An Mai Đỗ O. Cist



tải về 0.63 Mb.
trang3/69
Chuyển đổi dữ liệu02.01.2022
Kích0.63 Mb.
#39943
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   69

DẪN NHẬP


Có thể nói, từ khi con người hiện hữu cũng là lúc nhân cách mỗi người được biết đến. Thật vậy, mỗi người với những tài năng, tư chất… đều góp phần trong việc hình thành nhân cách cá nhân. Nhưng mỗi thời, người ta dùng một lối nói khác nhau. Khổng Tử đã đề cao con người khi nói nhân linh ư vạn vật. Đồng thời, ông đề ra các đức tính giúp sống đời nhân bản: nhân, lễ, nghĩa, trí và tín. Hay Đông Phương có một câu nói khá phổ biến sống theo luân thường đạo lý, còn Tây Phương lại nói nhiều đến đạo đức con người theo nhãn quan triết học…và có cả một chủ trương nhân bản. Mãi đến thế kỷ XX, người ta mới sử dụng phổ biến thuật ngữ nhân cách. Chính nhân cách mới là một giá trị mà con người mọi thời phải cố công đào luyện để hoàn thành chính mình.

Hơn nữa, ngày nay con người càng muốn đề cao nhân cách vì xã hội đã có quá nhiều lạm dụng và lệch lạc, gây hư hại phẩm giá con người. Từ thời Phân Tâm Học ra đời (1) cho đến thế kỷ XXI này, đã có nhiều thuyết bàn về nhân cách dưới nhiều góc độ khác nhau: nhân cách cái tôi, nhân cách hiện sinh…Trong tập sách nhỏ này, người viết muốn nhấn mạnh đến nhân cách đời tu. Hay nói cách khác, người viết cố gắng phác hoạ chân dung người sống đời thánh hiến. Trong một xã hội phát triển đến mức chóng mặt như hiện nay, những người sống đời tận hiến chắc chắn không thể tránh khỏi những ảnh hưởng tiêu cực. Vì thế, cần nêu lên những thách đố mà tu sĩ thời nào cũng đối diện, cách riêng những vấn nạn mới trong thời đại chúng ta.

Vào thời Trung Cổ, có thể nói xã hội và Giáo hội đang sống trong cảnh thịnh vượng, xa hoa (2), thì Thánh Thần đã gởi đến chân dung của thánh Phanxicô khó nghèo, một nhân cách điển hình sống trong thời đó. Ngài vốn xuất thân từ bậc trung lưu đã từng sống phóng túng như những người “sành điệu”, sau đó được ơn hoán cải, ngài chọn Bà Chúa nghèo làm lẽ sống. Một người vốn giàu có lại chấp nhận và vui nhận sống nghèo để cách nào đó trả lời cho con người thời bấy giờ biết rằng: hạnh phúc và niềm vui đích thực không hệ tại sự giàu sang sung túc nhưng là sự khó nghèo trong tâm hồn.

Gần đây hơn, chúng ta biết đến chân phước Têrêsa thành Calcutta. Mẹ đã nhận được giải Nobel hoà bình của quốc tế năm 1979. Mẹ không những được Giáo hội biết đến mà còn được cả thế giới ngưỡng mộ bởi sự dấn thân triệt để cho người cùng khổ. Trong khi xã hội đạt đến đỉnh cao của sự phát triển kinh tế, người ta tôn vinh những người giàu có và quyền lực, Thánh Thần đã gởi đến cho Giáo hội một người đồng hành với người cùng khổ bị xã hội loại bỏ. Mẹ đã đến với những người hấp hối đang bị dòi bọ rút rỉa tại khu ổ chuột Calcutta với một ước muốn họ chết như một con người. Có thể nói, mẹ là một trong những người tiên phong trong việc hành động cụ thể nhằm bảo vệ phẩm giá con người. Thiết tưởng, đó là một nhân cách điển hình cho thời đại chúng ta.

Bên cạnh đó, cũng còn nhiều linh mục, tu sĩ bị xã hội lên án về việc lạm dụng tình dục, sử dụng tiền bạc quá mức qui định…đã làm cho Giáo hội phải đau lòng vì những phần tử sa phạm. Đó là những gì lộ ra bề mặt, bề trong vẫn không thiếu những lối sống phản chứng trong đời tu. Những biểu hiện tiêu cực ấy là dịp các nhà đào tạo phải đặt ra vấn nạn: Đâu là những nét tiêu biểu làm nên nhân cách đời tu ?

Như chúng ta đã biết: nhân cách là một thực tại sống động. Bởi đó, nó không ngừng được hội nhập và lột xác mỗi ngày. Nếu hiểu đời tu là một cuộc lội ngược dòng thì nhân cách mà một tu sĩ muốn xây dựng cho bản thân phải đáp ứng những thách đố của thời đại (Phần 1) nhưng nhờ ơn Chúa và gương lành của các thánh, họ tiến bước mà nắm chắc phần thắng trong hy vọng lớn lao.

Có nhiều cách tiếp cận vấn đề này, người ta có thể tìm hiểu bản chất đời tu để từ đó đề ra một dạng thức hiện hữu của một tu sĩ, xét như một nhân cách đời tu, hoặc có thể khởi đi từ lời mời gọi của Thiên Chúa đến việc đáp trả của cá nhân trong cung cách cá vị của mình. Chúng ta hãy khởi đi từ những thách đố của thời đại, từ đó, rút ra những kinh nghiệm giúp mỗi tu sĩ sống trọn ơn gọi của mình. Thách đố thì rất nhiều, chúng ta chỉ nêu lên 3 điều: danh, lợi thú. Như thế, thách đố này không phải chỉ thời này các tu sĩ mới đối diện nhưng đã có từ khi con người hiện hữu; bởi đó, các tu sĩ cần nhận ra những hình thức mới từ những đặc tính cũ. Song song với 3 thách đố ấy, chúng ta muốn hướng đến 3 lời khấn, như cách đáp ứng đúng đắn cho một tu sĩ bước theo. Thật vậy, danh tiếng người đời thường đi tìm nơi tạo vật, các tu sĩ đi tìm trong Thiên Chúa (khấn vâng phục); lợi lộc người đời vẫn tìm nơi của cải chóng qua, các tu sĩ tìm cách chiếm được Chúa là phần gia nghiệp (khấn khó nghèo); lạc thú người đời tìm trong hưởng thụ xác thịt, các tu sĩ sống tình yêu phổ quát cho Chúa và cho mọi người (khấn khiết tịnh).

Những thách đó vừa kể trên quá tinh vi và phức tạp, nó đã ăn sâu trong mọi tư tưởng, lời nói cũng như việc làm của con người. Thế nên, bước vào đời tu, các ứng sinh cần tái khám phá những mặt nạ và các cơ chế tự vệ vẫn đeo bám mình. Xét về mặt tự nhiên, một khi đối diện với điểm yếu, mặt trái hay bóng tối này trong cuộc sống, xem ra là một bất lực; tuy nhiên, nhờ ơn Chúa, người được thánh hiến dễ dàng đối diện và vượt qua. Đó là giải pháp đức tin mà mỗi tu sĩ cần đến khi gặp những khó khăn trong đời tu. Theo một nghĩa nào đó, đây là hành trình xây dựng nhân cách tôn giáo với ý thức sự hiện diện của Chúa trong đời sống thường ngày. Cụ thể hơn, nhờ những gợi ý của tông huấn Vita Consecrata, các tu sĩ sống và thể hiện đời sống đức tin, cậy và mến qua 3 lời khấn dòng. Điều này đòi buộc người sống đời thánh hiến phải thấm nhuần linh đạo của Đức Kitô. Và qua những mẫu gương điển hình như một gợi ý cho hành trình ơn gọi của mỗi tu sĩ.

Những gì được trình bày trong tập sách này chỉ mang tính gợi ý và không tránh được những thái độ chủ quan, rất mong sự góp ý xây dựng của các bạn độc.



tải về 0.63 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7   8   9   ...   69




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương