3.1.3 Đặc điểm sinh học cá chốt
Cá chốt sống nhiệt độ từ 23 – 29oC
Độ pH 6.5 – 7.5
Cá sống ở tầng đáy
Sống trong môi trường nước ngọt và nước lợ
Cá chốt là loài cá ăn tạp
Chiều dài của cá từ 13 – 15cm
Trọng lượng từ 50 – 200gr
Cá chốt trắng thuộc họ cá lăng, cỡ cá trưởng thành dài 15 – 30 cm, trọng lượng 50 – 200 g/con. Thân dẹp bên, đầu nhỏ, hình nón, mặt dưới hơi phẳng, mõm có hình bầu dục, có 4 đôi râu. Mắt to không có da che phủ, nằm lệch về phía lưng của đầu gần như cách đều chóp mõm với điểm cuối xương nắp mang. Lỗ mang rộng, màng mang phát triển. Gai ngực và gai lưng cứng nhọn, mặt sau của gai này có răng cưa hướng xuống gốc. Vây mỡ nằm đối diện với vây hậu môn và chiều dài hai gốc vây này tương đương nhau. Các vây có màu vàng sậm. Phần ngọn vây lưng, vây đuôi, vây hậu môn, vây mỡ màu xám đen. Phần lưng của thân và phần đầu có màu trắng xám, toàn thân ánh lên màu vàng nghệ. Râu mép màu đen, các râu khác màu nhạt hơn.
Cá là loài rộng muối, chúng có thể sống được ở môi trường nước có độ mặn 0 – 15‰. Cá thường sống trong các kênh rạch ở khu vực giáp ranh giữa nước ngọt và lợ. Cá chốt là loài đẻ trứng dính, thành thục sau một năm tuổi, mùa sinh sản tháng 5 – 8, khi trời mưa và có nước lũ đổ về. Cá thường kết đàn đi trên sông, kênh rạch, ngược nước lên ruộng sinh sản, tập tính kết đàn đi sinh sản này sẽ làm tăng khả năng sống sót để tái tạo quần đàn của loài.
Sinh sản
Cũng giống như cá trê, nheo, trứng cá sau khi thụ tinh sẽ bám vào cây cỏ thủy sinh, phát triển thành cá bột. Cá có sức sinh sản 22,7 – 78,3 vạn trứng/kg cá cái, trứng nở tốt ở độ mặn 10‰. Nhiệt độ thích hợp 27 – 290C, thời gian nở 22 – 24 giờ, sau khi nở 1,5 ngày, cá tiêu hết noãn hoàng và có thể sử dụng thức ăn bên ngoài. Khi mới nở, cá ăn động, thực vật phù du, sau đó chuyển sang ăn các loài giun chỉ, ấu trùng côn trùng và giáp xác cỡ nhỏ; Lớn lên cá ăn các loài tôm cá nhỏ và ăn thêm mùn bã hữu cơ. Ngoài tự nhiên, cá trưởng thành rất thích ăn xác chết của động vật ươn, thối.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |