111
Đối với khu vực Trung du miền núi phía Bắc (bảng 3.26), trong điều kiện
chuồng hở, tốc độ tăng khối lượng của đàn thương phẩm của nái YMC đạt cao nhất
ở nhóm sử dụng đực DxP (671,56 g/ngày) sau đó đến nhóm sử dụng đực DP
(665,52 g/ngày) và thấp nhất ở nhóm sử dụng đực DL (638,42 g/ngày). Khi so sánh
với nhóm sử dụng đực DD thuần, thì nhóm sử dụng đực lai DxPD và DP có biểu
hiện sự sai khác có ý nghĩa thống kê với P<0,05, trong khi nhóm sử dụng đực lai
DL là không biểu hiện sự sai khác (P 0,05). Độ dày mỡ lưng của nhóm sử dụng
đực lai P đạt thấp nhất 14,53 mm và có sự sai khác có ý nghĩa thống kê với 3
nhóm còn lại. Nhóm sử dụng đực lai DxP và L có độ dày mỡ lưng đạt 15,05 và
15,12 mm (tương ứng), nhưng không iểu hiện sự sai khác có ý nghĩa thống kê khi
so sánh với nhóm sử dụng đực DD thuần (P>0,05), cho dù giá trị tuyệt đối có sự
khác nhau. Mặc dù vậy, ở chỉ tiêu tiêu tốn thức ăn, có sự sai khác có ý nghĩa thống
kê khi so sánh giữa nhóm sử dụng đực lai DxPD và DP với nhóm sử dụng đực DD
thuần (với P<0,05). Do tốc độ sinh trưởng cao và t lệ nạc cũng ở mức cao nên tiêu
tốn thức ăn ở nhóm con lai thương phẩm sử dụng đực DxP và P đạt mức thấp
nhất trong các nhóm khảo sát (2,72 và 2,76 kgTA/kgTKL), nhóm sử dụng đực lai
DL có tiêu tốn thức ăn cao hơn và tương đương với nhóm sử dụng đực DD thuần
(2,82 và 2,81 kgTA/kgTKL). Như vậy, nếu xem xét tổng thể trên cả ba chỉ tiêu sinh
trưởng, dày mỡ lưng và tiêu tốn thức ăn, hai tổ hợp lai thương phẩm sử dụng đực lai
cuối cùng DxP và P có ưu thế hơn nhiều so với sử dụng đực Duroc thuần. Với
nhóm sử dụng đực lai DL, chỉ tiêu tăng khối lượng thấp hơn, trong khi các chỉ tiêu
dày mỡ lưng và tiêu tốn thức ăn lại cao hơn so với nhóm sử dụng đực DD thuần. Do
đó, chúng tôi khuyến cáo sử dụng hai nhóm đực lai cuối cùng DxPD và DP phối với
nái lai YMC nuôi ở vùng Trung du miền núi phía Bắc.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: