Đặc San Chu Văn An



tải về 10.77 Mb.
trang15/29
Chuyển đổi dữ liệu12.05.2018
Kích10.77 Mb.
#38156
1   ...   11   12   13   14   15   16   17   18   ...   29
Giáo sư Vũ văn Mẫu, một cựu học sinh trường Bưởi (tiền thân của Chu văn An), nguyên Thủ tướng Chính phủ, nguyên Ngoại trưởng Việt nam Cộng hoà, đã từ trần ngày 20.8.1998, thọ 84 tuỗi.

Những ai đã từng sống tại Việt nam hoặc theo dõi tình hình V.N. vào những thập kỷ trước đây cho đến ngày cuối cùng của V.N. tự do đều biết đến ông Vũ văn Mẫu. Hình ảnh ông Vũ văn Mẫu đã gắn liền với hình ảnh T.T. Ngô Đình Diệm trong suốt thời gian ông Diệm nắm chính quyền. Chẳng phải ông Mẫu là người thân tín của ông Diệm mà chỉ vì trên cương vị Bộ trưởng Ngoại giao trong liên tiếp hơn 8 năm trời ông Mẫu đã luôn luôn đứng cạnh T.T. Diệm trong những buỗi tiếp tân chính thức, trong những ngày đại lễ. Đặc biệt, dân chúng V.N. hồi đó thường đuợc nhìn trên màn ảnh nhân các buổi lễ trình Ủy nhiệm thư của Đại sứ các nước bạn, vị Nguyên thủ Quốc gia đứng giữa với một bên là ông V.V.Mẫu và bên trái là ông Quách tòng Đức, Đổng lý Văn phòng Phủ T.T., một nhân vật cũng đầy khả năng và uy tín. Trong những ngày cuối cùng của Giáo sư Mẫu, trong lúc lâm chung cũng như khi hạ huyệt đều thấy có sự hiện diện của ông Q.T. Đức, người bạn đồng hành lâu năm và chung thủy.

Sau khi tốt nghiệp bậc Trung học,rồi Đại học Luật khoa tại Hà nội, ông V.V.Mẫu đã chọn ngành Hành chánh và thi đậu Tri Huyện. Khi Việt Nam dần dần lấy lại chủ quyền từ tay người Pháp, ông Vũ văn Mẫu trở thành Giáo sư giảng dạy tại Đại học Luật khoa Hà nội (lúc này Khoa trưởng còn là người Pháp). Đồng thời ông cũng ghi tên vào Luật sư đoàn tại Hà nội. Tôi được may mắn biết đến Giáo sư V.V.Mẫu cách đây đúng 50 năm, khi còn là học sinh bậc Trung học. Với hoài bão sau này sẽ trở thành Luật sư, tôi thường lui tới Pháp đình Hà nội để dự thính các phiên toà. Tại đây tôi tôi đã được chứng kiến tài hùng biện của vị Luật sư trẻ tuỗi V.V.Mẫu trước những bộ mặt nghiêm khắc của Công tố viên Đào bá Cương hoặc Chánh án Từ Động. Hai năm sau, tôi lại có dịp được tiếp xúc với Luật sư Mẫu tại Paris, trong một căn phòng khách sạn nhỏ hẹp gần trường Đại học Quân sự (Ecole Militaire). Tôi đã thán phục ý chí kiên cường của Luật sư Mẫu vừa một tay bồng con nhỏ, một tay cầm cuốn Droit Romain ông đang học đễ chuẫn bị cho một Cao Học thứ 3 cho kỳ thi Thạc sĩ.

Âu cũng là tình cờ của Lịch sử vì ông Biện lý nghiêm khắc Đào bá Cương trước đây tôi đã gặp tại Hà nội, nay cũng lại có mặt tại Paris đễ tiếp tục học ngành Luật và Kinh tế ; Giáo sư Cương sau đó đã về nước và sống âm thầm tại miền Bắc cho đến ngày cuối cùng của cuộc đời cách đây cũng không lâu. Trong khi đó Giáo sư Mẫu đã về vùng Quốc gia và đã giữ nhiều trọng trách trong chính quyền. Vũ tiên sinh cũng đã từng đảm nhiệm chức vụ Khoa trưởng Đại học Luật khoa Saigon và trong nhiều năm giảng dạy đã đào tạo được nhiều thế hệ luật gia, chính trị gia và các nhà chỉ huy hành chánh tên tuỗi sau này. Giáo sư Mẫu cũng đã đễ lại cho hậu thế nhiều tác phẫm văn học giá trị : Bộ Tự điễn Danh từ Pháp luật (Pháp-Việt), Bộ Lịch sử Việt nam, cuốn Tôn giáo Việt nam v.v….

Trong thời gian điều khiễn ngành Ngoại giao, Vũ Ngoại trưởng đã giúp cho nền Ngoại giao V.N. gặt hái được nhiều thành tích tốt đẹp. Dưới sự điều động của ông nhằm thực thi chính sách Ngoại giao của Chính phủ Ngô đình Diệm, V.N.C.H. đã có vị trí ngày càng vững chắc trên chính trường quốc tế : số Quốc gia công nhận V.N.C.H. mỗi ngày mỗi gia tăng. V.N.C.H. được mời tham dự hầu hết các Hội nghị Quốc tế và là thành viên chính thức của rất nhiều Tỗ chức chuyên môn của Liên Hiệp Quốc. Ngoại trưởng Mẫu đã dẫn đầu nhiều Phái đoàn công du ngoại quốc, gây thêm uy tín cho ta và dành cảm tình của nhiều quốc gia Trung lập, Phi Liên Kết. Trên diễn đàn quốc tế, tiếng nói của ông luôn luôn được các Phái đoàn khác lắng nghe và khâm phục. Một kỷ niệm sâu đậm tôi còn giữ được khi tháp tùng Ngoại trưởng đi Genève tham dự Hội nghị Quốc Tế về Ai Lao năm 1962 là Phái đoàn do Ngoại trưởng hướng dẫn gồm nhiều nhân vật xuất sắc như các Giáo sư Bửu Hội, Nguyễn quốc Định, Đại sứ Trần chánh Thành, nhưng ai nấy đều kính nể vị Trưởng Phái đoàn lịch duyệt. Ngay cả đến các Trưởng Phái đoàn ngoại quốc khác như Thủ tướng Lào, Hoàng thân Souvana Phouma hay Ngoại trưởng Anh Sir Anthony Eden đều thích thú những luận lập sâu sắc và quan điễm pháp lý vững chắc của vị Trưởng Phái đoàn V.N.C.H.

Là một luật gia, ông Mẫu đã có những khái niệm rõ ràng về luật pháp cũng như về thể chế dân chủ. Ông đã tham gia chính phủ Ngô đình Diệm như là một nhân sĩ độc lập, cũng như nhiều nhà trí thức khác, muốn mang tài năng, kiến thức của mình đễ phụng sự chính nghĩa quốc gia, không riêng cho một phe phái nào. Vì vậy vào những năm cuối nền Đệ nhất Cộng hoà, Giáo sư Mẫu đã gặp phải nhiều khó khăn trong việc điều hành cơ quan của ông. Do đó Ngoại trưởng đã nhiều lần xin được giải nhiệm nhưng không được Ngô Tổng thống chấp thuận. Những biến cố Phật giáo sau đó đã buộc ông phải tách rời chính quyền Ngô đình Diệm.

Việc ông từ chức và xuống tóc đễ phản đối các vụ đàn áp Phật giáo đã được sự ủng hộ của rất nhiều người. Nhưng cũng đã có dư luận chê trách ông và coi ông như một con người phản phúc (Chính ông Diệm cũng đã không tránh khỏi búa rìu của dư luận khi cho tỗ chức Trưng cầu dân ý đễ đi đến việc truất phế ông Bảo Đại, mặc dầu hành động này lúc đó cần thiết đễ ỗn định tình hình đất nước).

Những chính phủ kế tiếp đã mời Giáo sư Mẫu giữ chức vụ Đại sứ tại Anh quốc. Nhưng chỉ sau một thời gian ngắn, những bất đồng ý kiến với các nhà lãnh đạo mới của V.N.C.H. đã khiến Giáo sư Mẫu lại trở về với nghề nghiệp chuyên môn của ông, đồng thời Luật sư Mẫu cũng đứng đầu một danh sách ứng cử vào Thượng viện. Những ngày cuối củng của V.N.C.H., Nghị sĩ V.V.Mẫu đã được chỉ định vào chức vụ Thủ tướng. Nhưng trước một tình trạng quá đen tối, với sự tan rã của chính quyền dân sự cũng như quân sự, tân chính phủ chỉ còn có một nhiệm vụ hạn hẹp là bảo vệ cho những người dân vô tội còn kẹt lại tránh được một cuộc tàn phá và tàn sát chắc chắn sẽ vô cùng thảm khốc nếu chiến tranh tiếp diễn.

Trong những ngày sống dưới chế độ Cộng sản, Giáo sư Mẫu đã dành trọn vẹn thời gian đễ tụng kinh niệm Phật, nghiên cứu Đạo pháp và hướng về ngành hội họa mà ông vẫn hằng ưa thích. Sau đó ông đã qua Pháp đoàn tụ với gia đình. Tôi rất cảm kích khi mới tới đất Pháp ông Mẫu đã ghé thăm tôi tại nơi tôi đang làm việc và an ủi , khích lệ tôi trong những buỗi đầu cuộc đời tị nạn sau bao năm tháng kẹt lại Việt nam với biết bao hậu quả hãi hùng. Sau đó, trong một buổi hội các cựu nhân viên ngoại giao tôi lại được may mắn ngồi chung và hầu chuyện với ông. Trong dịp này, một cựu nhân viên (nay đã qua đời) đã đến bên bàn Giáo sư Mẫu ngỏ lời cảm tạ với những lời lẽ chân thành như sau: “Nhờ công ơn của ông Tỗng trưởng, gia đình tôi đã được đi ngoại quốc, và nhờ vậy con cái của chúng tôi đã thành đạt.” Tôi thầm nghĩ chắc chắn đây chỉ là một trong hàng trăm trường hợp tương tự khác vì như những ai đã từng có dịp được làm việc gần ông đều đã thấy ở ông một con người hài hoà, nhân hậu. Nghiêm túc trong công việc nhưng không khó khăn, ông sẵn sàng quên đi những sai lầm nhỏ nhặt của người dưới. Ông cũng luôn luôn nâng đỡ các cộng sự viên đễ cho có cơ hội trau dồi kiến thức, hướng dẫn tận tình trong việc nghiên cứu các hồ sơ và văn kiện pháp lý mà ông thường thông suốt. Khi có cơ hội và trong nhiều trường hợp, ông đã chấp thuận những thỉnh cầu của nhân viên xin được đi phục vụ tại những nhiệm sở do chính đương sự chọn lựa.

Tôi chỉ xin ghi ở đây những nhận xét cá nhân về NT Vũ Văn Mẫu trên cương vị nhà lãnh đạo ngành Ngoại giao. Tôi tin chắc GS Mẫu còn được nhiều sự ngưỡng mộ của nhiều giới khác qua các lãnh vực đã mang nhiều dấu ấn của GS về Chính trị, Tôn giáo, Giáo dục, Pháp lý…

Dĩ nhiên giáo sư Vũ Văn Mẫu cũng không tránh khỏi những sự chỉ trích về vai trò của ông trong vụ Phật giáo cũng như về những ngày cuối cùng của miền Nam.

Khen hay chê là quyền của mỗi người được sống trong chế độ tự do, dân chủ và tùy theo cách nhìn và chỗ đứng của mình.

Riêng đối với kẻ viết bài này, Giáo sư Vũ văn Mẫu vẫn mãi mãi là nhà chính trị, ngoại giao tài ba, lỗi lạc, vị chỉ huy uy tín và khả kính.

Vĩnh biệt Giáo sư Vũ văn Mẫu.
Thu Mậu Dần , 1998

Kẻ Bị Khai Trừ


Trịnh Bình An
Nguyễn Mạnh Tường là một người nổi tiếng trong giới luật sư nói riêng, giới trí thức Việt Nam nói chung; nhưng vẫn có rất nhiều người không biết đến ông, trong đó có tôi.

Tôi không muốn mình phải đau lòng và bực tức thêm vì thấy một người học vị đầy mình lại đi theo cộng sản để rồi bị chính cộng sản đầy đọa.

Thế nhưng tay tôi vẫn lật qua mấy trang. Và một dòng chữ ập vào mắt tôi, đó là lời giới thiệu của chính Nguyễn Mạnh Tường, “Bản thảo của cuốn sách này đã được soạn và đánh máy trong một tình thế lén lút và bị cô lập…”

Một cuốn sách của một luật sư nổi tiếng bậc thầy, được viết trong hoàn cảnh hết sức khó khăn, vậy mà tôi, tôi chỉ bỏ ra ít thì giờ nhàn nhã để đọc, thế mà đã nhăn nhó hay sao?

Vâng tôi sẽ đọc, và tôi sẽ hỏi ông Tường cho ra ngô ra khoai, rằng tại sao ông là người giỏi giang cỡ ấy lại cắm đầu chui vào cái rọ Cộng Sản để bị chúng lợi dụng chán chê mê mỏi rồi vứt vào xọt rác không thương tiếc. Mấy năm trước, Đảng còn bày đặt mừng sinh nhật 100 tuổi (!) của ông nhưng thực chất chỉ muốn ra cái điều Đảng cũng biết sửa sai (1).

Nguyễn Mạnh Tường sinh năm 1909 tại phố Hàng Đào, Hà Nội. Ông theo học trường Albert Sarraut và đỗ tú tài năm 16 tuổi. Sau đó du học tại Đại Học Montpellier ở miền nam nước Pháp năm 1927. Khi mới 22 tuổi ông trở thành người Việt đầu tiên đỗ hai bằng tiến sĩ tại Pháp: Ưu hạng Luật khoa và Tiến sĩ Quốc gia Văn chương (ii).

Trở về Việt Nam năm 1936, Nguyễn Mạnh Tường dạy văn học Pháp ở trường Trung học Bảo hộ. Trong thời gian tham gia kháng chiến chống Pháp, ông làm luật sư, dạy học tại Thanh Hóa. Ông tham gia phái đoàn chính phủ dự Hội nghị Trừ bị Đà Lạt năm 1946, dự các Hội Nghị Hòa Bình Thế Giới ở Bắc Kinh và Wien năm 1952. Sau năm 1954, ông từng giữ những chức vụ quan trọng như trưởng khoa Đại Học Luật Hà Nội, phó chủ tịch Hội Luật Gia Việt Nam, chủ tịch Đoàn Luật Sư, phó trưởng khoa Đại Học Sư Phạm Hà Nội, thành viên Uỷ Ban Trung Ương Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, và sáng lập viên Câu Lạc Bộ Đoàn Kết.

Ngày 30 tháng 10 năm 1956, luật sư Nguyễn Mạnh Tường, với tư cách thành viên của Mặt Trận Tổ Quốc, đã đọc một bài diễn văn tại một cuộc họp của Mặt Trận Tổ Quốc ở Hà Nội, phân tích sâu sắc những sai lầm của Đảng và Nhà nước trong vụ “Cải Cách Ruộng Đất” và đề ra phương hướng để tránh mắc lại. Sau phát biểu này, ông bị tước hết mọi chức vụ và danh vị nghề nghiệp. Sau đó, ông và gia đình bị cô lập với xã hội chung quanh, bản thân ông không được làm bất cứ nghề gì để kiếm tiền. Gia đình ông đã sống lây lất trong nghèo đói trong nhiều năm dài nhờ vào tiền bán dần mọi thứ trong nhà và nhờ sự giúp đỡ dấu diếm của bạn bè, thân hữu.

Nguyễn Mạnh Tường mất ngày 13 tháng 6 năm 1997 tại Hà Nội, thọ 88 tuổi.

Kẻ bị khai trừ” được viết bằng tiếng Pháp – Un Excommunié. Hanoi: 1954-1991: Procès d'un intellectuel – do Nguyễn Quốc Vĩ dịch sang tiếng Việt, tựa là “Kẻ Bị Rút Phép Thông Công”. Thuật ngữ “rút phép thông công” hay “vạ tuyệt thông” nói tới một kỷ luật nặng nề nhất trong Giáo hội Thiên Chúa Giáo khi một người bị cho là đã phạm trọng tội nên sẽ bị khai trừ vĩnh viễn khỏi Giáo hội. Hiểu như thế thì ta sẽ thấy Nguyễn Mạnh Tường tự ví mình là một kẻ mắc tội trọng với Đảng Cộng Sản vì thế mà bị khai trừ vĩnh viễn khỏi xã hội.

Kẻ bị khai trừ”gồm có ba chương: 1– Đến đỉnh vinh quang. 2 – Mỏm đá Tarpeinne. 3 – Hành trình đi vào sa mạc. Ba chương này tương ứng với 3 đoạn đời của Nguyễn Mạnh Tường: 1 – Được cưng chiều (và bị lợi dụng). 2 – Phản kháng và bị “đấu tố”. 3 – Bị cô lập và đày đọa.

Một trong những điểm đặc biệt của “văn” Nguyễn Mạnh Tường là mang nhiều điển tích Tây phương. Nếu đọc truyện Kiều mà không biết các điển tích Trung Hoa, ta sẽ rất khó hiểu hết ý nghĩa gởi gắm trong câu thơ; với Kẻ Bị Khai Trừ cũng thế, nếu một người không biết các điển tích cổ của phương Tây thì sẽ khó hiểu được trọn vẹn ý tác giả.


Như chữ “Mỏm đá Tarpeinne”. Roche Tarpéienne – tiếng Pháp, hay, Tarpeian Rock– tiếng Anh, là một vực núi đá vách dựng đứng tại nước Ý. Thời cổ La Mã, những ai bị kết án giết người, phản bội, làm chứng dối, và những nô lệ phạm tội ăn cắp, sẽ bị xử tử bằng cách ném từ trên mỏm Tarpéienne xuống vực sâu. Đây là một hình phạt nặng nề hơn bị treo cổ hay đốt trên dàn lửa vì kẻ bị ném xuống vực – và gia đình họ – đã bị coi là những kẻ đồi bại, đáng nguyền rủa nhất trong xã hội.

Khi hiểu được ý nghĩa của “Mỏm đá Tarpeinne” ta mới phần nào hình dung được cái bản án Đảng dành cho luật sư Nguyễn Mạnh Tường – người dám nghi ngờ sự lãnh đạo “anh minh” của Đảng. Thật ra Đảng đã sai lầm ngay từ đầu khi tưởng rằng có thể mua chuộc được Nguyễn Mạnh Tường bằng những thủ đoạn mua chuộc vuốt ve từng tỏ ra rất thành công với nhiều người khác.

Năm 1956, Hiệp Hội Luật Gia Dân Chủ triệu tập đại hội tại thủ đô Bruxelles của Bỉ, nhà cầm quyền Bắc Việt tổ chức một đoàn đại diện đi tuyên truyền cho chính nghĩa của mình. Trong cương vị phó chủ tịch Hội Luật Gia Việt Nam, Nguyễn Mạnh Tường được giao làm trưởng đoàn với nhiệm vụ là làm sao được hội nghị đưa ra nghị quyết ủng hộ dân tôc, quyền đấu tranh thống nhất đất nước. Luật sư Tường đã đọc một bản tham luận sắc bén, cháy bỏng lòng yêu nước và đã thuyết phục được hội nghị, đạt được thành quả mỹ mãn.

Thế nhưng cố gắng của Nguyễn Mạnh Tường không hề để phục vụ cho Đảng, ông chỉ làm vì lòng yêu nước, vì muốn đất nước được thống nhất để tránh một cuộc chiến nồi da xáo thịt. Còn mỗi khi có dịp, ông sẵn sàng phân tích những sự thật rung rợn về chế độ Cộng Sản. Như khi ghé thủ đô Prague, gặp các luật gia Tiệp Khắc, ông mô tả bản chất của chế độ này trong một câu ngắn nhưng trọn vẹn:

Đây là một chế độ chuyên chế ở ba chiều không gian, một chế độ chuyên quyền gần như tuyệt đối, gian xảo nhất, cứng rắn nhất trên thế giới và trong lịch sử nhân loại. Dưới một chế độ như thế, quyền tự do là một lầm lẫn, một loại bệnh hoạn cần phải loại bỏ trong dân chúng. Vì vậy, không có bất cứ ngành nghề nào là nghề tự do.”

Nguyễn Mạnh Tường còn cảnh báo các đồng nghiệp biết rằng, trong các ngành nghề, Đảng ghét nhất là giới luật gia:

Nếu Đảng áp dụng biện pháp khắt khe trên giới luật gia, trước hết vì họ là người trí thức và là đối tượng ghét hận của những kẻ chuyên quyền, vì luật gia là người có cái đầu để suy nghĩ và có cái miệng để nói, hai thuộc tính gây ác cảm nơi kẻ cầm quyền, làm phức tạp cho công việc và gây xáo trộn cho kế hoạch của họ. Hơn nữa, trong hàng ngũ trí thức, giới luật gia càng nổi trội với kiến thức về Luật, thông thạo, thường nắm vững các hội nghị, các cuộc phê bình, và hơn nữa, họ còn có ý thức về tư cách, danh dự và trách nhiệm. Họ tự mình đặt vào thế tương phản với con người máy khúm núm nịnh bợ những kẻ chuyên quyền.”

Điều Nguyễn Mạnh Tường nói quả không sai. Gần đây, giới luật sư là những người lên tiếng phản kháng mạnh mẽ nhất để chống lại những hành vi sai trái của Đảng. Các luật sự này được đào tạo dưới mái trường Xã Hội Chủ Nghĩa và không hề dính dáng tới chế độ “ngụy”, vậy mà họ vẫn ương ngạnh làm “phức tạp và xáo trộn” những kế hoạch do Đảng đề ra; đó là những Nguyễn Văn Đài, Lê Thị Công Nhân, Cù Huy Hà Vũ, Lê Trần Luật, Huỳnh Văn Đông, Lê Công Định, Trần Quốc Hiền,…

Rồi tới khi ghé qua Liên Xô, cái nôi của chủ nghĩa Cộng Sản, Nguyễn Mạnh Tường cũng gặp gỡ và trò chuyện với các luật gia nước này. Ông bảo thẳng với bạn rằng Đảng CS sẽ tự chuốc lấy kết quả bi thảm:

Bi thảm là ở chỗ chính Đảng đã tự lừa dối, nghĩ rằng mình có thể đưa ra những đường lối chính trị trẻ con phát xuất từ bệnh ấu trĩ, duy ý chí, chủ quan, vi phạm những định luật của khoa học, quay lưng lại với thực tiễn, những chính sách này sớm hay muộn cũng sẽ đưa đất nước vào sự nghèo túng và đưa nhân dân vào sự đau khổ. Bên cạnh đó, với niềm tin cho rằng mình là vô địch, Đảng nghĩ rằng mình có thể áp chế nhân dân, chơi đùa trên sinh mạng của họ, buông lơi pháp luật, hành động với sự tàn ác vô nhân tính như đã xảy ra trong đợt Cải Cách Ruộng Đất, một kỷ niệm đau buồn không bao giờ quên được trong tâm khảm của người dân.”

Điều Nguyễn Mạnh Tường nói cũng đã thành sự thật, chế độ Cộng Sản đã đưa mọi quốc gia đến chỗ tận cùng lụn bại, để rồi Nga và các nước Đông Âu đã tìm mọi cách gỡ bỏ cái chủ nghĩa ma quái ấy để tự cứu lấy chính mình.

Nếu như Nguyễn Mạnh Tường không kể lại những điều trên thì tới ngày nay người ta vẫn tưởng rằng ông Tường đã bị mờ mắt, bùi tai vì những chức tước và lời ca tụng của “Bác và Đảng” đã dành cho ông. Đảng nhìn lầm ông Tường chỉ vì họ tưởng ông cũng là loại như họ. Sự thật, Nguyễn Mạnh Tường là một người khác hẳn với họ, ông là người có học, có trí tuệ, và nhất là, có trái tim; vì thế ông không thể im lặng khi thấy đồng bào ông quằn quại dưới những nhát chém đẫm máu của cái-gọi-là Cải Cách Ruộng Đất.

Ngày 30 tháng 10 năm 1956, luật sư Nguyễn Mạnh Tường tại một cuộc họp của Mặt Trận Tổ Quốc ở Hà Nội đã đọc bài diễn văn có tựa đề “Qua những sai lầm trong Cải Cách Ruộng Đất – Xây dựng quan điểm lãnh đạo”.

Trong đó, Nguyễn Mạnh Tường chỉ rõ mọi tầng lớp nông dân, công nhân, tiểu thương, kể cả các cán bộ, đều phải chịu đau đớn cơ cực vì các cuộc đấu tố, xử giảo man rợ trong Cải Cách Ruộng Đất. Ông tin rằng pháp luật chân chính là phải theo nguyên tắc: “Thà 10 địch sót còn hơn 1 người bị kết án oan”. Cuối cùng, ông đề nghị phải xây dựng một chế độ pháp trị chân chính, thực sự dân chủ trong đó các cán bộ Đảng phải chiu trách nhiệm với việc mình làm, và mọi người dân được quyền lên tiếng.

Hẳn không quá khó cho chúng ta biết Đảng đã làm gì với những đề nghị ấy. Cho tới tận ngày nay, Đảng vẫn ôm quan điểm “Thà chết 10 người oan còn hơn để sót 1 địch”vì đó là sức mạnh cốt lõi của chế độ. Kết quả, Đảng ném những đề nghị của ông Tường vào sọt rác và ném cái người dám nói những lời lẽ “phản động” ấy xuống vực Tarpéienne bằng cách đưa Nguyễn Mạnh Tường ra kiểm điểm công khai hòng bêu xấu ông, hạ gục ông trước mặt mọi người.

Nhưng kết quả lại hoàn toàn trái ngược, đám đông đứng nghe như nuốt từng lời của vị lưỡng quốc luật sư tài giỏi và can trường. Đó là điều cực kỳ nguy hiểm cho sự tồn vong của chế độ. Cuối cùng, để trả thù nhưng không muốn đánh động dư luận, Đảng thi hành cái kế hèn hạ nhất, độc địa nhất mà chỉ có họ mới đủ ác để nghĩ ra: cho Nguyễn Mạnh Tường và gia đình được sống, nhưng đó là cái sống tệ hơn cái chết gấp trăm lần, cái sống mà không ai dám đến gần như thể họ là những kẻ cùi hủi, cái sống mà thân xác lúc nào cũng quằn quại đớn đau vì… đói.

Tới đây, hẳn có người sẽ bảo ông Tường biết Cộng Sản nó gian nó ác, nó ngu dốt, nó cứng đầu mà còn muốn sửa sai nó, thế thì tự chuốc họa vào thân là đúng rồi.

Tôi cũng đã từng nghĩ như thế, nhưng sau khi đọc những điều ông viết tôi chợt nhận ra rằng Nguyễn Mạnh Tường là một người có những khả năng kỳ lạ, một trong những khả năng ấy là ông có thể tự tách mình ra khỏi chính mình để quay lại nhìn mình. Trong ông là 2 con người: một người bình thường biết sợ, biết đau, biết đói, nhưng người kia lại rất bình thản, ung dung để có thể ngắm nghía và ghi nhận mọi sự kiện, ngay cả nỗi đau đớn của chính mình. Ta hãy xem thái độ của Nguyễn Mạnh Tường trước một buổi “kiểm điểm – xử án” mà ông gọi là màn “đấu bò” mà ông là chính con bò bị đẩy ra giữa đấu trường:

Cho đến hôm nay tôi đã phải trải qua những thử thách không ai có thể nghĩ tới. Trong tình thế đó, tôi có thể lượng sức chịu đựng của mịnh và sự tò mò đã giúp tôi vượt qua nỗi ức chế. Bất chấp các “đồng sự” đang lay động tấm vải đỏ trước mắt, chính tôi là kẻ tấn công!”

Chính nhờ khả năng “tách mình làm đôi” ấy nên trong những lúc cùng quẫn nhất, ông vẫn tìm ra lối thoát cho mình; dù phải một mình đối đầu với kẻ địch to lớn nhất, ông vẫn giữ vẹn con người của mình.

Và ngày nay, đối diện với người Cộng Sản, người ta phải sống với thái độ nào để giữ được con người thực và chân chính của mình?

Tôi, tôi tự thu mình vào cuộc sống nội tâm, bày biện và vui với nó. Phải tách góc nhà đó (nội tâm) khỏi cộng đồng vợ chồng, kể cả con cái, kể cả người dưng. Từ đài quan sát đó, nơi mà mình tự quan sát lấy mình, chúng ta có thể làm khán giả nhìn cuộc đời người khác để rồi tự đánh giá và điều chỉnh bản thân.”

Cái mà Nguyễn Mạnh Tường gọi là “sự tò mò” phải chăng là cái cốt lõi nhất của một người làm khoa học, đó là lòng muốn biết, biết tới cái tận cùng của sự việc. Sự hiểu biết của nhà khoa học còn phải được chứng thực bằng thử nghiệm, do đó, nếu Nguyễn Mạnh Tường không thử hết các cách có thể làm được thì hẳn ông sẽ không thể cam lòng. Vì thế dù biết Đảng ghét và sợ bị phê bình và sẵn sàng khủng bố kẻ nào dám phê bình thì Nguyễn Mạnh Tường cũng vẫn phải thử.

Nhiều người sống dưới chế độ Cộng Sản không dám thử kiểu ông Tường nên họ được sống yên tới già tới chết theo cái kiểu của Nguyễn Tuân “Tôi tồn tại được vì tôi biết sợ”. Nhưng, nghĩ lại mà coi, Nguyễn Mạnh Tường vẫn “tồn tại” tới cái tuổi cổ lai hy đó thôi. Cuối cùng, Đảng chẳng giết nổi ông. Nguyễn Mạnh Tường vẫn sống nhờ có sự giúp đỡ của những người chung quanh.

Và khi chúng tôi cạn kiệt tiền bạc thì tấm lòng hào hiệp của các người bạn ở trong nước hay ở nước ngoài ném cho những chiếc phao cứu hộ giúp chúng tôi nổi trên mặt nước thay vì phải chìm đến tận đáy sâu của hư không (…) Họ là những kẻ không tên, không biết mặt nhưng không thiếu thận trọng đã sáng tạo ra nhiều phương cách tài tình chế nhạo những kẻ cầm quyền trên thế giới, bất kể cái hung tàn đần độn và cái cảnh giác gay gắt của chúng. Họ đã chung tay làm nên một mặt trận không chính thức nhưng năng động, mặt trận của lòng trắc ẩn và sự tử tế, đưa bàn tay cứu giúp đến các nạn nhân của độc tài khát máu.”

Hoặc nhờ những tấm lòng của người chung quanh, hoặc vì chính tấm lòng của Nguyễn Mạnh Tường quá lớn, hoặc vì cả hai, nên dù phải chịu sự tra tấn ác độc của kẻ thù, ông vẫn không hề đem lòng oán hận.

Tất cả kẻ thù của chủ nghĩa Cộng Sản đang chờ tôi trút cơn giận điên người lên chủ nghĩa Cộng Sản mà tôi là nạn nhân. Nhưng xin mọi người hãy tha thứ cho tôi: tôi chọn thái độ của một triết gia: chỉ tìm hiểu chứ không xử án. Hiểu biết đòi hỏi mình phải tìm hiểu dưới mọi khía cạnh và dưới hai phía: mặt ưu và mặt khuyết, mặt trái và mặt phải của trang giấy, sự tốt và sự xấu. Nó sẽ dẫn đến sự công bằng, và người trí thức chỉ muốn điều đúng đắn.”

Tất cả những điều Nguyễn Mạnh Tường viết về chủ nghĩa Cộng Sản, về Đảng Cộng Sản không là sự trả thù, đó chỉ là sự chiến đấu của một trí thức chống lại cái ngu, cái ác.

Cuộc chiến đấu của trí thức chống lại thứ độc tài mù quáng và vô nhân đạo bởi kẻ độc tài đã ra tay đày đọa người trí thức. Một trí thức, với cái liêm chính của con người và cái minh mẫn của tinh thần, là người lính chống lại kẻ áp chế chuyên lặp đi lặp lại các lời hứa hão huyền và sự bất lực đã phải cầu cứu đến sức mạnh của công an để giữ vững ngai vàng.”

Cái đày đọa Nguyễn Mạnh Tường nhất, thật ra, không phải là cái khổ, cái đói, mà là ông không còn cơ hội truyền đạt kiến thức của mình cho các thế hệ đàn em. Đảng không chỉ tước đoạt quyền làm người, Đảng còn xé nát cả mơ ước được xây dựng đất nước của một người. Nhưng Đảng không toàn thắng như Đảng thường rêu rao, Đảng thua vì Nguyễn Mạnh Tường không chịu thua. Hơn 20 năm bị cô lập trong đói khổ, Nguyễn Mạnh Tường không ngừng viết. Ông đã để lại cho đời nhiều tác phẩm như một hiến dâng cho đất nước và dân tộc.(2)

Vậy là, qua từng trang giấy, lần lượt Nguyễn Mạnh Tường đã trả lời đầy đủ cho tôi mọi câu hỏi. Nguyễn Mạnh Tường không ngu, cũng không dại, ông biết kẻ thù là ai, ông cũng biết số phận của mình rồi sẽ như thế nào. Sở dĩ Nguyễn Mạnh Tường làm những điều ông đã làm vì Nguyễn Mạnh Tường thà chọn cái khổ, cái chết hơn cái nhục, và cái nhục ở đây không là do kẻ khác gán lên mình, cái nhục nhã nhất là làm trái với lương tâm và rồi mình sẽ phải tự khinh bỉ chính mình. Nguyễn Mạnh Tường thà làm kẻ bị Đảng khai trừ nhưng không thể làm kẻ bị lương tâm nguyền rủa.

Có thể xem “Kẻ bị khai trừ” là một tự truyện đau đớn và bi thảm của một con người yêu nước, tài hoa, nhưng bất hạnh; nhưng cũng có thể xem “Kẻ bị khai trừ”là một trường ca hào hùng của con người không khuất phục trước cái Ác, để rồi trong tận cùng đau khổ, người đó đã tìm ra chân lý đích thực cho chính mình.

Từ 1958 tới nay, gần bốn mươi năm hiện hữu, tôi đã sống qua những thử thách tồi tệ nhất mà người ta có thể gán cho một trí thức, một con người. Đó lại là những năm tuyệt vời mà tôi biết được. Tôi như được thăng hoa, sung sướng là đã thắng mọi nghịch cảnh mà người ta đưa ra để chặn đường sống của tôi, đã thể hiện cách sinh hoạt của mình hướng theo sở thích, theo chọn lựa và cống hiến khả năng khiêm nhường cho dân tộc. Ý chí của tôi đã thắng tâm địa độc ác, đồi bại của những kẻ thề hạ gục tôi. Nhưng tôi vẫn tha thứ cho họ bằng cách lặp lại câu nói bất hủ: “Chúng không biết chúng đang làm gì!”. Người ta sẽ quên đi Cinna, và sẽ nhớ mãi August với lòng khoan dung quảng đại” (3)

© DCVOnline, http://dcvonline.net/modules.php?name=News&file=article&sid=9001

(i) Bản dịch sang tiếng Việt của Nguyễn Quốc Vĩ cuốn Un Excommunié. Hanoi: 1954-1991: Procès d'un intellectuel của Nguyễn Mạnh Tường đăng nhiều kỳ trên tạp chí Thông Luận với tựa đề Kẻ bị rút phép thông công. Hà Nội 1954-1991: Bản án cho một trí thức



Lời người dịchCuốn tự truyện Kẻ bị rút phép thông công được cụ Nguyễn Mạnh Tường hoàn tất năm 1991 viết bằng tiếng Pháp, được dịch ra tiếng Anh năm 2008(*).

[…]
Người dịch: Nguyễn Quốc Vĩ

Paris ngày 23 tháng 11 năm 2009

© Thông Luận 2009

(*) Bản dịch tiếng Anh của Gs. Phó Bá Long hoàn tất năm 2008, nhưng hiện chưa ấn hành và phổ biến rộng.

(ii) - Nguyen Manh Tuong, L'Annam dans la littérature française. Jules Boissière (1863-1897). Thèse complémentaire pour le doctorat ès lettres. Université de Montpellier. Faculté des lettres. Impr. de Mari Lavit, 1932 - 226 pages.

- Nguyen Manh Tuong, L'Individu dans la vieille cité Annamite. Thèse pour le doctorat en droit. Université de Montpellier. [The Individual in the Old Annamese Society. (Trad. RAF.)] Édition: Montpellier: Impr. de la Presse, 1932 - 411 pages.

(iii) Nguồn của tất cả các trích dẫn về/của Nguyễn Mạnh Tường (trong block quote) trong bài đều trong cuốn Kẻ bị khai trừ. (Tiếng Quê Hương, 2011).



Chú thích của tác giả

(1). Như trong bài “Kỷ niệm về thầy Nguyễn Mạnh Tường”của Nguyễn Văn Hoàn (2009) nhân sinh nhật 100 năm (!?) của Nguyễn Mạnh Tường, đã cố tình lờ đi nhừng cuộc luân phiên đấu tố và những năm tháng bị bỏ đói mà ông đã phải chịu đựng, thay vào đó chỉ là câu trả lời phỏng vấn của Nguyễn Mạnh Tường “Đi Hội nghị về, Nguyễn Hữu Đang đến phỏng vấn, rồi viết bài đăng lên báo Nhân văn. Tôi như thành một người “phạm pháp quả tang”, bị sa thải khỏi Đại học và không được hành nghề Luật sư nữa.”

(2). Nguyễn Mạnh Tường để lại khoảng hơn 20 tác phẩm như: Nền tảng Pháp, Kinh nghiệm Địa Trung Hải, Kinh nghiệm và nước mắt tuổi trẻ, Những chủ thuyết về Giáo Dục của Âu Châu từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII, Eschyle và bi kich của Hy Lạp, Bản dịch tiếng việt của tác phẩm Oresteia của Eschyle, với một chương nghiên cứu dùng như lời giới thiệu, Virgile và sử thi Hy Lạp, Tình yêu vợ chồng dưới chế độ cộng sản, Bi kịch di dân, Tiểu thuyết về Việt Nam 1950-1990, v.v. Một số viết bằng tiếng Pháp chưa được dịch và in ra tiếng Việt.

(3). - Câu “Chúng không biết chúng đang làm gì!” là viết tắt của câu “Lạy Cha, xin tha tội cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm”, là lời khấn nguyện của Đức Jesus khi Người đang chịu nạn trên thập giá (Phúc âm Lu-ca 23: 34).



- Cinna và August là hai nhân vật trong vở kịch Cinna ou la Clémence d'Auguste (Cinna, hay sự ân xá của đại đế Augustus). Cinna nghe lời người yêu là Émilie nên rắp tâm mưu sát vua để trả thù cho cha của Émilie bị vua giết tội. Mặc dấu mưu đồ bị lộ, Cinna và Émilie không bị trị tội mà được vua August ân xá và ban chức tước.

Tưởng Niệm



GIÁO SƯ VŨ KHẮC KHOAN
Trần Lam Giang, CVA 59

Hôm nay, ngôi trên đất Mỹ, viết bài tưởng niệm 49 ngày thầy Vũ Khắc Khoan, hình ảnh ngôi trường xưa, mầu hoa điệp, sắc tươi phượng vĩ, Sài Gòn, Hà Nội làm tôi thấy rờn rợn da gà…Ba mươi năm. Một thế hệ. Chưa nên chuyện gì.

Năm 1956-

Ông bước vào dậy lớp tôi. Lồng lộng mái tóc. Vững vàng bước đi. Nét mặt nghiêm buồn, nhưng không dữ. Ông dậy chúng tôi môn Việt Văn. Giờ đầu, ông nói về chương trình học, một chương trình lộn xộn, thiếu hụt những điều cần và thưàa thãi những điều kiên không cần do những người dốt Việt Văn, kém văn học ở bộ Quốc Gia Giáo Dục hồi đó soan ra. Dù vậy, thày trò vẫn điềm đạm làm việc cho đến hết năm học. Đó là đề nghị của ông đối với những thiếu niên 15, 17 tuổi ở lớp Đệ Tam.

Chúng tôi nghe và đồng ý.

Ông cũng khuyên thanh niên phải khỏe. Ông chê lớp chúng tôi èo oặt qúa, không có những cánh tay rắn chắc, những cái vai nở nang, làm sao xông pha ghánh vác việc đời mai sau. Ông vừa dứt lời thì mười mấy cánh tay, áo xắn lên và cả lớp cười ồ. Ông không cười. Đứng lên quan sát từng cánh tay ấy, rồi gật đầu:

-Tay các anh được, tuổi trẻ phải vậy.

Cả năm tôi học Đệ Tam, không khí trầm và ấm mỗi giờ việt Văn. Tình thày trò, tình bạn bè, theo dòng thời gian trưởng lớn mãi lên với cuộc đời, với cõi long, sâu thẳm hơn mãi.

Cái biến cố lịch sử 1954 còn chưa nguôi và không bao giờ nguôi khi giặc còn đó. Những người chập chững đi vào tuổi thanh niên thời ấy, tình non nước, hồn lịch sử như ngọc lửa nung nấu tâm can. Những bài giảng của ông, do đó cũng dễ nhớ, khó quên.

Năm 1956, lớp 3B4, lầu 2 trường Chu Văn An, hai hang cửa sổ lớn mở tung hai bên, bong điệp miền Nam tím hồng làm xao xuyến những kỷ niệm còn ôm chặt tình cảm với sắc đỏ tươi của hoa phương vĩ nơi nghìn năm vạn vật Thăng Long…Hồ Gươm nước biếc, Tây Hồ sóng bạc mênh mang…Lá bàng đỏ tía đổ xuống vệ đường vào trường Chu Văn An cửa Bắc Hà Nội, một trời yêu dấu không nguôi. Mỗi lần tưởng tiếc là mỗi lần xao xuyến. Hoa điệp mới quen, dễ yêu nhưng chưa đằm thắm tình tự học trò…xao xuyến thì trốn học, năm ba đầu xanh rủ nhau chia xẻ nỗi nhớ quê hương…Cái tình tự buồn nhớ của đám thiếu niên học trò trong hoàn cảnh đất nước chia đôi ba mươi năm trước được các thày chia sẻ. Có ai chia sẻ và nâng đỡ tình cảm thiếu niên 11 năm nay trong cảnh mất nước, sống đời lưu ly? Những vấn đề thuộc phạm trù tâm lý và đạo đức xã hội cũng như gia đình, rất phức tạp và đa diện, cần phải được mổ xẻ kỹ càng và hệ thống đứng đắn. Mười một năm chưa được khởi nguyên. Ba mươi năm trước đây, các vị thầy chúng ta đã làm việc ấy cho chúng ta, tôi muốn nói những vị thầy thương yêu tuổi trẻ như thương yêu tương lai của đời mình, trong đó có thầy Vũ Khắc Khoan. Còn những thầy bán chữ thì nói làm gì ở đây!

Ban B, môn Toán là quan trọng nhất trong chương trình học. Chúng tôi thường bỏ giờ Toán, giờ Vật Lý cũng thế. Lý do rất đơn gian và minh bạch là an hem chúng tôi đã “làm thịt” gọn gang các ông Le Bossé, Gimbal. George Eve thì còn nghe giảng bài trong lớp làm chi. Chỉ cần có mặt trong giờ làm bài hoặc giờ thi để lấy điểm vào Thông Tín Bạ mà thôi. Các giáo sư thong cảm. Các thầy giám thị thong cảm. Các thầy thông cảm và xót xa lũ đầu xanh thong minh đang giao động tâm hồn vì biến cố Genève. Các thầy không coi chúng tôi là ngỗ nghịch, là kiêu căng, là hư đốn, cho dù chúng tôi, trên một khía cạnh nào đó…có hư đốn hơi sớm…Vậy mà không ai bỏ giờ Việt Văn, không phải vì ông khe khắt, mà ngại vì ông không khắt khe. Ông không điểm danh bao giờ. Ông cho tự do ra khỏi lớp, nếu thích ra. Chúng tôi không bỏ học giờ ông, vì trong giờ ấy, tuổi thiếu niên mơ hố như gặt hái được chút gì giá trị. Biết thêm chút sắc thái dân tộc, biết thêm chút gì giá trị, biết thêm chút hình thành sân khấu qua truyện Trinh Thử của Hồ Thuyền Quy đời Trần chẳng hạn, cũng lý thú lắm.

Năm 1958-

Ông trở lại với chúng tôi ở lớp IB3 với môn Sử. Học Sử, theo ông, không phải nhằm mục đích thuộc năm tháng và nhớ dữ kiện. Học Sử để hiểu tinh thần lịch sử và để đóng góp than thế vào lịch sử. Năm nay mái tóc bồng bềnh của ông đã hơi điểm bạc. Ông nhìn học sinh lớp Đệ Nhất (lớp 12) như những bạn trẻ.

Ông bàn luận với chúng tôi một số vấn đề lịch sử…đàn chim non này đang sửa soạn dấn thân bay vào cuộc đời, xây dựng, đóng góp. Và biết đâu trong những cơn đau đớn, thất bại, chúng tôi cần lịch sử để tựa lưng, để đi về như nơi nương náu ấm cúng của tinh thần.

Hai bên cửa sổ, hàng cây điệp hang năm vẫn trổ bong tím hồng. Mầu phượng vĩ đỏ tươi của quê hương miền Bắc vẫn xao xuyến cõi long lớp học sinh di cư. Và xao xuyến thì vẫn trốn học, dù là năm thi…Sau này tôi có làm nghề giáo một cách “giáo mác”, với mấy môn Triết, Việt. Khi ấy, mới thấy rằng các thầy tôi thực đáng tư cách bậc thầy và các em học trò tôi, đứa nào cũng ngoan và khá hơn chúng tôi.

Từ sau niên học 58-59, chúng tôi thường gặp ông ở cuộc đời. THần trò cùng đi trong xã hội Việt Namngập ngựa đau thương, nhục nhã…Ai đóng góp gì cho quê hương mà kể công là thô bỉ cũng như ai phụng dưỡng cha mẹ mà kể công là bất hiếu. Tưởng văn học, nghệ thuật cũng vậy.

Ông thầy “không biết cười” của chúng tôi đã đem tâm tình dậy khi chúng tôi là thiếu niên, đem tâm tình bàn luận khi chúng tôi là thanh niên. Ông viết văn soạn kịch nhưng hơn 30 năm, chưa từng nghe ông dèm pha, chê bai, bài xíxh đồng nghiệp. Ông chỉ không dung thứ có một thừ: Việt gian, mà chắc chăn không một người Việt Nam chân chính nào tha thứ, còn văn hay, văn dở gì ông cũng tìm được cái đẹp ở trong để yêu hết.

Những sinh hoạt trong giai đoạn tuổi thanh niên của chúng tôi, ông thường khi ghé qua. Ghé qua không để xúi dục hay phê bình. Với ông, tấm long thanh niên tự nó đã đẹp rồi, dù cho có khác ý ông. Ông ghé qua để thăm học trò cũ bắt đầu khôn lớn. Mái tóc hang năm trắng them, bồng bềnh đẹp đẽ như hòa hợp với khuôn mặt trầm ngâm, từ tốn, ấm cúng và qủa quyết.

Mười mấy năm trời lớn khôn, mười mấy năm trời chúng tôi vần xoay ở miền Nam quê hương…từng cơn gió lốc, từng trận mưa sa, ông vẫn ân cần thăm nom học trò cũ.

Mùa khói lửa đốt quê hương, đốt đồng bào, đốt núi đồi, đốt ruộng nương, đốt cả trời xanh. Các học trò ông tung cách khắp bốn vùng non nước, khắp các ngành. Hàng ngày và hàng đêm. Nối tiếp không dứt và không nguôi. Kẻ bừng bừng, kẻ quặn đau, kẻ âm ỉ, kẻ xương thịt tan tành.Còn ai nhắc nhở, con ai nhớ ai, còn ai quên ai trong cái trường Xuân Thu ấy? Và nơi ông , một khúc ruột, một người con trai tuấn tú đã hy sinh vì nước giữa tuổi thanh niên.

Năm 1970-

Tôi được giải ngũ! Trở lại hành nghề dậy học. Các bạn tôi, các thày tôi đều cho đó là “may mắn”! Lòng tê tái trong cái may mắn ấy. Dù sao cũng là may mắn! Sang lại ngôi trường của Hội Cựu Giáo Sư Chu Văn An, trường trung học Trí Đức, tọa lạc tại 55 đường cao Thắng Sài Gòn. Các thầy củ tôi mở ngôi trường này đã hơn 10 năm, ế ẩm vì không quảng cáo. Các bậc thày gìa quan niệm rằng mở trương dậy học mà phải quảng cáo là một điều đáng xấu hổ. Ngôi trường ấy, tôi về trở nên ấm cúng với chúng tôi. Bạn bè mỗi người ít giờ dẫn dắt các mái đầu xanh. Chúng tôi đã qua đi mất tuổi hoa niên. Non nước vẫn tan tành…Vẫn con đường ấy, nối tiếp và nối tiếp trải từng thế hệ. quả quyết máu xương. Học lịch sử để góp công làm lịch sử. Bây giờ đi dậy, vẫn chưa giúp được chút gì. Thẹn thùng cùng thế hệ trước, thẹn thùng với thế hệ sau. Dù ai cũng sẵn sàng vì nước, không tiếc đời mình nhưng biết bao hy sinh than thế mà vẫn chưa làm được gì cho đất nước mới đau long…Trong giai đoạn này, thỉnh thoảng ông đến tham tôi vào buổi tối. Trầm mặc hơn và tóc ông không còn dầy như trước. Vẫn bồng bềnh như áng mây bạcnổi trôi. Giọng nói ông vẫn ấm áp và nhẹ nhàng. Không một nụ cười. Những đêm Sài Gòn hiu hiu lạnh trong giờ giới nghiêm vắng ngắt, niềm tin một tương lai hạnh phúc sang ngập cả quê hương, ngập cả núi rừng, ngập khắp ruộng nương còn nắng ấm trong long. Văn học, lịch sử và cả nghệ thuật nữa; tràn đầy sức sống, tràn đầy nghĩa nước tình nhà…Thấy rõ rang quê hương sẽ tươi trở lại, đồng bào sẽ vui trở lại trong tinh yêu nhau. Có những đêm khói mờ! Có những đêm sao sáng!...

Năm 1975-

Một trời mây chó mơ màng!

Tôi tỵ nạn! Ông cũng tỵ nạn. Tôi đến trại, ông đã xuất trại. Được tin ông bình an, tôi mừngtrong niềm đau rách nát. Được biết ông có dựng lại vở kịch Thành Cát Tư Hãn trong trại. Tôi nghe một thoáng vui giữa biển trời tê tái.

Năm 1978-

Đặng Đình Khiết tổ chức đại hội thanh niên Phật Tử tại Oklahoma. Tôi có đến tham dự và gặp ông ở đây. Thầy tôi đã trở thành một ông già đúng nghĩa của mầu tóc. Nhưng hai vai ông vẫn đầy đặn và rộng thênh mầu da muôn đời bánh mật. Thày đến hoà hợp với đám thanh niên lưu lạc trên đất lạ. Học trò cũ của thầy quy tụ dăm ba: Lê Mộng Hoan cập kè chai rượu, Nguyễn Thanh Hùng, tay xáxh nách mang một túi ngàn bản dân ca, Nguyễn Thượng Hiệp suy tư cách thế trồng người dựng nước…Có mấy lần vị thày tu thuyết giảng đạo pháp sắc không với lẽ ra vào thế tục.

Một đêm uống rượu ngâm thơ tại nhà Phạm Quân, người hung ngã ngựa. Thời gian xoáy qúa nhanh. Thật không ngờ, anh Quân già nua qúa vội! Chị Quân trước ngày mất nước còn đẹp như bong hồng Ngọc Hà mà bây giờ mắt trũng, tóc hoa. Tôi nắm chặt hai vai chị nhìn sâu vào đáy mắt chị cố tìm một chút ngày xưa còn sót lại. Chị cười, lắc đầu cảm thong. Khi ấy, ông cũng từ từ bước vào, cặp mắt ông vốn to mở them to, to hết cỡ, nhìn vợ chồng Phạm Quân và ông cũng lắc đầu:

-Già mau thế!

Năm 1978- Vào mùa đông, ông đến San Jose ở nhà chị Gấm, con gái ông, để tránh cái lạnh Minnesota. Ông gọi tôi lại và muốn tôi đem cả vợ con lại cho ông xem. Chúng tôi đến, đứng xếp hang chào ông bà. Ông nhìn lũ con tôi lưỡng lự, rồi nắm chặt vai tôi cười:

-Được lắm.

Nụ cười của ông làm tđau xót trong long. Tôi nghĩ trong đầu: Khi mối căm hận đã mở, miệng đã cười là thấy đã già đau thương lắm rồi. Tôi hỏi ông:

-Bây giờ thầy cười? Bao nhiêu năm con chưa thếy thày cười.

Ông lại cười:

-Ờ! Mà phải cười chứ nhỉ!

Giọng ông thật nhẹ nhõm.

Từ đó, mỗi năm tôi gặp ông chừng ba, bốn lần.

Năm nay, ông hẹn sang San Jose chơi vào dịp hè. Mùa hè ông đău. Đình lại mùa thu. Mùa thu ông cũng đau. Chừng một tháng trước khi mất, tôi gọi điện thoại thăm ông. Thầy tôi giọng nói yếy và mệt. Tuần sau đó, tôi lại gọi thăm thầy, giọng nói ông trong ấm. Tôi nghĩ trong đầu: ông còn thọ lắm, giọng ông rất tốt. Ông hẹn sẽ sang San Jose ở chừng vài tháng.

Một buổi tối, Tường Vũ Anh Thy lại tôi chơi, anh nói mới gọi điện thoại thăm cụ Khoan. Giọng cụ yếy lắm. Mấy ngày sau, Đặng Đình Khiết gọi tôi, báo tin cụ mất…

Chim đã bay mất vào chân trời. Đường chim bay hiện hữu mà không dấu vết.

Phương Tây, mặt trời lặn mỗi hoàng hôn. Thích Ca, Lão Đam đi về phương Tây, có chăng cố đuổi theo bong mặt trời cho ngày dài them ra, cho đời sống dài them ra?

Lẽ sinh tử! Mối sầu vạn cổ của nghệ sĩ phương Đông. Đã đành rằng sống gửi, chết về, nhưng còn ghét yêu nối kết với dương gian! Nối kết bằng nghiệp dĩ văn chương cũng là một giá trị đẹp và có ý nghĩa.

Trong những năm cuối ở cuộc đời, ông đã nhiều lần nói với tôi về Ngọn Cỏ Bồng của Nguyễn Bá Trạc. Lần nào gặp tôi, ông cũng gửi lời hỏi thăm anh, gửi lời cám ơn anh về tác phẩm mà anh đã tặng ông:

- Anh biết không, trời lạnh Minnesota, đọc “Ngọn cỏ bồng” của anh Trạc, thú lắm. Anh ấy viết thật lắm. Thật với lòng người. Với tôi đây là tác phẩm lý thú nhất trong 10 năm tỵ nạn. Giang cảm ơn anh Trạc hộ tôi nhé…Lại một món nợ văn chương…

“Hỡi ơi! Ta vỡ long trong mốc bụi dĩ vãng, nhớn lên cùng tập giấy mủn, nhìn thế cuộc xoay vần bằng con mắt cổ nhân. Nay lại định giải quyết hiện tại bằng phương pháp qúa khứ! Còn vỗ ngực trách ai nữa!

THế rồi một cuộc phần thư, tưởng để đốt tan tất cả qúa khứ hà ngôn! Nào dè lại hiện lên một hình bong lịch sử diễm kiều.

Lại sống với lịch sử tận cùng, điên mê cho đến ngày bong dáng lịch sử biến mất trong một thời gian lạ thường, để chuẩn bị cho một cuộc thay đổi, quyết tuyển nhập cuộc, đi làm lịch sử.

Bóng dáng lịch sử dù xuất hiện trước hay sau cuộc phần thư, cũng chẳng hề gì. Vì khi kẻ sĩ đã nhập tâm, thời ngọn lửa thiêu kia chỉ để soi sáng thêm ngời ánh tâm thức, ngời nét tư duy trầm thống của kẻ trong một thời, và nung nấu thêm chuyến đi của con người ‘nắm cầm được gươm thiêng’ để làm lịch sử”.

Thần Tháp Rùa là một đoạn long thàyVũ Khắc Khoan. Những va chạm ở đời, ai mà hoàn toàn, trừ ông thánh.

Ông không phải là thánh, chắc cũng có những vấp váp, đúng sai. Nhưng ông là ông thầy đúng nghĩa. Ông thầy ấy thủa thiếu thời học luật, khi tốt nghiệp không đi làm tri huyện. Nếu ông làm tri huyện thì bước đường hoạn lộ sẽ thênh thang vì ông là rể cưng của quan Thượng Thư họ Bùi.

Ông lại tốt nghiệp kỹ sư thủy lâm, ông không cộng tác với Tây để làm trưởng ty, giám đốc.

Ông chọn con đường cách mạng Duy Tân, chiến đấu với thực dân Pháp xâm lăng cũnh như với cộng sản ngược nhân tính.

Gặp cảnh éo le, ông chon đường xây dựng văn học nghệ thuật, đem tâm tình lịch sử đến với tuổi hoa niên.

“Công cha nghĩa mẹ ơn thầy,

Ở sao cho xứng những ngày còn thơ”.



Sacramento, 1998


Каталог: groups -> 20618264 -> 1558597453 -> name
groups -> PHẦn chuyển tiếp kính thưa quý vị và các bạn trẻ, giữa những ngưới Việt chúng ta, tôi nói
groups -> Ý Nga sưu tầm và cập nhật hóa ngày 21-4-2013, với nhạc của nhạc sĩ: TừYên, Hà Thúc Sinh vừa thêm vào
groups -> BÁo cáo môn: RÈn luyện nghiệp vụ SƯ phạM 3
groups -> Phản Bội hay Tự Do cho Việt Nam ?
groups -> Tin khoa hoc december 31, 2010 Những vụ phóng vệ tinh thất bại trong 2010 Trong năm 2010, một số quốc gia đã vấp phải các sự cố trong việc phóng vệ tinh vào không gian
groups -> Một Thời Bạn Học Revised 8/4/10 việt nam
name -> Đặc San Chu Văn An
20618264 -> Tiếng Nói Chánh Thức của Liên Minh Dân Chủ vn chủ Tịch lmdcvn & Chủ Nhiệm Danh Dự: Cố Gs Nguyễn Ngọc Huy
20618264 -> Chuyện tháng Tư Đen

tải về 10.77 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   11   12   13   14   15   16   17   18   ...   29




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương