vào tình hình kinh tế xã hội của mỗi quốc gia, tại mỗi thời điểm. Do đó, hướng tới việc xác định khuôn khổ này không nằm trong phạm vi của quản trị ngân hàng thương mại và pháp luật quản trị ngân hàng thương mại. Pháp luật về quản trị ngân hàng thương mại chỉ hướng tới việc đảm bảo ngân hàng thương mai phải được tổ chức sao cho có đủ khả năng nắm bắt được mức độ chấp nhận rủi ro của ngân hàng và có những công cụ để kiểm soát mức độ chấp nhận rủi ro đó. Nguyên tắc này cũng được xem là một nguyên tắc đặc thù của pháp luật quản trị ngân hàng thương mại so với pháp luật về quản trị công ty.
      1. Nội dung của pháp luật về quản trị ngân hàng thương mại


Về cơ bản, pháp luật về quản trị ngân hàng thương mại bao gồm năm nội dung như sau: Thứ nhất là nội dung về đảm bảo quyền và lợi ích của cổ đông ngân hàng thương mại; Thứ hai là nội dung về cách thức tổ chức bộ máy quản trị của ngân hàng thương mại; Thứ ba là nội dung về đảm bảo trung thực công bố thông tin và minh bạch hóa hoạt động của ngân hàng thương mại; Thứ tư là nội dung về các cơ quan giám sát Nhà nước đối với hoạt động quản trị ngân hàng thương mại; Thứ năm là các quy định về giải quyết tranh chấp trong quá trình hoạt động quản trị ngân hàng thương mại.

2.2.3.1. Các quy định về đảm bảo quyền và lợi ích của cổ đông ngân hàng thương mại


Bảo vệ quyền của cổ đông ngân hàng là một trong những nội dung quan trọng của quản trị ngân hàng. Cổ đông ngân hàng là người chủ sở hữu của ngân hàng. Theo lý thuyết đại diện quyền của cổ đông phải là đối tượng đầu tiên phải được bảo vệ trước sự lạm quyền của người quản lý. Mặt khác, trong bối cảnh số lượng các ngân hàng thương mại là công ty đại chúng ngày càng áp đảo, các cổ đông ngân hàng cũng là những nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán. Việc đảm bảo các quyền của cổ đông ngân hàng và các nhà đầu tư trên thị trường không bị xâm phạm góp phần tăng cường sự ổn định của thị trường tài chính qua đó thúc đẩy kinh tế phát triển. Do đó, pháp luật quản trị ngân hàng cần phải có những quy định về bảo vệ quyền của cổ đông ngân hàng thương mại. Để đảm bảo các quyền của cổ đông các quy định pháp luật này cần phải thực hiện hai nhiệm vụ như sau: Thứ nhất, pháp luật cần quy định những quyền lợi bất khả xâm phạm của cổ đông ngân hàng, Thứ hai, pháp luận cần quy định cơ chế để bảo vệ các quyền lợi đó. Thứ ba, pháp luật cần quy định những cơ chế để đảm bảo nguyên tắc đối xử bình đẳng giữa các cổ đông.

2.2.3.2. Các quy định về cách thức tổ chức bộ máy quản trị của ngân hàng thương mại


Các quy định về cách thức tổ chức bộ máy quản trị của ngân hàng thương mại bao gồm việc tổ chức sắp xếp những cơ quan quản trị của ngân hàng thương mại, phân chia vai trò, nhiệm vụ của các cơ quan đó, đặt ra các yêu cầu, trách nhiệm đối với các cá nhân là quản lý cấp cao của ngân hàng thương mại. Ngoài ra, cũng bao gồm cách thức tổ chức bộ máy ngân hàng nhằm đảm bảo nguyên tắc kiểm soát rủi ro trong ngân hàng thương mại.

Thứ nhất, về các cơ quan quản trị trong ngân hàng thương mại và vai trò, nhiệm vụ của các cơ quan đó

Các cơ quan quản trị trong ngân hàng thương mại bao gồm Đại Hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị, Ban Kiểm soát, Ban giám đốc. Giống như trong các công ty cổ phần, các cơ quan quản trị nói trên đảm nhiệm nhiều vai trò, chức năng trong các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, việc tuân thủ chặt chẽ nguyên tắc nắm bắt và kiểm soát rủi ro của pháp luật về quản trị ngân hàng thương mại, nguyên tắc đảm bảo tính trung thực của thông tin được công bố và minh bạch hóa hoạt động ngân hàng đã làm cho những cơ quan quản trị này mang thêm nhiều vai trò và nhiệm vụ đặc thù của lĩnh vực quản trị ngân hàng.



Thứ hai, về các cá nhân là người quản lý cấp cao trong ngân hàng thương mại – các lãnh đạo ngân hàng thương mại

Ngành ngân hàng là một ngành phức tạp, có tác động lớn đến kinh tế xã hội. Do vậy, nó đòi hỏi các lãnh đạo ngân hàng (bao gồm thành viên Hội đồng quản trị và thành viên Ban giám đốc) phải đạt được những phẩm chất nhất định và phải được bổ nhiệm sau khi trải qua một quy trình chặt chẽ và nghiêm túc. Hơn nữa, các lãnh đạo ngân hàng thương mại cần phải chịu trách nhiệm trước pháp luật (cả hành chính và hình sự) về các hành vi của mình liên quan đến hoạt động quản trị ngân hàng thương mại. Ngoài ra, vấn đề lương thưởng của các lãnh đạo ngân hàng thương mại cũng là một vấn đề có tác động lớn đến chất lượng, hiệu quả của hoạt động quản trị ngân hàng thương mại. Thế nhưng, vấn đề này còn chưa được quan tâm đúng mức. Việc quy định rõ các thu nhập chính đáng của lãnh đạo ngân hàng thương mại là cơ sở để đảm bảo sự minh bạch, công bằng trong vấn đề lương thưởng của các lãnh đạo ngân hàng thương mại.



Thứ ba, về hệ thống quản lý rủi ro, kiểm soát nội bộ và chính sách lương thưởng trong công tác nắm bắt, kiểm soát mức độ chấp nhận rủi ro trong ngân hàng thương mại

Xác định chiến lược, chính sách quản lý rủi ro là nhiệm vụ của Hội đồng quản trị. Còn việc đảm bảo nắm bắt được mức độ chấp nhận rủi ro thực tế và kiểm soát được rủi ro trong từng giao dịch của ngân hàng là nhiệm vụ của hệ thống kiểm soát nội bộ và bộ phân quản lý rủi ro. Một ngân hàng được quản trị tốt phải là ngân hàng phải có một hệ thống quản lý rủi ro và kiểm soát nội bộ theo đúng chuẩn mực được đưa ra bởi Uỷ ban Basel. Theo đó, hệ thống kiểm soát nội bộ và bộ phận quản lý rủi ro phải đảm nhiệm tốt các nhiệm vụ sau:



Xác định các rủi ro chủ yếu của ngân hàng;

Đánh giá các rủi ro này và đo lường mức độ mà ngân hàng phải đương đầu với chúng;

Giám sát mức độ rủi ro và quyết định nhu cầu vốn tương ứng (nghĩa là lên kế hoạch vốn) một cách thường xuyên;

Giám sát và đánh giá các quyết định chấp nhận rủi ro, biện pháp giảm nhẹ rủi ro và liệu quyết định về rủi ro có phù hợp với mức độ chấp nhận rủi ro ro/khẩu vị rủi ro và chính sách rủi ro mà Hội đồng quản trị phê chuẩn hay không;

Báo cáo cho Ban giám đốc và Hội đồng quản trị về những hoạt động của bộ phận

2.2.3.3. Các quy định về công bố thông tin và minh bạch hóa hoạt động ngân hàng


Đối với ngân hàng, tính minh bạch là con đường dẫn đến niềm tin của công chúng và nhà đầu tư. Sự không minh bạch gây ra một tâm lý e ngại của đông đảo người gửi tiền và các nhà đầu tư bất chấp tình hình tài chính thật sự của ngân hàng. Sự e ngại này gây ảnh hưởng xấu đến tâm lý chung của cả thị trường và có thể gây ra thiệt hại lớn cho ngân hàng và nền kinh tế. Do vậy, các ngân hàng thương mại phải đảm bảo được sự minh bạch cần thiết trong hoạt động của mình để suy trì niềm tin của công chúng qua đó tạo sự ổn định cho nền kinh tế. Pháp luật về quản trị ngân hàng phải tạo một khuôn khổ pháp lý cho hoạt động công bố thông tin của các ngân hàng thương mại. Khuôn khổ pháp lý này cần đặt trọng tâm vào hai điểm sau: Một là các thông tin cần được công bố và hai là cơ chế đảm bảo sự chân thực của các thông tin này.

2.2.3.4. Các quy định về cơ quan giám sát Nhà nước đối với hoạt động quản trị ngân hàng thương mại


Pháp luật quản trị ngân hàng thương mại không thể hoàn thiện nếu chỉ có những quy định pháp luật liên quan đến nội dung hoạt động quản trị ngân hàng mà không có những quy đinh pháp luật về một cơ quan giám sát ngân hàng chuyên biệt đối với hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động quản trị ngân hàng thương mại nói riêng. Các cơ quan giám sát cũng phải đảm nhiệm vai trò và thực hiện các nhiệm vụ như sau:

Thứ nhất, Cơ quan giám sát phải hướng dẫn các ngân hàng về các quy định pháp luật liên quan đến quản trị ngân hàng.

Thứ hai, các cơ quan giám sát phải thường xuyên đánh giá toàn diện các chính sách và thông lệ quản trị công ty chung của ngân hàng và đánh giá việc thi hành các quy định pháp luật quản trị ngân hàng thương mại của ngân hàng.

Thứ ba, các cơ quan giám sát phải bổ sung đánh giá thường xuyên chính sách và thông lệ quản trị công ty của ngân hàng bằng việc giám sát cả báo cáo nội bộ và các báo cáo khác, bao gồm báo cáo từ bên thứ ba như kiểm toán độc lập, khi phù hợp.

Thứ tư, các cơ quan giám sát phải quy định ngân hàng thực hiện biện pháp khắc phục hiệu quả và kịp thời nhằm giải quyết các thiếu sót quan trọng trong chính sách và thực tiễn quản trị công ty của ngân hàng, cũng như phải có các công cụ phù hợp cho việc này.

Thứ năm, Cơ quan giám sát phải phối hợp với các cơ quan giám sát có liên quan khác ở các thể chế pháp lý khác trong việc giám sát chính sách và thông lệ quản trị công ty.


2.2.3.5. Các quy định về giải quyết tranh chấp liên quan đến hoạt động quản trị ngân hàng thương mại


Các tranh chấp liên quan đến hoạt động quản trị ngân hàng là các tranh chấp nảy sinh giữa các chủ thể của pháp luật quản trị ngân hàng thương mại (bao gồm cổ đông, ngân hàng thương mại, cơ quan giám sát ngân hàng thương mại) trong quá trình hoạt động quản trị ngân hàng thương mại.

Do vậy, có thể phân loại các tranh chấp liên quan đến hoạt động quản trị ngân hàng thương mại thành các nhóm sau đây:

Thứ nhất, tranh chấp giữa cổ đông và ngân hàng thương mại về phần vốn góp của mỗi thành viên đối với công ty; về mệnh giá cổ phiếu và số cổ phiếu phát hành; về quyền sở hữu một phần tài sản, quyền được chia lợi nhuận hoặc về nghĩa vụ chịu lỗ tương ứng với phần vốn góp vào công ty; về các vấn đề khác liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của ngân hàng thương mại.

Thứ hai, tranh chấp phát sinh giữa cổ đông và người quản lý ngân hàng thương mại về việc người quản lý không thực hiện đúng, đủ trách nhiệm của mình.

Thứ ba, tranh chấp giữa ngân hàng thương mại và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về các quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động quản trị ngân hàng thương mại.

      1. Những yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật về quản trị ngân hàng thương mại


Thứ nhất là chủ trương của Nhà nước trong hoạt động quản trị ngân hàng

Thứ hai là thực tiễn hoạt động ngân hàng và quản trị ngân hàng

Thứ ba là các thông lệ, chuẩn mực quốc tế và pháp luật quốc tế.

Thứ tư là sự tương tác giữa các bộ phận pháp luật trong hệ thống pháp luật quốc gia

Thứ năm là khả năng áp dụng pháp luật của các chủ thể trong xã hội.

Thứ sáu là sự phát triển của công nghệ thông tin và việc áp dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực ngân hàng.






tải về 263.13 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương