CHÍnh phủ Số: 390 /TTr-cp cộng hoà XÃ HỘi chủ nghĩa việt nam


Pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được dự thảo Bộ luật quy định tại Phần thứ năm với những nội dung mới, chủ yếu như sau



tải về 227.7 Kb.
trang2/2
Chuyển đổi dữ liệu14.08.2016
Kích227.7 Kb.
#19987
1   2

Pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được dự thảo Bộ luật quy định tại Phần thứ năm với những nội dung mới, chủ yếu như sau:

- Về phạm vi áp dụng, trong trường hợp có quy định khác nhau giữa Phần này và luật khác có liên quan về pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài thì áp dụng quy định của luật khác có liên quan với điều kiện các quy định của luật đó không trái với các nguyên tắc xác định và áp dụng pháp luật trong quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được quy định trong Bộ luật dân sự;


- Về nguyên tắc xác định và áp dụng pháp luật, nguyên tắc các bên được lựa chọn pháp luật áp dụng cho các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, trừ các trường hợp đã có quy định cụ thể tại Phần này hoặc luật khác có liên quan. Trong trường hợp các bên không lựa chọn pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài theo quy định của Bộ luật này hoặc luật khác có liên quan của Việt Nam không có quy định về việc xác định pháp luật áp dụng thì pháp luật của nước nơi có quan hệ gắn bó nhất với quan hệ dân sự đó được áp dụng...;

- Bên cạnh đó, dự thảo Bộ luật sửa đổi, bổ sung làm phong phú hơn hệ thuộc xác định pháp luật áp dụng, làm rõ thứ tự ưu tiên áp dụng các hệ thuộc, đặc biệt làm hệ thuộc luật áp dụng đối với hợp đồng, thừa kế, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và các hệ thuộc liên quan đến nhân thân theo hướng tiếp thu có chọn lọc các tiêu chuẩn, chuẩn mực pháp lý chung đã được quốc tế thừa nhận rộng rãi.



V. MỘT SỐ VẤN ĐỀ XIN Ý KIẾN QUỐC HỘI

Trong quá trình soạn thảo, góp ý, đa số ý kiến thể hiện sự tán thành với nhiều nội dung của dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi). Tuy nhiên, trong dự thảo Bộ luật có một số vấn đề mới, quan trọng, có vấn đề còn có ý kiến khác nhau, Chính phủ xin báo cáo Quốc hội như sau:



1. Về phạm vi điều chỉnh và bố cục của dự thảo Bộ luật dân sự

So với Bộ luật dân sự hiện hành, dự thảo Bộ luật không tái kết cấu Phần “Quy định về chuyển quyền sử dụng đất” và Phần “Quyền sở hữu trí tuệ và Chuyển giao công nghệ” thành các phần riêng trong dự thảo Bộ luật dân sự. Các quy định về quyền sử dụng đất, quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến tài sản, quyền sở hữu, vật quyền khác, hợp đồng và quyền nhân thân đã được quy định trong các chế định tương ứng của dự thảo Bộ luật mà không quy định lại những nội dung đã được quy định cụ thể trong Luật đất đai năm 2013; Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), Luật chuyển giao công nghệ và các luật khác có liên quan.

Việc xác định phạm vi điều chỉnh của Bộ luật dân sự như trên giúp khắc phục được tình trạng trùng lặp, chồng chéo, mâu thuẫn giữa các văn bản pháp luật về cùng một vấn đề. Mặt khác, quyền sử dụng đất, quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ là những lĩnh vực thường có nhiều biến động trong thực tiễn thi hành. Do đó, việc không kết cấu những vấn đề này thành phần riêng sẽ giúp nhiều quy định của Bộ luật dân sự tránh được tình trạng bị coi là lạc hậu so với quy định của các luật khác có liên quan.3 Đây cũng là biện pháp góp phần thực hiện một trong những quan điểm chỉ đạo quan trọng trong việc sửa đổi, bổ sung Bộ luật dân sự lần này là xây dựng Bộ luật dân sự thành bộ luật nền, có vị trí, vai trò là luật chung của hệ thống pháp luật dân sự, có tính khái quát, tính dự báo và tính khả thi để đáp ứng được kịp thời sự phát triển thường xuyên, liên tục của các quan hệ xã hội vốn rất năng động thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự, đồng thời bảo đảm được tính ổn định của Bộ luật này.

Trên cơ sở phạm vi điều chỉnh như vậy, dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi) được bố cục thành 6 phần như sau:

Phần thứ nhất: Quy định chung;

Phần thứ hai: Quyền sở hữu và vật quyền khác;

Phần thứ ba: Nghĩa vụ và hợp đồng;

Phần thứ tư: Thừa kế;

Phần thứ năm: Pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài;

Phần thứ sáu: Điều khoản thi hành.



2. Những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự (Từ Điều 2 đến Điều 9)

Dự thảo Bộ luật dân sự quy định 8 nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, bao gồm: (1) Nguyên tắc công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền dân sự; (2) Nguyên tắc bình đẳng; (3) Nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận; (4) Nguyên tắc thiện chí, trung thực; (5) Nguyên tắc tôn trọng đạo đức, truyền thống tốt đẹp; (6) Nguyên tắc tôn trọng lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác; (7) Nguyên tắc chịu trách nhiệm dân sự; (8) Nguyên tắc hòa giải.

Quy định như trên được dựa trên các căn cứ sau đây:

Thứ nhất, thể chế hóa Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và cụ thể hóa nội dung, tinh thần của Hiến pháp năm 2013 (các điều 13, 14, 15, 16, 32, 33, 51...) về công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân cũng như những tư tưởng, nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa về quyền sở hữu, quyền tự do kinh doanh, quyền bình đẳng giữa các chủ thể không phân biệt hình thức sở hữu và thành phần kinh tế;

Thứ hai, để bảo đảm sự thống nhất trong nhận thức, xây dựng và áp dụng pháp luật dân sự, đặc biệt là để bảo đảm tính thống nhất, logic, đồng bộ của các luật khác trong việc điều chỉnh quan hệ dân sự thuộc các lĩnh vực hoạt động cụ thể, góp phần hình thành chuẩn mực pháp lý về cách ứng xử của cá nhân, pháp nhân trong đời sống dân sự;

Thứ ba, góp phần tạo cơ chế pháp lý đầy đủ hơn cho việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền dân sự, đặc biệt là trong các trường hợp giải quyết vụ, việc dân sự mà không có quy định của luật, không có tập quán và không áp dụng được tương tự pháp luật.

3. Trách nhiệm của Tòa án và cơ quan có thẩm quyền khác trong việc bảo vệ quyền dân sự (Điều 21)

Dự thảo Bộ luật dân sự quy định cụ thể cơ chế pháp lý để bảo vệ quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân thông qua Tòa án và cơ quan có thẩm quyền khác, theo đó:

“1. Tòa án, cơ quan có thẩm quyền khác có trách nhiệm bảo vệ quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân.

Trường hợp quyền dân sự bị vi phạm hoặc có tranh chấp thì việc bảo vệ quyền được thực hiện theo pháp luật tố tụng tại Tòa án hoặc trọng tài.

Việc bảo vệ quyền dân sự theo thủ tục hành chính được thực hiện trong những trường hợp luật định. Quyết định giải quyết vụ việc theo thủ tục hành chính có thể được xem xét lại tại Tòa án.

2. Tòa án không được từ chối yêu cầu giải quyết vụ, việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng; trong trường hợp này, quy định tại Điều 12 và Điều 13 của Bộ luật này được áp dụng để xem xét, giải quyết”.

Quy định như trên được dựa trên các căn cứ sau đây:

Thứ nhất, quy định này phù hợp với nội dung, tinh thần của Hiến pháp năm 2013 về công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân (Điều 14); về trách nhiệm của Chính phủ, Tòa án nhân dân trong việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân (khoản 6 Điều 96, khoản 3 Điều 102), theo đó “Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”;

Thứ hai, theo nội dung, tinh thần của Hiến pháp năm 2013 thì Nhà nước phải có trách nhiệm tạo cơ chế pháp lý đầy đủ để mọi quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân được Hiến pháp, pháp luật công nhận đều được tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm thực hiện. Vì vậy, việc bổ sung quy định nêu trên là cần thiết nhằm góp phần thực hiện trách nhiệm này của Nhà nước. Mặt khác, trong thời gian qua, do thiếu quy định này của luật nên không ít trường hợp Tòa án đã phải từ chối thụ lý và giải quyết các yêu cầu chính đáng của cá nhân, pháp nhân;

Thứ ba, nguyên tắc áp dụng tập quán và quy định tương tự của pháp luật trong trường hợp không có quy định của luật cũng đã được ghi nhận trong Bộ luật dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự năm 2005. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành lại chưa có quy định về trách nhiệm của Tòa án trong việc áp dụng tập quán và quy định tương tự của pháp luật để giải quyết các vụ việc dân sự. Vì vậy, việc quy định như trong dự thảo Bộ luật là cần thiết;

Thứ tư, nghiên cứu thực tiễn lập pháp của một số nước cho thấy, trong Bộ luật dân sự của các nước này đều có quy định, theo đó, trong trường hợp không có quy định của luật thì thẩm phán phải vận dụng tất cả các biện pháp hợp pháp để giải quyết yêu cầu của người dân mà không được phép từ chối giải quyết với lý do không có quy định của pháp luật để áp dụng.

4. Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu (Điều 145)

Về vấn đề này, có hai loại ý kiến:

- Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, Bộ luật dân sự cần có quy định cụ thể hơn về việc bảo vệ người thứ ba ngay tình trong trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu có đối tượng là tài sản phải đăng ký quyền sở hữu, theo hướng: trong trường hợp tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch khác cho người thứ ba và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì đối với người thứ ba, giao dịch này không vô hiệu, trừ trường hợp người thứ ba biết hoặc phải biết rằng tài sản là đối tượng của giao dịch dân sự đã bị chiếm đoạt bất hợp pháp, ngoài ý chí của chủ sở hữu. Trường hợp tài sản chưa được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền thì người thứ ba chỉ được bảo vệ khi nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị huỷ, sửa.

Loại ý kiến này dựa trên các căn cứ sau đây:

Thứ nhất, để bảo đảm lợi ích của người thiện chí, ngay tình và để bảo đảm sự ổn định của các quan hệ dân sự thì các Bộ luật dân sự trên thế giới đều ghi nhận việc bảo vệ người thứ ba ngay tình trong giao dịch dân sự (Bộ luật dân sự năm 1995, 2005 của nước ta cũng đã quy định về vấn đề này). Tuy nhiên, việc bảo vệ người thứ ba ngay tình theo nguyên tắc nào thì lại phụ thuộc vào chính sách pháp luật của từng nước. Nhưng nhìn chung, những nước quy định thời điểm xác lập, chấm dứt quyền sở hữu, vật quyền khác đối với bất động sản, động sản có đăng ký quyền sở hữu được tính từ thời điểm đăng ký thì thường lựa chọn chính sách “hiệu lực công tín” tức là, nếu người thứ ba ngay tình căn cứ vào việc tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà xác lập giao dịch thì người thứ ba ngay tình được bảo vệ;

Thứ hai, Bộ luật dân sự năm 2005 (Điều 168, Điều 439, Điều 692), Luật đất đai năm 2013 (khoản 3 Điều 188) quy định thời điểm xác lập, chấm dứt quyền sở hữu đối với bất động sản, động sản có đăng ký quyền sở hữu được tính từ thời điểm đăng ký. Dự thảo Bộ luật dân sự (Điều 179) về cơ bản kế thừa quy định của Bộ luật dân sự hiện hành và quy định của Luật đất đai năm 2013. Do đó, việc quy định theo hướng bảo vệ người thứ ba ngay tình trong trường hợp tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền là phù hợp với nguyên tắc đăng ký bất động sản hiện nay, góp phần bảo đảm lợi ích chính đáng của người thiện chí, ngay tình, cũng như sự ổn định của các quan hệ dân sự;

Thứ ba, bảo vệ người thứ ba ngay tình trong trường hợp này không có nghĩa là không tôn trọng và không bảo vệ quyền của chủ sở hữu. Dự thảo Bộ luật cũng đã có quy định, theo đó, trường hợp tài sản chưa được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng được chuyển giao cho người thứ ba không ngay tình thì chủ sở hữu vẫn có quyền kiện đòi tài sản từ người thứ ba. Trong trường hợp tài sản đã được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền và được chuyển giao cho người thứ ba ngay tình thì chủ sở hữu có quyền yêu cầu bồi hoàn giá trị tài sản, bồi thường thiệt hại;

Thứ tư, việc quy định theo hướng bảo vệ người thứ ba ngay tình trong trường hợp này còn góp phần bảo đảm và nâng cao tính minh bạch, công khai của nền kinh tế được vận hành theo quy luật thị trường thông qua việc: (1) Khuyến khích chủ sở hữu, người có vật quyền khác để hạn chế rủi ro pháp lý, bảo vệ được quyền, lợi ích của mình thì phải thực hiện việc đăng ký tài sản một cách kịp thời, đúng pháp luật; (2) Buộc các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về đăng ký tài sản phải có trách nhiệm hơn trong thực thi công vụ, đặc biệt là phải bảo đảm tính chính xác, minh bạch, công khai trong hoạt động đăng ký tài sản…

Loại ý kiến thứ hai cho rằng, cần tiếp tục quy định nguyên tắc bảo vệ người thứ ba ngay tình và bảo vệ chủ sở hữu như quy định tại Điều 138 Bộ luật dân sự năm 2005, bởi vì, nguyên tắc bảo vệ chủ sở hữu trong trường hợp này đã được quy định trong Bộ luật dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự năm 2005. Theo quy định tại Điều 138 Bộ luật dân sự hiện hành, trong trường hợp giao dịch dân sự bị Tòa án tuyên bố vô hiệu nhưng tài sản là bất động sản hoặc động sản phải đăng ký quyền sở hữu đã chuyển giao cho người thứ ba ngay tình thì giao dịch với người thứ ba bị vô hiệu và chủ sở hữu được nhận lại tài sản của mình, trừ trường hợp: a) Người thứ ba nhận được tài sản thông qua bán đấu giá; b) Người thứ ba giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa. Như vậy, chỉ trong hai trường hợp này thì người thứ ba mới không phải trả lại tài sản cho chủ sở hữu. Nếu quy định như loại ý kiến thứ nhất, người thứ ba ngay tình sẽ được bảo vệ trong mọi trường hợp và như vậy chủ sở hữu của tài sản lại không được bảo vệ. Vì vậy, cần cân nhắc thêm về vấn đề này, đặc biệt là trong bối cảnh việc đăng ký bất động sản đang còn có nhiều bất cập như hiện nay.

Dự thảo Bộ luật thể hiện theo loại ý kiến thứ nhất.



5. Về thời hiệu (Từ Điều 164 đến Điều 177)

Về vấn đề này, có hai loại ý kiến:

- Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, Bộ luật dân sự cần quy định về thời hiệu theo nguyên tắc: cá nhân, pháp nhân phải yêu cầu tòa án, trọng tài giải quyết vụ, việc dân sự trong thời hạn luật định, hết thời hạn đó mà cá nhân, pháp nhân mới có yêu cầu thì thay vì từ chối giải quyết yêu cầu của cá nhân, pháp nhân như quy định hiện hành, tòa án hoặc trọng tài phải thụ lý, giải quyết và tuyên bố chủ thể được hưởng quyền dân sự hoặc được miễn trừ nghĩa vụ dân sự.

Loại ý kiến này dựa vào các căn cứ sau đây:

Thứ nhất, quy định này là phù hợp với bản chất pháp lý của thời hiệu, tạo công cụ pháp lý tốt hơn để các chủ thể căn cứ vào đó mà bảo vệ các quyền dân sự của mình. Việc quy định thời hiệu khởi kiện như hiện hành tuy có tác dụng tạo thuận lợi cho Tòa án trong việc chứng minh, giải quyết vụ việc dân sự, đồng thời tạo căn cứ để Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự mà không phải đưa ra phán quyết cụ thể để xác định quyền lợi, nghĩa vụ của các bên trong quan hệ, nhưng lại có hạn chế là chưa giúp giải quyết được một cách triệt để và dứt điểm các tranh chấp phát sinh. Bên cạnh đó, khi không được Nhà nước bảo vệ quyền lợi thì các chủ thể có thể sử dụng những biện pháp hành xử ngoài vòng pháp luật, gây mất trật tự, an toàn xã hội;

Thứ hai, quy định này là để hạn chế tình trạng Tòa án có thể căn cứ vào thời hiệu mà từ chối yêu cầu giải quyết vụ việc, góp phần cụ thể hóa và triển khai thi hành khoản 3 Điều 102 Hiến pháp năm 2013, theo đó, “Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”;

Thứ ba, nghiên cứu kinh nghiệm lập pháp của một số nước cho thấy, Bộ luật dân sự của các nước này cũng chỉ quy định thời hiệu hưởng quyền, thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ mà không quy định thời hiệu khởi kiện.

- Loại ý kiến thứ hai cho rằng, nên tiếp tục kế thừa quy định về thời hiệu khởi kiện như Bộ luật dân sự hiện hành vì các lý do sau đây:

Thứ nhất, để nâng cao trách nhiệm của các bên trong việc yêu cầu Nhà nước bảo vệ quyền lợi cho mình;

Thứ hai, không tạo áp lực cho Tòa án trong việc giải quyết những vụ việc đã xảy ra trong thời gian dài, khó xác định về chứng cứ cũng như nội dung vụ việc;

Thứ ba, thời hiệu khởi kiện đã được quy định và áp dụng ổn định trong pháp luật dân sự và pháp luật về tố tụng dân sự ở nước ta việc bỏ quy định về loại thời hiệu này có thể gây ra những xáo trộn nhất định trong thi hành pháp luật.

Dự thảo Bộ luật thể hiện theo loại ý kiến thứ nhất.



6. Về hình thức sở hữu (Điều 206 và từ Điều 219 đến Điều 242)

Về vấn đề này, có hai loại ý kiến:

- Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, để cụ thể hóa và để bảo đảm sự thống nhất với nội dung, tinh thần của Hiến pháp năm 2013 về sở hữu toàn dân thì Bộ luật dân sự cần quy định ba hình thức sở hữu, bao gồm: Sở hữu toàn dân, sở hữu riêng và sở hữu chung.

Loại ý kiến này dựa vào các căn cứ sau đây:

Thứ nhất, sự phân loại này bảo đảm tính thống nhất với nội dung, tinh thần của Hiến pháp năm 2013 về sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã được ghi nhận tại các điều 32, 51 và 53, đồng thời cũng phù hợp với nguyên tắc xác định hình thức sở hữu, theo đó, khi xác định hình thức sở hữu thì cần phải căn cứ vào sự khác biệt trong cách thức thực hiện các quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt của chủ sở hữu đối với tài sản chứ không phải căn cứ vào yếu tố ai là chủ thể cụ thể của quyền sở hữu như quy định hiện hành;

Thứ hai, theo quy định của Hiến pháp năm 2013 thì Nhà nước là đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý các tài sản thuộc sở hữu toàn dân, do đó, có thể xác định Nhà nước chính là chủ thể có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt các tài sản này. Vì vậy, trên cơ sở sở hữu toàn dân, Bộ luật dân sự cần ghi nhận cụ thể vai trò của Nhà nước trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản công ;

Thứ ba, tài sản thuộc hình thức sở hữu toàn dân (trong Bộ luật dân sự năm 2005 được gọi là hình thức sở hữu nhà nước) là một hình thức sở hữu đặc thù, cần phải có chế độ pháp lý riêng biệt trong Bộ luật dân sự.

- Loại ý kiến thứ hai cho rằng, Bộ luật dân sự chỉ nên quy định hai hình thức sở hữu trong giao lưu dân sự là sở hữu riêng và sở hữu chung. Trong đó, sở hữu riêng là sở hữu của một chủ thể, bao gồm cá nhân, pháp nhân; sở hữu chung là sở hữu của nhiều chủ thể đối với một tài sản; sở hữu toàn dân thuộc hình thức sở hữu chung hợp nhất không thể phân chia do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý.

Loại ý kiến này dựa trên các căn cứ sau đây:

Thứ nhất, việc quy định hình thức sở hữu riêng, sở hữu chung là để phù hợp với nguyên tắc xác định hình thức sở hữu trong các quan hệ dân sự, theo đó, khi xác định hình thức sở hữu thì cần phải căn cứ vào sự khác biệt trong cách thức thực hiện các quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt của chủ sở hữu đối với tài sản chứ không phải căn cứ vào yếu tố ai là chủ thể cụ thể của quyền sở hữu như quy định hiện hành;

Thứ hai, việc quy định sở hữu toàn dân thuộc hình thức sở hữu chung hợp nhất không thể phân chia do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý là để phù hợp với nội dung, tinh thần của Hiến pháp là tài sản công thuộc sở hữu của toàn dân, đồng thời tạo chế độ pháp lý cụ thể để Nhà nước thực hiện vai trò của mình trong đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý tài sản công.

Trên cơ sở hai loại ý kiến nêu trên, dự thảo Bộ luật quy định hai phương án về hình thức sở hữu, cụ thể:

Phương án 1, hình thức sở hữu trong Bộ luật dân sự bao gồm, sở hữu toàn dân, sở hữu riêng và sở hữu chung;

Phương án 2, hình thức sở hữu trong Bộ luật dân sự bao gồm, sở hữu riêng và sở hữu chung, trong đó, sở hữu toàn dân thuộc hình thức sở hữu chung hợp nhất không thể phân chia do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý.



7. Về việc sử dụng một số thuật ngữ trong dự thảo Bộ luật

Về vấn đề này, hiện có hai loại ý kiến:

- Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, các thuật ngữ pháp lý mới như “Hành vi pháp lý dân sự”, “Vật quyền”, “Trái quyền” là quá trừu tượng, khó hiểu, có thể gây khó khăn trong nhận thức, áp dụng pháp luật và có thể làm phát sinh thêm nhiều chi phí do việc thay đổi các từ ngữ này. Vì vậy, dự thảo Bộ luật cần tiếp tục sử dụng các thuật ngữ đã được sử dụng ổn định, dễ hiểu hơn với người dân, như “Giao dịch dân sự” mà không nên sử dụng “Hành vi pháp lý dân sự”; “Quyền sở hữu và các vật quyền khác” mà không nên sử dụng “Vật quyền”; “Nghĩa vụ và hợp đồng” mà không nên sử dụng “Trái quyền”.

- Loại ý kiến thứ hai cho rằng, để phát huy được vai trò của Bộ luật dân sự là luật nền, luật chung của hệ thống pháp luật dân sự, có thể bao quát, dự báo được sự đa dạng, phong phú và đúng tính chất pháp lý của các quan hệ dân sự nói chung, của các quyền tài sản trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nói riêng, đồng thời, cũng bảo đảm được sự thống nhất, ổn định trong nghiên cứu, nhận thức, xây dựng và áp dụng pháp luật dân sự thì cần mạnh dạn sử dụng trong Bộ luật dân sự những thuật ngữ pháp lý có nội hàm đủ sức truyền tải được các yêu cầu nêu trên, trong đó có “hành vi pháp lý dân sự”, “vật quyền”, “trái quyền”.

Trên cơ sở hai loại ý kiến nêu trên, dự thảo Bộ luật quy định hai phương án về việc sử dụng thuật ngữ, cụ thể:

Phương án 1, sử dụng thống nhất trong dự thảo Bộ luật về các thuật ngữ “Giao dịch dân sự”, “Quyền sở hữu và các vật quyền khác” và “Nghĩa vụ và hợp đồng”;

Phương án 2, sử dụng thống nhất trong dự thảo Bộ luật về các thuật ngữ “Hành vi pháp lý dân sự”, “Vật quyền” và “Trái quyền”.

8. Về cách thức xin ý kiến của Quốc hội; thời điểm, cách thức lấy ý kiến nhân dân đối với dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi)

Bộ luật dân sự có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong hệ thống pháp luật của Việt Nam nói chung, hệ thống pháp luật dân sự nói riêng; trong việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; trong việc phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; trong việc thúc đẩy sự hình thành và phát triển các thiết chế dân chủ, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Do đó, để bảo đảm hiệu quả trong quá trình tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi), Chính phủ xin ý kiến Quốc hội về hai nội dung sau đây:

a) Về cách thức xin ý kiến của Quốc hội đối với dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi)

Theo Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII năm 2014 và năm 2015 thì dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi) được Quốc hội cho ý kiến tại các kỳ họp thứ 8, thứ 9 và xem xét, thông qua tại Kỳ họp thứ 10, Chính phủ đề xuất cách thức Quốc hội cho ý kiến như sau: tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội cho ý kiến về mục tiêu, quan điểm chỉ đạo xây dựng dự án Bộ luật dân sự (sửa đổi), những vấn đề Chính phủ xin ý kiến Quốc hội được thể hiện trong Tờ trình này và nội dung Phần thứ nhất “Quy định chung” của dự thảo Bộ luật; tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội cho ý kiến về các phần còn lại của dự thảo Bộ luật; tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội tiếp tục cho ý kiến và xem xét, thông qua dự án Bộ luật dân sự (sửa đổi).

b) Về thời điểm lấy ý kiến nhân dân và cách thức tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi)

Để phù hợp với cách thức xin ý kiến Quốc hội như đã nêu ở trên, Chính phủ đề xuất Quốc hội có Nghị quyết giao cho Chính phủ tổ chức lấy ý kiến nhân dân về dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi) trong khoảng thời gian từ tháng 1/2015 đến tháng 3/2015. Trên cơ sở kết quả tổng hợp ý kiến nhân dân, Chính phủ chỉ đạo Cơ quan chủ trì soạn thảo dự án Bộ luật dân sự (sửa đổi) phối hợp với các cơ quan của Quốc hội và các cơ quan, tổ chức liên quan để tiếp thu, chỉnh lý hoàn thiện dự thảo Bộ luật, báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội và trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 9.

Trên đây là nội dung cơ bản của dự án Bộ luật dân sự (sửa đổi), Chính phủ kính trình Quốc hội xem xét, quyết định.

(Xin gửi kèm theo: (1) Dự thảo Bộ luật; (2) Bản thuyết minh chi tiết dự thảo Bộ luật; (3) Bảng so sánh dự thảo Bộ luật; (4) Báo cáo đánh giá tác động của dự án Bộ luật; (5) Báo cáo lồng ghép giới trong xây dựng dự án Bộ luật; (6) Báo cáo của Hội đồng tư vấn thẩm định các dự án luật, pháp lệnh triển khai thi hành Hiến pháp; (7) Báo cáo thẩm định dự án Bộ luật; (8) Báo cáo tiếp thu, giải trình ý kiến của Hội đồng thẩm định; (9) Báo cáo tổng hợp và tiếp thu, giải trình ý kiến của các Bộ, ngành, địa phương; (10) Báo cáo tổng kết thi hành Bộ luật dân sự năm 2005; (11) Báo cáo tổng hợp kinh nghiệm nước ngoài)./.




Nơi nhận:

TM.CHÍNH PHỦ

- Như trên;

- Ban Bí thư (để b/c);

- Thủ tướng và các Phó Thủ tướng CP (để b/c);

- UBPL, UBTP, UBKT, UBCVĐXH của QH;

- Ban Nội chính TW;

- Văn phòng Trung ương Đảng;

- Văn phòng Quốc hội;

- Văn phòng Chủ tịch nước;

- Bộ Tư pháp;

- VPCP: BTCN, các PCN;

Các Vụ: TH, KGVX, V.III;

- Lưu: VT, PL (3).



TUQ. THỦ TƯỚNG

BỘ TRƯỞNG BỘ TƯ PHÁP


Hà Hùng Cường



1 Bộ Tư pháp đã nhận được Báo cáo tổng kết thi hành Bộ luật dân sự của 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, 21/21 Bộ, ngành, tổ chức có liên quan ở Trung ương.

2 Bộ Tư pháp đã nhận được 46 công văn của các địa phương, cơ quan, tổ chức về đánh giá bất cập, hạn chế của Bộ luật dân sự.

3 Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trong Báo cáo Tổng kết thi hành Bộ luật dân sự năm 2005 của ngành đã đề nghị không kết cấu Phần “Quy định về chuyển quyền sử dụng đất” và Phần “Quyền sở hữu trí tuệ và Chuyển giao công nghệ” thành các phần riêng trong Bộ luật dân sự.



tải về 227.7 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương