5. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân t hàng đầu quyết định thắng lợi của
cách mạng Việt Nam
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đặc biệt chú trọng xây dựng Đảng
Cộng sản-đội tiền phong của giai cấp vô sản. Đảng Cộng sản phải đƣợc trang bị lý luận
tiền phong, khoa học, có Cƣơng lĩnh chính trị rõ ràng, đƣợc tổ chức theo những nguyên
tắc cơ bản và với kỷ luật chặt chẽ. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, cách mạng trƣớc
hết phải có Đảng cách mạng để tổ chức phong trào cách mạng của quần chúng, Đảng phải
có chủ nghĩa làm cốt, Đảng không có chủ nghĩa (lý luận) cũng giống nhƣ ngƣời không có
trí khôn. Đảng phảo hoàn thành sứ mệnh giải phóng dân tộc, xây dựng đất nƣớc vì hạnh
phúc của nhân dân. Ngƣời nhấn mạnh, Đảng và từng cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần
đạo đức cách mạng. Năm 1927, Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh đề ra 23 điều về tƣ cách
ngƣời cách mệnh. Năm 1947, Ngƣời đề ra 12 điều về tƣ cách của một Đảng chân chính
cách mạng.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng luôn luôn chú trọng xây dựng Đảng,
nhằm nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Không ngừng phát triển, bổ
sung Cƣơng lĩnh chính trị, đƣờng lối, nắm vững và kiên định mục tiêu, lý tƣởng độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng tƣ tƣởng và kim chỉ nam cho hành động. Khẳng định tập trung dân chủ là nguyên tắc
tổ chức cơ bản của Đảng, đồng thời chú trọng các nguyên tắc đoàn kết, thống nhất trong
Đảng; tự phê bình và phê bình; gắn bó mật thiết với nhân dân và nguyên tắc của chủ
nghĩa quốc tế vô sản. Chú trọng công tác cán bộ, coi cán bộ là cái gốc của mọi công việc.
218
Rèn luyện đạo đức cách mạng là nội dung cơ bản trong xây dựng Đảng. Không ngừng đổi
mới phƣơng thức lãnh đạo, nâng cao chất lƣợng và hiệu quả lãnh đạo. Đảng lãnh đạo
bằng đƣờng lối và những quyết sách đúng đắn và thông qua hệ thống tổ chức đảng và các
tổ chức trong hệ thống chính trị; thông qua đội ngũ cán bộ, đảng viên trên tất cả các lĩnh
vực nhằm hiện thực hóa đƣờng lối của Đảng. Chú trọng nghiên cứu lý luận, tổng kết thực
tiễn và không ngừng làm rõ những vấn đề đặt ra trong khoa học lãnh đạo quản lý.
Để hoàn thành sứ mệnh lãnh đạo của Đảng cầm quyền, Đảng không ngừng đổi mới,
tự chỉnh đốn; phòng ngừa, đẩy lùi nguy cơ sai lầm về đƣờng lối, quan liêu, xa dân và cả
nguy cơ suy thoái, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Hội nghị lần thứ tƣ Ban
Chấp hành Trung ƣơng Đảng khóa XII (30-10-2016) đã ban hành Nghị quyết Về tăng
cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Thực
hiện tốt Nghị quyết Trung ƣơng 4 khóa XII gắn liền với thực hiện Chỉ thị số 05 của Bộ
Chính trị (15-5-2016) về đẩy mạnh học tập, làm theo tƣ tƣởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh; Nghị quyết Trung ƣơng 6 khóa XII (25-10-2017) về sắp xếp tổ chức bộ máy
của hệ thống chính trị; Nghị quyết Trung ƣơng 7 khóa XII (19-5-2018) về xây dựng đội
ngũ cán bộ các cấp nhất là cấp chiến lƣợc, thật sự làm cho Đảng vững mạnh, tiếp tục hoàn
thành sữ mệnh lãnh đạo xã hội và Nhà nƣớc, đƣa đất nƣớc phát triển nhanh và bền vững
trong thời kỳ mới.
Đảng không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức
và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra.
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam đã làm nổi bật những truyền thống vẻ vang của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đó là truyền thống đấu tranh kiên cƣờng, bất khuất của Đảng vì lý tƣởng cách mạng
cao cả, vì nƣớc, vì dân, với sự hy sinh anh dũng của nhiều thế hệ cán bộ lãnh đạo, đảng
viên kiên trung của Đảng. Truyền thống đoàn kết, thống nhất trong Đảng, thống nhất nhận
thức, ý chí và hành động. Truyền thống tự phê bình, phê bình nghiêm túc và quyết tâm
sửa chữa những khuyết điểm, hạn chế, yếu kém. Truyền thống gắn bó mật thiết với giai
cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc. Truyền thống rèn luyện phẩm chất,
đạo đức, nâng cao bản lĩnh tự vƣợt qua mọi khó khăn, thách thức. Truyền thống của chủ
nghĩa quốc tế trong sáng.
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam tôn vinh sự hy sinh anh dũng của các thế hệ cán
bộ, đảng viên trong toàn Đảng, của đồng bào cả nƣớc trong suốt chiều dài lịch sử đấu
tranh cách mạng do Đảng lãnh đạo. Các nhà lãnh đạo tiêu biểu của Đảng đã anh dũng hy
sinh nhƣ: Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ, Châu Văn Liêm,
219
Nguyễn Phong Sắc, Nguyễn Đức Cảnh, Ngô Gia Tự, Võ Văn Tần, Phan Đăng Lƣu,
Nguyễn Thị Minh Khai, Phùng Chí Kiên, Tô Hiệu, Hoàng Văn Thụ và nhiều đồng chí
khác. Rất nhiều tấm gƣơng hy sinh của chiến sĩ cách mạng trẻ tuổi vì lý tƣởng và con
đƣờng cách mạng của Đảng và dân tộc nhƣ: Lý Tự Trọng, Nguyễn Hoàng Tôn, Kim
Đồng, Võ Thị Sáu, Trần Văn Ơn, Lê Bình, Mạc Thị Bƣởi, Bùi Thị Cúc, Nguyễn Thị Lợi,
Cù Chính Lan, Phan Đình Giót, Bế Văn Đàn, Tô Vĩnh Diện, Nguyễn Văn Trỗi, Nguyễn
Viết Xuân, Bùi Ngọc Dƣơng, Lê Thị Riêng, Lê Anh Xuân, Nguyễn Thị Út (Út Tịch),
Quách Thị Trang, Nguyễn Phan Vinh, Lê Thị Hồng Gấm, Nguyễn Thái Bình, Phạm Ngọc
Thảo, Vũ Xuân Thiều, Đặng Thùy Trâm, Nguyễn Văn Thạc, Lê Đình Chinh, Hoàng Thị
Hồng Chiêm và nhiều tấm gƣơng kiên cƣờng khác.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ tƣ Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng khóa XII (30-10-
2016) khẳng định:
“Đảng ta xứng đáng là lực lƣợng lãnh đạo Nhà nƣớc và xã hội. Đất nƣớc ta chƣa bao
giờ có đƣợc cơ đồ và vị thế nhƣ ngày nay. Đó là kết quả sự nỗ lực phấn đấu không ngừng
của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong đó có sự hy sinh quên mình và đóng góp quan
trọng của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Chúng ta có quyền tự hào về bản chất tốt đẹp, truyền
thống anh hùng và lịch sử vẻ vang của Đảng ta-Đảng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại,
đại biểu của dân tộc Việt Nam anh hùng”
202
.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |