25 suy niệm tin mừng lễ hiển linh – Năm a lời Chúa: Is 60,1-6; Ep 3,2-3a. 5-6; Mt 2,1-12 MỤc lụC



tải về 399.39 Kb.
trang12/15
Chuyển đổi dữ liệu13.05.2018
Kích399.39 Kb.
#38279
1   ...   7   8   9   10   11   12   13   14   15

20. Tỏ mình


Các bài đọc trong thánh lễ hôm nay đều qui về một điểm chính là: “Thiên Chúa mạc khải chính Ngài cho tất cả mọi người”, không phân biệt ai, cho dù người Do thái hay kẻ ở ngoài Kitô giáo, như các đạo sĩ từ Phương đông đến. Nhưng đáp lại, không phải tất cả mọi người đều đáp lại ơn Chúa mà chấp nhận từ bỏ cuộc sống của mình, từ bỏ cuộc sống theo tính hư nết xấu của mình để đến gặp và sấp mình khiêm tốn thờ lạy Chúa. Thiên Chúa mạc khải cho con người, cho tất cả mọi người bằng nhiều cách khác nhau.

Các bài đọc trong thánh lễ hôm nay, nhất là bài Phúc âm trình bày cho chúng ta thấy hai con đường, hai thái độ đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa. Con đường thứ nhất là con đường mạc khải chính thức trong lịch sử cứu độ do Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử của dân Chúa. Con đường thứ hai có thể nói là con đường tự nhiên qua các biến cố xảy ra trong thiên nhiên, trong vũ trụ, trong sinh hoạt hàng ngày của con người. Và chúng ta cũng nhìn thấy hai thái độ chấp nhận của các đạo sĩ từ phương xa và thái độ từ chối lơ là không màng chi đến việc đón nhận Chúa như vua Hêrôđê và các thầy thượng tế tại Giêrusalem.

Kinh Thánh đã chỉ cho họ biết, và họ thuộc lòng Kinh Thánh để biết rằng: Con Thiên Chúa sẽ Giáng sinh tại Belem, nhưng họ lơ là hoặc quá say mê hưởng thụ những lợi lộc vật chất mà không chấp nhận từ bỏ, không chấp nhận ra đi đến nơi Thiên Chúa chờ sẵn để gặp họ, để gặp Con Người. Tệ hơn nữa, vua Hêrôđê lại sợ rằng Chúa đến để chiếm lấy quyền của ông, làm cho ông mất danh vọng, mất quyền hành, mất địa vị. Chính vì thế mà ông đã ngấm ngầm muốn hại Chúa, nên ông đã cho triệu tập riêng các đạo sĩ lại để hỏi cặn kẽ về ngày giờ, để rồi như chúng ta đã biết là sau đó, khi vua Hêrôđê đã thấy các đạo sĩ không trở lại với mình nữa, thì nhà vua đã tức giận và ra lệnh giết tất cả các hài nhi trong vùng, trong khoảng từ hai tuổi trở xuống. Ông hy vọng rằng trong số các hài nhi bị giết chết đó có Con Thiên Chúa, có Đấng mà người ta gọi là Đấng Thiên sai, Đấng đến để hướng dẫn dân tộc Do thái, để cứu rỗi nhân loại.

Mừng lễ ba vua hôm nay hay nói được là lễ Hiển linh, lễ Chúa tỏ mình ra cho các dân tộc, cho tất cả mọi người. Lễ này chúng ta có thể nói là bổ túc cho lễ Giáng sinh mà chúng ta đã mừng trước đây.

Lễ Giáng sinh nhìn trên một phương diện nào đó chúng ta có thể nói đó là lễ Chúa mạc khải chính mình Chúa, Chúa đến với dân tộc của Ngài là dân tộc Do thái, và lễ Hiển Linh là Chúa đến với dân tộc ngoài Do thái, với tất cả mọi người và cách thức Chúa đến với họ khác với điều họ mong ước. Chúa đến với họ bằng một đứa trẻ mới sinh nghèo hèn, không ai chấp nhận. Chúa đến với họ trong nghèo hèn, trong khiêm tốn, trong âm thầm ngoài tưởng tượng của những người đáng lẽ ra phải nhận biết Chúa như vua Hêrôđê, các đạo trưởng, luật sĩ trong dân Do thái thời đó.

Thiên Chúa dùng mọi phương thế, mọi con đường, để đến với mọi người ở trong cũng như ở ngoài Giáo Hội Chúa. Con đường của mạc khải Lời Chúa qua lời giảng dạy của Giáo Hội cũng như con đường của các biến cố trong thiên nhiên, trong cuộc sống hằng ngày để nhắc chúng ta rằng, Ngài đang đợi ở nơi đó, Ngài đã hẹn trước với chúng ta để mong gặp chúng ta. Nhưng chúng ta có đáp lại lời mời gọi của Chúa hay không? Ta có đủ can đảm như các nhà đạo sĩ thực hiện một cuộc phiêu lưu từ bỏ nếp sống hưởng thụ vật chất, từ bỏ ngôi nhà vinh quang để đi gặp Chúa hay không?

Trở về cách đây hơn 2000 năm thì chúng ta thấy rằng, phương tiện di chuyển thời đó đường xa và không có nơi cư ngụ tiện nghi như ngày nay. Và để đi đường xa như vậy, từ một vùng đất xa lạ đến một xa lạ khác, và đi tìm một con người mà không ai trong ba nhà đạo sĩ này có thể biết trước là ở đâu, thì các vị đạo sĩ này hẳn đã phải cố gắng thật nhiều, và có lòng can đảm khác thường để liều lĩnh chấp nhận những cuộc hành trình và đích điểm còn mơ hồ chưa xác định được. Các ngài đã chứng tỏ cho chúng ta thấy là ơn Chúa đã chiến thắng nơi các ngài. Để lên đường đi tìm Chúa, các ngài đã can đảm chấp nhận những hy sinh, những liều lĩnh, cốt sao là tìm được trẻ thơ như trong giấc chiêm bao.

Nhìn về mỗi người chúng ta, chúng ta cũng có thể nói: mỗi người chúng ta đã được Thiên Chúa dựng nên để hướng về Ngài, tâm hồn luôn khao khát hướng về Thiên Chúa và khi Thiên Chúa cho ta biết Ngài đến gặp gỡ chúng ta, muốn gặp ta qua những biến cố trong cuộc sống hàng ngày, thì liệu chúng ta có đủ can đảm chấp nhận hy sinh như các nhà đạo sĩ để ra đi để gặp gỡ Chúa hay không? Chúa đến với chúng ta, Chúa tìm chúng ta trước với những ơn lành của Ngài, những ơn soi sáng trực tiếp cũng như dấu chỉ mời gọi xảy ra trong cuộc sống, trong lịch sử của chính chúng ta cũng như lịch sử của dân tộc, của quốc gia và cả trong những biến cố lịch sử thế giới.

Thiên Chúa đi tìm con người để đưa con người trở về với Ngài. Nhưng mỗi người chúng ta có thành tâm thiện chí, có can đảm đủ để nhìn ra những dấu chỉ, những lời mời gọi của Chúa hay không? Hay chúng ta nuôi dưỡng những thiện chí đó trong suốt cuộc hành trình giữa những khó khăn mà chúng ta gặp phải hoặc chúng ta bỏ dở nửa chừng vì những khó khăn đủ loại cản bước chúng ta tìm Chúa. Hay chúng ta sợ Chúa đến tách mất khỏi chúng ta những lợi lộc vật chất, những vinh quang, những uy quyền mà chúng ta đang hưởng như vua Hêrôđê.

21. Suy niệm của JKN


Câu hỏi gợi ý:

1. Các thượng tế và kinh sư Do Thái biết rõ Đấng Cứu Thế sinh ra ở đâu lại không đến gặp Ngài, còn các nhà chiêm tinh ở mãi tận đâu đâu, phải nhờ các thượng tế và kinh sư Do Thái chỉ cho, thì lại gặp được Ngài. Tại sao lại có chuyện mỉa mai và nghịch lý như vậy?

2. Rút kinh nghiệm từ bài Tin Mừng thì để gặp được Thiên Chúa, điều quan trọng nhất là gì? Cần phải có tôn giáo chân chính, hay phải có thiện chí và quyết tâm đi tìm Ngài? Cái nào là yếu tố quyết định để gặp được Ngài?

3. Động lực gì khiến vua Hêrôđê muốn giết hài nhi Giêsu, cho dù biết hài nhi ấy là người của Thiên Chúa? Tuy Kinh Thánh không đề cập đến, nhưng ta thử đoán xem các thượng tế và kinh sư Do Thái – với bản chất của họ như ta đã thấy trong các Tin Mừng – đã có thái độ nào trước tội ác của Hêrôđê: can đảm ngăn cản nhà vua hay mặc kệ Đấng Cứu Thế mà họ mong chờ ra sao thì ra? Suy tư gợi ý: Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy ba hạng người khác nhau với ba thái độ khác nhau đối với Đức Giêsu mới sinh ra. Trước hết là các nhà chiêm tinh đến từ phương Đông, sau là các thượng tế và kinh sư tại Giê-ru-sa-lem, và cuối cùng là vua Hêrôđê.



Suy Niệm

1. Thái độ của các nhà chiêm tinh đông phương

Các nhà chiêm tinh được nói đến như những người thuộc dân ngoại, không phải là người Do Thái giáo. Họ đại diện cho các dân tộc, các quốc gia trên thế giới đến thờ lạy Đức Giêsu, Đấng trong tương lai và vĩnh cửu sẽ là vua của toàn thể thế giới và vũ trụ. Thái độ của các nhà chiêm tinh là thái độ của những người tìm kiếm, khắc khoải đối với Thiên Chúa, với tha nhân, với chân lý, công lý và tình thương. Và chính vì họ quyết tâm lên đường và ra công tìm kiếm nên họ đã gặp, đúng như Đức Giêsu nói: «Ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở ra cho» (Mt 7,8). Khi ngôi sao biến mất, việc tìm kiếm bị thử thách, họ không nản chí bỏ cuộc, vẫn tiếp tục tìm kiếm, vì họ đã quyết tâm và hết lòng tìm kiếm: «Các ngươi tìm Ta thì các ngươi sẽ thấy, bởi vì các ngươi hết lòng tìm kiếm Ta» (Gr 29,13); «Kẻ yêu Ta sẽ được Ta yêu lại, người tìm Ta ắt sẽ gặp Ta» (Cn 8,17).



2. Thái độ của các thượng tế và kinh sư tại Giê-ru-sa-lem

Các thượng tế và kinh sư Do Thái là những bậc thông thái, hiểu biết Kinh Thánh, thông thạo các lẽ đạo của tôn giáo chân chính do chính Thiên Chúa thiết lập. Vì thế, họ đại diện cho những người có chính đạo. Họ là những người có Kinh Thánh trong tay, nắm vững những kiến thức thần học, họ rao giảng và bảo vệ chân lý của Thiên Chúa. Nhưng khi Đức Giêsu đến, những hiểu biết rộng rãi và sâu xa của họ chẳng giúp ích gì cho họ trong việc tìm gặp Ngài. Họ biết rất rõ Đấng Cứu Thế sinh ra tại Bêlem, vì Kinh Thánh cho biết như thế. Nhưng họ biết để mà biết, để mà dạy người khác, để mà tự hào rằng mình hiểu biết, chứ không phải biết để áp dụng vào đời sống, để đem ra thực hành. Vì thế, cái biết của họ trở nên vô ích cho họ.

Cũng vậy, rất nhiều Kitô hữu hiểu biết rất sâu xa về Thiên Chúa, về chân lý, nhưng họ biết chỉ để biết, để khoe, để dạy người khác, để rao giảng, chứ không phải để áp dụng sự hiểu biết ấy vào đời sống thực tế. Vì thế, sự hiểu biết ấy không đem lại sự cứu rỗi cho họ. Đức Giêsu nói: «Ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá… Còn ai nghe những lời Thầy nói đây, mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát» (Mt 7,24.26). «Mẹ tôi và anh em tôi chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành» (Lc 8,21); «Anh em đã biết những điều đó, nếu anh em thực hành, thì thật phúc cho anh em» (Ga 13,17); «Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa» (Lc 11,28). Dụ ngôn người gieo giống (Lc 8,11-15) cho thấy những người nhận được Lời Chúa mà không đem áp dụng vào đời sống thực tế cũng giống như những mảnh đất «vệ đường», đầy «đá sỏi», đầy «bụi gai», khiến Lời Chúa không phát triển được. Còn những ai đem Lời Chúa ra thực hành, giống như mảnh đất mầu mỡ khiến Lời Chúa sinh hoa kết trái.

3. Bài học cho những ai đang theo chính đạo

Câu chuyện về hai mẫu người trên cho chúng ta bài học quí giá. Những người tưởng rằng mình đang nắm được Thiên Chúa cùng với chân lý, công lý và tình thương trong tay, đồng thời ngủ say và an tâm trong sự lầm tưởng ấy, họ sẽ chẳng bao giờ gặp được Ngài và thực thi được những giá trị kia. Vì Thiên Chúa, chân lý, công lý và tình thương là những thực tại sống động, không phải thứ đồ vật tĩnh lặng có thể nắm được trong tay, nên chỉ có thể tìm kiếm và gặp được trong từng thời điểm, chứ không thể nắm bắt một lần cho mãi mãi. Cho nên muốn gặp Thiên Chúa, muốn sống trong chân lý, công lý và tình thương, ta phải không ngừng lên đường tìm kiếm, ra sức thực hiện trong từng thời điểm. Ngừng tìm kiếm, ngừng nỗ lực, thì những thực tại cần thiết ấy sẽ vuột khỏi ta ngay, và sự ngừng nghỉ ấy sẽ tạo cho ta một ảo tưởng rằng mình đang nắm được Thiên Chúa, chân lý, công lý và tình thương ở trong tay. Trong khi ấy, thực tế là ta đang xa rời Thiên Chúa và thường hành động ngược lại với chân lý, công lý và tình thương. Thật vậy, những ai dù đang theo chính đạo, tự hào tự mãn về chính đạo của mình, tưởng mình đang nắm được chân lý trong tay, nhưng trong thực tế lại không sống đạo của mình, lại còn khinh chê người khác, họ sẽ trở thành những kẻ tự lừa dối chính mình: «Anh em hãy đem Lời ấy ra thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình» (Gc 1,22). Những ai chỉ biết rao giảng Lời Chúa cho người khác, còn chính bản thân mình lại không thèm áp dụng, hãy lo ngại cho số phận mình như thánh Phaolô: «Tôi phải bắt thân thể tôi chịu cực và phục tùng, kẻo sau khi rao giảng cho người khác, chính tôi lại bị loại bỏ» (1Cr 9,27).

Chuyện các nhà chiêm tinh – mà truyền thống Giáo Hội coi là đại diện cho người ngoại và các dân tộc – cho thấy: dù là người ngoại giáo hay không có tôn giáo chân chính, nhưng nếu người ta thật sự nỗ lực tìm kiếm Thiên Chúa thì họ sẽ gặp được Ngài, nếu thật sự muốn thực thi chân lý, công lý và tình thương thì họ sẽ thực hiện được. Còn những người có tôn giáo chân chính, nhưng lại thờ ơ với việc tìm kiếm Thiên Chúa, với việc thực thi chân lý, công lý và tình thương, người ấy sẽ chẳng gặp được Ngài, và trong người ấy không có chân lý, công lý và tình thương. Tôn giáo chân chính được ví như một chiếc xe hơi tốt, có thể giúp ta đi đến nơi cần đến một cách an toàn, nhanh chóng và bảo đảm. Còn các tôn giáo khác như những loại xe kém hơn. Nhưng có đi đến nơi hay không, không tùy thuộc vào loại xe cho bằng ý chí quyết tâm muốn đi đến nơi. Người không có xe, phải đi bộ mà quyết tâm đi thì chắc chắn sẽ tới nơi, còn có xe tốt và bảo đảm đến đâu, nhưng chính bản thân lại không quyết tâm đi, thì không thể đến nơi cần đến được. Thiên Chúa vẫn luôn luôn tôn trọng đồng thời đòi hỏi sự tự do và quyết định của con người.

4. Thái độ của vua Hêrôđê, nhà cầm quyền

Nói tới Hêrôđê, ta thấy ông có một nỗi sợ hãi khi nghe các nhà chiêm tinh cho biết: «Đức Vua dân Do-thái mới sinh». Ông sợ hài nhi mới sinh ấy sẽ lật đổ vương quyền của ông. Và dù biết hài nhi ấy đến từ Thiên Chúa, ông vẫn quyết tâm trừ khử. Như thế, tính tham quyền cố vị – ngoài xã hội cũng như trong Giáo Hội – có thể làm người ta mất hết lương tri, sẵn sàng gây nên tội ác, hay ít ra là im lặng để mặc sự ác phát triển. Hêrôđê quyết tâm tìm giết con trẻ Giêsu bằng cách «sai người đi giết tất cả các con trẻ ở Bêlem và toàn vùng lân cận từ hai tuổi trở xuống» (Mt 2,16). Tin Mừng không nói đến thái độ của các thượng tế và kinh sư trước tội ác của nhà cầm quyền. Như đã nói trên, sự hiểu biết của họ về việc sinh ra của Đấng Cứu Thế chỉ là thứ hiểu biết để mà hiểu biết, để mà rao giảng, chứ không hề làm cho họ trở nên lo lắng cho số phận của Đấng Cứu Thế hài nhi. Đối với họ, sinh mạng của Đấng Cứu Thế chẳng là gì cả, chuyện quan trọng đối với họ là sự an toàn bản thân và giữ cho vững những «chiếc ghế» của họ trong tôn giáo Do Thái. Theo họ, lên tiếng để làm gì cho liên lụy đến bản thân, cho mất quan hệ tốt đẹp với nhà cầm quyền? Im lặng cho mọi sự qua đi, bất chấp tốt xấu, đó không phải là thái độ của những ngôn sứ hay mục tử đích thật. Nếu họ sẵn sàng «bỏ chiên mà chạy khi thấy sói đến» (Ga 10,12) thì họ cũng sẵn sàng im lặng bỏ mặc Đấng Cứu Thế mà họ rao giảng ra sao thì ra, dẫu có nguy hiểm đến tính mạng.



Cầu nguyện

Lạy Cha, con tưởng cứ theo chính đạo do Cha sáng lập là bảo đảm được cứu rỗi. Nhưng bài Tin Mừng hôm nay cho thấy, kẻ ngoại giáo quyết tâm tìm kiếm Cha – là chân lý, công lý và tình thương – thì lại bảo đảm gặp được Cha hơn là người có chính đạo mà lãnh đạm với Cha. Xin Cha đừng để con say ngủ trong chính đạo mà thờ ơ với những gì là chân lý, công lý và tình thương. Amen.





tải về 399.39 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   7   8   9   10   11   12   13   14   15




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương