Asoka: cuộC ĐỜi và SỰ nghiệp tuyển tập các bài viết về vua a dục Phật Giáo và a-dục Vương



tải về 0.5 Mb.
trang2/9
Chuyển đổi dữ liệu01.01.2018
Kích0.5 Mb.
#35256
1   2   3   4   5   6   7   8   9

PHÁP HÀNH CỦA A-DỤC VƯƠNG


Các Đạo dụ cung cấp khá nhiều thông tin về cách mà A-Dục Vương truyền bá Pháp (dhamma) của mình. Đó là dhammathambhas "những cột trụ pháp", dhammalipi "văn thư pháp", dhammamgala "tế lễ pháp", dhammadàna "bố thí pháp", dhammanuggaha "nhiếp thọ pháp", dhammayàtras "những cuộc lữ hành pháp", dhammasavana "nghe pháp", dhammamahàmàtras "những vị đại thần pháp", dhammavijaya "chinh phục pháp".

Vấn đề là phải biết xem thử pháp của A-Dục Vương có giống với pháp của Đức Phật hay không. Ông ta thể hiện rõ sự khác nhau giữa sự thực hành và thành lập thông thường, và lối giải thích về pháp của chúng. Một cột trụ là một thamdha. Nó trở thành một cột trụ pháp nếu pháp của A-Dục Vương được khắc lên đó. Cũng đã có những vị đại quan trước thời A-Dục Vương, nhưng chính ông là người đầu tiên thành lập nên những vị đại quan pháp để truyền bá pháp của mình. Trước thời ông, các vị vua cũng đã từng thực hành những chuyến lữ hành. Riêng ông thì thành lập các cuộc lữ hành để ông có thể thực hành pháp của mình trong suốt những chuyến lữ hành ấy. Người ta đã từng tiến hành tất cả những loại tế lễ trong trường hợp bị đau ốm, tại những cuộc đám cưới, để cầu xin con, hay cầu xin an toàn trước khi lên đường v.v… Tuy nhiên, tế lễ pháp lại là phương thuốc trị bệnh thích hợp cho những người dân nô lệ và đầy tớ, kính trọng các bậc tôn sư, là sự tự chế ngự đối với các xin vật sống, sự rộng lượng đối với những vị Sa-môn và Bà-la-môn v.v…

Pháp của A-Dục Vương còn được giải thích rõ ràng trong nhiều bia ký, tỷ dụ như dưới một hình thức vắn tắt trong bản Đạo dụ thứ hai như sau: "Hãy vâng lời cha mẹ mình; vâng lời người lớn tuổi; có từ tâm với sinh vật sống; nói sự thật". Người ta bảo rằng tất cả những điều này phù hợp với sự tự nhiên của cổ nhân (porana pakati), một diễn dịch của thế kỷ thứ 3 sau Công Nguyên là "trở về với nguyên sơ". Ở một nơi khác, trong bản Đạo dụ thứ 3, có xuất hiện một lối giải thích hơi rộng về vấn đề trên như sau "Vâng lời cha mẹ là tốt; hào phóng với bạn bè, người thân quen và bà con họ hàng, với các vị Sa-môn và Bà-la-môn là tốt; có tiết độ trong tiêu dùng, trong tài sản là tốt".

Một loạt Đạo dụ trên các trụ đá mà chúng ta thường gọi là Đạo dụ Trụ đá (Pillar Edicts), nhằm giải thích về pháp A-Dục Vương, với một bản tường thuật chính bản thân ông đã tuân theo pháp ấy như thế nào; đó là bằng cách ông đã trồng nhiều cây để tạo bóng râm hai bên đường đi, rồi đào giếng và tạo những nơi cấp nước cho người và súc vật. Đạo dụ một nói về sự cai trị bằng pháp; Đạo dụ 2 nhấn mạnh rằng pháp gồm có ít tạo tội, làm nhiều điều thiện, thể hiện lòng từ bi, bố thí nói thật và trong sạch tâm linh. A-Dục Vương đã làm nhiều việc thiện bằng cách không sát sanh. Đạo dụ 3 nói về thiện và ác và minh chứng rằng ác là hung bạo, tàn nhẫn, phẫn no, kiêu căng và thèm khát. Đạo dụ 4 nhấn mạnh đến nhu cầu và bình đẳng công lý và việc cải tạo các tù nhân. Đạo dụ 5 thì ngăn cấm việc giết hại một số sinh vật mà có nêu rõ tên. Đạo dụ 6 nhấn mạnh rằng mục đích chính là đem lại hạnh phúc cho tất cả. Mọi giáo phái đều được tôn kính, đặc biệt là những giáo phái đích thân ông đến viếng thăm. Đạo dụ 7 như là một bản tổn kết những việc mà A-Dục Vương đã làm. Ông giải thích lý do vì sao các vị vua ngày xưa đã tìm cách tăng cường pháp. Riêng A-Dục Vương quyết định thực hiện pháp ấy bằng cách thuyết giảng và dạy dỗ, rồi ông thành lập nên các cột trụ pháp (dhammathambaha) và đại quan pháp (dhammamahàmàtras) để đưa quyết định của ông thành thực tiễn. Các vị đại quan pháp gắn liền với tất cả giáp phái. Pháp một lần nữa được định nghĩa như là: vâng lời cha mẹ, vâng lời sư trưởng, kính trọng người già, cư xử thích hợp với các vị Sa-môn và Bà-la-môn, với người nghèo, nô lệ và đầy tớ. Pháp ấy càng ngày càng gia tăng là nhờ vào hiến pháp của A-Dục Vương, tỷ dụ như nói về việc không giết hại thứ vật, đó cũng là vì thái độ tâm linh… vì lương tâm cá nhân (nijhati).

Ở một nơi khác như trong Đạo dụ khắc trên đá lớn cho ta biết rằng người ta phải vâng lời và tuân theo pháp ấy. Món quà mà pháp ấy đem lại được xem như là phương thuốc chữa bệnh thích hợp cho những người nô lệ, vâng lời cha mẹ, v.v…, rộng lượng với các vị Sa-môn và Bà-la-môn, bất sát sanh. Chính pháp ấy đem lại công đức vô lượng.

A-Dục Vương gọi các Đạo dụ của ông là những văn thư pháp (dhammalipi) và chúng ta có thể đọc rồi thấy rõ ràng trong mỗi văn thư ấy chứa đựng pháp gì. Pháp đó dành riêng cho vấn đề đạo đức, đó cũng là lý do vì sao chúng ta thường dịch từ dhammalipi là "huấn dụ về đạo đức". A-Dục Vương đã cho phổ biến pháp của mình thật rộng rãi, rồi thiết lập nên những vị đại quan pháp để giám thị pháp ấy, cho dựng những cột trụ pháp để khắc pháp ấy lên, và phái các vị sứ giả (duta) để đem pháp ấy đi tuyên truyền khắp Ấn Độ và thậm chí đến tận miền Tây Hy Lạp. Trong một chừng mực nào đó thì có thể nói rằng những tư tưởng đạo đức này hoàn toàn phù hợp với những lời dạy về đạo đức của Phật giáo, ngoài ra chẳng có cái gì thuần túy Phật giáo trong tư tưởng ấy cả. Đối với sự nhấn mạnh về bất sát sanh (ahimsà) thì tư tưởng ông giống hệt Kỳ-na giáo. Quả thật vậy, người ta đã lập nên một bản so sánh tương đương về danh sách tên các sinh vật không được giết hại ghi trên Đạo dụ thứ 5 và danh sách các sinh vật trong Thánh thư Kỳ-na giáo.

Chúng ta thấy rằng, trong Đạo dụ ở Bairàt, dưới tên riêng của mình là Priyadasi, A-Dục Vương chào mừng Tăng-già và cầu chúc Tăng-già hưng long. Ông ta nói rằng đức tin của ông vào Phật, Pháp và Tăng thật vĩ đại biết bao. Rõ ràng là trong bản văn này, từ Dhamma (Pháp) có nghĩa thường dùng như là một trong ba yếu tố của Tam Bảo (Triratna), nhưng thật ra pháp mà A-Dục Vương ám chỉ đến không giống pháp của Đức Phật. Vì lẽ đó, đoạn trích dẫn mà tôi có đưa ra ở phần đầu bài diễn thuyết này về việc thiết lập nên cái gọi là sànana ở những quốc gia mà ông ta đã chinh phục bằng tâm linh, hình như dựa trên sự hiểu lầm về bản chất pháp của A-Dục Vương.

---o0o---


SỰ CHINH PHỤC VÀ CÁC SỨ GIẢ CỦA A DỤC VƯƠNG


Cũng một đoạn trích dẫn ấy hình như là sai lầm khi đề cập đến các quốc gia đã bị A-Dục Vương chinh phục bằng tâm linh, nếu như pháp của ông ta là pháp chinh phục (dhammavijaya). Theo như tôi biết thì A-Dục Vương đã bành trướng đế quốc mình bằng sức mạnh, nhưng sau đó lại nghĩ ra được nguyên tắc chiến thắng bằng đạo đức, và rồi truyền thừa nguyên tắc ấy cho hậu duệ của ông ta.

Theo tôi thì nguyên tắc chủ đạo của A-Dục Vương là bất sát sanh (ahimsa), hay nói cho đúng ra thì đó là kết quả sự hối hận của ông sau cuộc tàn sát đẫm máu ở Kalinga. Đạo dụ đầu tiên của ông ban ra hầu hết toàn bộ liên quan đến việc nghiêm cấm sát sanh trong đời thường, gồm cả việc giết súc vật để tế lễ và ăn thịt.

Trong Đao dụ thứ 13 ông kể đến câu chuyện sau chiến thắng ở Kalinga thì chết chóc và khổ đau xảy ra như thế nào, chính điều đó đã cắn rứt lương tâm ông và ông thiết tha mong mỏi có đạo đức (dhamma-pháp). Song điều làm A-Dục Vương đau lòng là chính những người tuân thủ theo pháp của ông ta, trong đó bao gồm cả các vị Sa-môn, Bà-la-môn, thì chính họ lại chịu khổ đau. Lúc bấy giờ, điều ông muốn là một cuộc chinh phục bằng pháp, bao gồm cả sự an ninh cho mọi loài, sự tự chế ngự, tính trầm tĩnh và hòa nhã. Các sứ giả được phái đi khắp nơi để thuyết giảng pháp này, gồm cả những vương quốc miền Tây Hy Lạp. Cuộc chinh phục bằng đạo đức (dhamma) của ông được công bố với hy vọng rằng hậu duệ của ông sẽ không nghĩ rằng đó là chiến thắng bằng quân sự, bằng vũ trang mà thường dẫn đến thảm sát giống như ở Kalinga. Chiến thắng như vậy sẽ mang tính nhẫn nại (khantil) và trừng phạt nhẹ (lahudandatà). A-Dục Vương cầu mong sao cho những người dân trụ ngụ trong rừng núi (giống như ông ta) có thể ăn năn (những việc làm sát sanh xưa kia?) và chấm dứt sát hại (trong tương lai).

Và theo tôi thì chắc chắn những vị sứ giả được phái đến các Vương quốc Hy Lạp kia không phải là được giao cho sứ mạng truyền bá Phật giáo. Dường như họ được phái đến để nhằm tận lực thuyết phục các nhà cai trị ở các nước lân bang rằng họ cũng nên từ bỏ đi tham vọng chinh phục bằng chiến tranh, mà nên thiết lập một vương quyền hòa bình và an định, trên cơ sở nguyên tắc pháp của A-Dục Vương. Theo tôi việc A-Dục Vương cho tăng cường các phái đoàn sứ giả đến Hy Lạp, quả là một sai lầm vậy. Cố nhiên chúng ta cũng chẳng có bằng chứng nào về phía Hy Lạp cho biết rằng có bao nhiêu phái đoàn sứ thần đã đến nước này vào khoảng năm 250 trước Công Nguyên.

---o0o---



tải về 0.5 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương