Các bài suy niệm LỄ hiển linh – Năm a lời Chúa: Is 60,1-6; Ep 3,2-3a. 5-6; Mt 2,1-12 MỤc lụC



tải về 1.2 Mb.
trang42/45
Chuyển đổi dữ liệu03.11.2017
Kích1.2 Mb.
#34027
1   ...   37   38   39   40   41   42   43   44   45

74. Cuộc Hành Trình Đức Tin


Các bạn hãy cùng tôi tưởng tượng ra cuộc đối thoại khi một trong ba vua nói với vợ mình rằng ông sẽ ra đi với hai nhà vua kia để tìm kiếm vua mới sinh...
"Anh đi tìm cái gì? Một Hài Nhi?" "Đúng thế, một Hài Nhi đặc biệt mà có thể sẽ trở thành vua." "Điều gì đã làm cho anh nghĩ như thế?" "Khi chúng tôi nhìn ngắm sao trời vào tối kia, chúng tôi đã nhìn thấy một hình thể kỳ diệu của sao Thổ, sao Mộc, và sao Hỏa. Chúng tôi tin rằng đó là dấu chỉ của một sự giáng sinh thuộc hoàng quí tộc." "Nếu vậy tại sao các anh không làm như những người khác, là chờ đợi cho đứa trẻ đó lớn lên và trở thành vua?" "Không hẳn vậy đâu. Nhớ không, cách đây vài năm có một lái buôn châu báu đã bán cho chúng ta một vài châu báu?" "Có chứ, tôi vẫn nhớ, người đó tên là Giacób." "Đúng ông ấy, chính ông ấy đã nói cho chúng ta về một Đấng Cứu Độ sẽ đến trong một ngày nào đó." "Cứ cho điều đó là đúng, nhưng anh có biết trong một ngày có bao nhiêu đứa trẻ sinh ra tại Do thái không?" "Chúng tôi sẽ hỏi đường. Nếu nhà lái buôn châu báu còn biết, thì dĩ nhiên các nhà lãnh đạo tôn giáo chắc còn phải biết rõ hơn." "Vậy các anh tìm những người này ở đâu?" "Tại thủ đô Giêrusalem, chúng tôi sẽ hỏi các nhà học thức ở tại đó." "Em nghĩ là anh bị điên rồi." "Có lẽ em nói đúng. Đó là cơ hội mà người ta chọn lựa. Tuy nhiên, nếu Thiên Chúa đã ban cho chúng ta một dấu kỳ diệu trên trời cho tất cả thế giới nhìn thấy, thì có lẽ Hài Nhi này không những chỉ là Vua Do Thái, nhưng còn là Vua tất cả vũ trụ." "Các anh sẽ làm một chuyến hành trình vô ích." "Chúng tôi gọi đó là cuộc hành trình đức tin."
Đó là điều mà chúng ta sẽ nói đến hôm nay, cuộc hành trình đức tin: Cuộc hành trình đức tin của ba nhà chiêm tinh và cuộc hành trình đức tin của chúng ta. Chúng ta thực hiện cuộc hành trình đức tin mỗi khi chúng ta phải ra khỏi con đường thường nhật và phải chặt phá đi những bụi cây. Chúng ta thực hiện cuộc hành trình đức tin mỗi khi chúng ta bước xa hơn những gì mà thiên hạ gọi là "hợp lý." Chúng ta thực hiện cuộc hành trình đức tin khi chúng ta để cho Thánh Thần của Thiên Chúa chiếm đoạt toàn diện con người chúng ta. Chúng ta thực hiện cuộc hành trình đức tin, giống như ba nhà chiêm tinh, khi chúng ta bắt mối liên hệ với Đấng mà Thiên Chúa sai đến là Đấng Cứu Thế.
Câu hỏi, "Đâu là ý nghĩa của cuộc sống?" chỉ có đức tin mới có thể trả lời. Cuộc hành trình của ba nhà chiêm tinh và của nhiều người khác tìm kiếm Thiên Chúa là cuộc hành trình phổ quát của tất cả mọi người. Sự xuất hiện của ngôi sao là dấu chỉ ngay từ ban đầu rằng Chúa Giêsu là "Đường, Sự Thật, và Sự Sống" cho tất cả mọi người. Cũng như Blaise Pascal, nhà toán học và khoa học người Pháp đã nói, "Trong tâm hồn của mỗi người hiện diện một khoảng không dưới dạng Thiên Chúa."
Cuộc hành trình đức tin thường là cuộc hành trình cô độc. Cuộc đối thoại giữa nhà chiêm tinh và người vợ của ông mà chúng ta đã tưởng tượng ra, có lẽ là một sự thật. Một vài người vẫn không hiểu. Đôi khi cuộc hành trình đức tin là cuộc hành trình mà không một người thân nào trong gia đình sẽ đi với chúng ta. Nhiều người đã phải bỏ cả người chồng đang ngồi đọc báo Chúa Nhật, hoặc là người vợ đang ngồi xem TV, hoặc là con cái đang ngủ để đi Lễ Chúa Nhật. Và điều đó thật là nhức nhối.
Cuộc hành trình đức tin có thể phải trả một giá rất đắt. Cộng thêm vào chuyến du hành, ba nhà chiêm tinh còn dâng cúng những lễ vật quí giá như vàng, mộc dược, và trầm hương. Không ai bắt ép họ phải dâng những đồ ấy, nhưng chính họ đã quá vui mừng trong sự hiện diện của Người Con mà họ cảm thấy phải tôn kính. Lòng tôn kính thật sự luôn khởi động sự rộng rãi.
Nếu các bạn thực hiện cuộc hành trình đức tin của mình một cách thành thật, các bạn sẽ thấy mình phải cho đi của cải mà bạn có thể dùng cho bản thân mình. Đó chỉ là một sự bắt đầu của cuộc du hành. Nó còn bắt bạn phải hy sinh cả thời gian và sức lực để làm những công việc truyền giáo. Lý do là bởi vì khi bạn trả lời để theo tiếng gọi của Chúa Kitô, bạn sẽ phải đi cùng một lối mà chính Chúa Giêsu đã phán, "Ta đến để phục vụ chứ không để được phục vụ" (Mt 20:28).
Chúng ta vừa mới nói với nhau về sự cô đơn và tốn kém của cuộc hành trình đức tin, nhưng nó cũng là cuộc hành trình sáng tươi. Bạn sẽ tìm thấy được sự trợ giúp đắc lực. Ba nhà chiêm tinh được ngôi sao dẫn đường, còn các Kitô hữu ngày nay sẽ được Lời Chúa dẫn dắt. Ba nhà chiêm tinh được thúc đẩy bằng sự hứng khởi của chính họ, nhưng các Kitô hữu thì được thúc đẩy bằng tình yêu của Chúa Kitô. Ba nhà chiêm tinh được tăng cường sức mạnh bằng chính sức lực của họ, nhưng các Kitô hữu thì được tăng cường bằng chính sức mạnh của Chúa Thánh Thần.
Khi các bạn sống cuộc sống của Chúa Kitô thì các bạn có thể chắc chắn một điều là các bạn đang đầu tư cuộc sống của các bạn vào một mục tiêu quan trọng mà thế giới không thể biết được. Đó là một cuộc hành trình đức tin dẫn đến cuộc sống vĩnh cửu. "Ta là", Chúa Giêsu phán, "Sự Sống lại và là Sự Sống; ai tin Ta sẽ không phải chết, nhưng sẽ được sống" (Gn 11:25).

75. Lễ Giáng Sinh của muôn dân


Henry van Dyke có thuật lại câu chuyện nhan đề: “Còn một nhà đạo sĩ khác nữa” (The Other Wise Man), kể về một nhà đạo sĩ thứ tư là người đáng lẽ đã cùng ba nhà đạo sĩ kia đi tìm vị Vua vừa sinh ra ở Bêlem. Nhà đạo sĩ này tên là Artaban. Trong lúc chuẩn bị lên đường, Artaban đã chọn ba viên ngọc quý nhất trong kho tàng của ông để dâng tặng Hài Nhi Giêsu. Thế nhưng trên đường đến gặp ba nhà đạo sĩ kia để cùng đi, gặp bất cứ ai xin, ông cũng đem ra tặng hết. Người thứ nhất mà ông đã gặp được là một bà cụ già rét run vì lạnh. Động lòng trắc ẩn, ông đã tặng cho cụ già viên ngọc thứ nhất. Đi thêm một đoạn đường nữa, ông gặp một toán lính toan làm nhục cô gái. Ông đành đem viên ngọc thứ hai ra thương lượng với chúng để chuộc lại cô gái. Cuối cùng khi tiến vào địa hạt Bêlem, ông gặp một người lình do vua Hêrôđê sai đi để tàn sát các hài nhi trong một ngôi làng lân cận. Ông đành phải rút ra viên ngọc cuối cùng để tặng cho người lính và thuyết phục anh từ bỏ ý định gian ác.

Tìm được Hài Nhi Giêsu, nhà đạo sĩ thứ tư này chỉ còn lại hai bàn tay trắng. Ông bối rối và kể lại cuộc hành trình của mình. Nghe xong câu chuyện, Hài Nhi Giêsu mỉm cười đưa bàn tay bé nhỏ ra nhận quà của ông. Nó không phải là vàng bạc châu báu, nhưng là tấm lòng vàng được dệt bằng những nghĩa cử đối với tha nhân, nhất là những người túng thiếu, đói khổ, những người cần giúp đỡ. Chính nhờ những nghĩa cử này mà Thiên Chúa mới được tỏ mình ra cho mọi người.
Lễ Hiển Linh là lễ Thiên Chúa tỏ mình ra cho mọi người. Thiên Chúa không chỉ tỏ mình ra cho riêng Dân của Ngài mà còn cho muôn dân. Bởi đó, mọi người trong chúng ta phải cộng tác với Thiên Chúa để làm bừng sáng lên ánh sáng đã xuất hiện từ Phương Đông. Chúng ta phải là ánh sao dẫn đường cho mọi người đến với Chúa. Tiên tri Isaia trong bài đọc thứ nhất hôm nay đã mở ra cả một viễn tuợng lớn lao: đó là ngày và thời vinh quang của Thiên Chúa chiếu trên Dân Chúa và biến Dân Chúa thành điểm thu phục muôn dân. Mọi người từ mọi phương hướng sẽ cùng quy về một mối trong tiếng ngợi ca Thiên Chúa.
Nội dung của lòng tin tưởng này đã được Thánh Matthêu diễn tả một cách sống động qua câu chuyện về Ba Vua, đúng hơn là ba nhà đạo sĩ đi tìm gặp Chúa Giêsu mới sinh tại Bêlem. Xưa chúng ta quen gọi đây là Ba Vua, do đó Lễ Hiển Linh này cũng gọi là lễ Ba Vua. Nhưng điều mà đoạn Tin Mừng ở đây muốn nhấn mạnh đến là: các đạo sĩ, có thể là các nhà bác học hay thiên văn học, đã từ Phương Đông mà tới (Phương Đông vẫn thường được coi là phương trời của những dân ngoại), họ là những người ở ngoài Dân riêng của Chúa, không thuộc dân Do Thái nhưng họ đã tìm đến và được lãnh nhận ơn cứu độ. Có thể nói, đoạn Tin Mừng này đã diễn tả tất cả tấn bi kịch của công cuộc cứu chuộc đối với Dân riêng của Chúa và đồng thời cũng nói lên tấm lòng đại độ của Thiên Chúa: Hêrôđê tượng trưng cho quyền lực, một thứ quyền lực xảo quyệt chỉ biết khư khư giữ lấy ngai vàng của mình như một lẽ sống. Còn dân thành Giêrusalem đáng lý ra phải vui mừng khi hay tin “Vua người Do Thái mới sinh”, Đấng họ trông chờ như Vị Cứu Tinh, thì trái lại, họ đã hoảng hốt cùng với Hêrôđê người cai trị trên họ. Dường như họ ngại phải dấn mình vào một sự đổi thay, dù họ tin rằng sự đổi thay đó đem lại sự giải thoát cho họ. Còn những Tư Tế và những nhà thông luật, biết rõ nơi Vị Cứu Tinh ra đời, nhưng chẳng ai màng đến với Ngài. Để rồi cuối cùng, chỉ có những người bị liệt vào hàng “dân ngoại” lại hăm hở đến với “Vua người Do Thái”, cũng là Vị Cứu Tinh của nhân loại.
Thưa anh chị em,

Lễ Hiển Linh là lễ Thiên Chúa tỏ mình ra. Chúng ta biết được qua bài Tin Mừng, Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho muôn dân. Thánh Gioan viết: “Thiên Chúa nào có ai thấy Ngài bao giờ, và làm sao thấy Ngài được? Nhưng người Con duy nhất của Ngài đã làm người, và cho ta thấy được Thiên Chúa mang bản tính con người, làm người như chúng ta và ở giữa chúng ta”. Từ khi Ngôi Lời nhập thể, ai tin nhận Đức Kitô là tin nhận Thiên Chúa, ai từ khước Đức Kitô là từ khước Thiên Chúa.


Vấn đề được nêu lên hôm nay, là ai làm cho người ta biết Đức Kitô, nếu không phải là mỗi người chúng ta? Tuy nhiên, hãy tự vấn rằng bản thân chúng ta đã biết Đức Kitô đến mức độ nào? Nhất định chúng ta chỉ biết Ngài với một mức độ thật giới hạn. Xét về việc giảng giải bằng lời nói, chúng ta có thể bập bẹ đưa ra một số chi tiết về con người của Đức Kitô, về giáo thuyết, về thân thế và sự nghiệp của Đức Kitô; những điều mà người thiện chí không thể không nhìn thấy. Còn nếu chứng minh bằng chính đời sống, để nói được với bất cứ ai, như Thánh Phaolô đã nói: “Xin ông bà, anh chị, hãy bắt chước tôi, như tôi đã sống noi gương Đức Kitô”, thì lắm kẻ không dám nói, và không được phép nói. Bởi vì cuộc sống hiện tại của họ, mọi người đều biết nó như thế nào rồi! Nói cách khác, bản thân tôi chưa gặp được Thiên Chúa, mặc dù miệng tôi luôn nói: Thiên Chúa ở khắp mọi nơi, Thiên Chúa ở trong tôi, Thiên Chúa ở trong mọi người. Nhưng thực sự, tôi không thấy Thiên Chúa nơi ai cả, ít là trong những cử chỉ tôi đối với những người chung quanh đã nói lên rõ rệt như vậy. Và cũng thế, chưa ai thấy Thiên Chúa ở nơi tôi cả vì chình cuộc sống của tôi đã nói lên rõ ràng như vậy.
Thật vậy, còn có biết bao người đang sống trong tăm tối thiêng liêng; họ đang lầm lũi bước đi trong lầm lạc; họ đang khao khát chân lý; họ không ngớt đặt vấn nạn với chúng ta: “Đức Vua Dân Do Thái sinh ra ở đâu?” hoặc: “Đức Giêsu là ai vậy?. Vậy thì, hỡi các Kitô hữu, hãy trả lời cho họ đi: “Đức Kitô là ai?”. Nhưng xin đừng mở cuốn Kinh Thánh ra nói như một nhà thông thái. Chắc chắn họ không xin chúng ta một Đức Kitô đóng khung trong sách vở, nhưng là một Đức Kitô sống động qua con người của chúng ta. Không có con đường nào khác đưa người ta trở về hoặc khám phá ra Chúa Kitô ngoài con đường Tin Mừng đã vạch, đó là con đường yêu thương. Thật vậy, chính tình yêu là sức mạnh khiêm tốn nhất nhưng lại mãnh liệt nhất để đưa con người đến với nguồn chân lý. Khi người Kitô hữu chỉ đóng khung đời sống đạo của mình trong nhà thờ, giữa những nghi lễ, mà không nhận ra những nhu cầu, những đòi hỏi của xã hội chung quanh; khi một cộng đoàn Kitô hữu quá bám víu vào những thứ gọi là quyền lợi tôn giáo của mình mà làm ngơ trước những đau khổ, bất hạnh của kẻ khác thì chính họ đang làm dập tắt những ánh sáng dẫn đường tới Chúa Kitô.
May mắn là vào thời đại chúng ta, có Mẹ Têrêsa Calcutta. Qua chính cuộc sống đầy hy sinh vì mọi người, Mẹ Têrêsa đã làm cho mọi người thấy Thiên Chúa. Thật kỳ diệu: ngay Cuba rồi Liên Xô cũng mời Mẹ Têrêsa đến thăm và cho phép lập Dòng các chị em Thừa Sai Bác Ái với quyền thu nhận tập sinh, đang khi các Dòng khác đã có mặt từ lâu, vẫn chưa được phép này. Tại sao? Cuộc đời hy sinh của Mẹ Têrêsa, từ khi là nữ tu trẻ, từ năm 1918, đã dám mạo hiểm, mạo hiểm trong khiêm tốn nhưng lòng đầy tình yêu Thiên Chúa và con người. Sống trong tập thể tu viện với đầy đủ tiện nghi của một Dòng chuyên dạy con gái nhà giàu, được bảo đảm hơn là cô đơn giữa xóm ổ chuột. Thế mà, trong thời gian dài, nữ tu Têrêsa là con người lang thang trên các nẻo đường ở Calcutta, vì Têrêsa thấy rõ Chúa Giêsu đang sống trong những người nghèo bên các vỉa hè của những người dư giả, giả vờ quên rằng có Lazarô đang nằm chết đói ngoài cửa nhà mình, đang chờ một phần ăn rất nhỏ, vất đi từ một bàn tiệc linh đình sang trọng. Tình yêu, yêu Thiên Chúa, yêu Chúa trong mọi người, đã biến đổi sự yếu hèn của nữ tu Têrêsa nên sức mạnh vô địch. Không bao lâu, căn nhà nhỏ của Mẹ Têrêsa phải nới rộng, nới rộng đến nhiều quốc gia trên thế giới, cả đến nước Liên Xô. Đoàn Thừa Sai Bác Ái chưa đầy 40 năm đã chóng lớn như phép lạ, và Mẹ Têrêsa được trao tặng cả vinh dự lớn nhất của người đời: “giải thưởng Nobel Hoà Bình”. Mẹ Têrêsa đã làm cho mọi người thấy thế nào là Thiên Chúa.
Thiên Chúa của những năm cuối thế kỷ 20 là như thế đó. Thiên Chúa trong viễn tưởng năm 2000 phải như thế đó. Thiên Chúa của những cá nhân ích kỷ, của những tập thể ích kỷ, Thiên Chúa của người “tôi” ích kỷ đã chết, và phải chết đi với cái người “tôi” ích kỷ. Như thế sẽ chiếu tỏ một Thiên Chúa, thực sự là Thiên Chúa tình thương, hy sinh Con Một cho nhân loại phản bội. Thiên Chúa là Đức Kitô dám chết cho kẻ mình yêu tuy chúng ta không đáng yêu.
May mắn là trong xã hội chúng ta, ngay giữa chúng ta, trong những giờ này, có những mẫu người hy sinh, quên mình, lo cho người đau khổ, nghèo đói, bệnh tật, trong các bệnh viện, đặc biệt ở những trại cùi. Những con người Kitô hữu đó được công khai bầu lên là người mẫu của tình yêu vị tha, những nhân chứng đích thực của Chúa Kitô.
Có những người, giờ này, đang âm thầm vào các bệnh viện, tìm thăm những bệnh nhân bại liệt tại giường, không gia đình thăm viếng, chăm sóc; anh chị em đó đã đến, hỏi thăm sức khoẻ, chạy dùm một số việc, giặt giũ, vệ sinh cá nhân… Xin Chúa ban cho có nhiều tông đồ, nhân chứng của tình yêu Chúa với những việc làm cụ thể như thế để tạo được sự Hiển Linh, làm cho đồng bào được thấy Thiên Chúa, và ước gì những chứng nhân ấy lại là chính chúng ta. Ước gì được như vậy!


tải về 1.2 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   37   38   39   40   41   42   43   44   45




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương