Ý Niệm Về Hữu Thể Sat,19/10/2019 Lượt xem: 1390 I. TỪ ngữ



tải về 89.5 Kb.
trang7/7
Chuyển đổi dữ liệu31.12.2022
Kích89.5 Kb.
#54080
1   2   3   4   5   6   7
Ý Niệm Về Hữu Thể

Học viện Đa Minh

Bởi thế chúng ta mới hiểu rằng, ở thế kỷ 19, khi mạnh mẽ cho thấy tính chất bất tương hợp giữa lý trí tân tiến và đức tin, Đức Lêô XIII đã hướng tới Thánh Thomas như là vị hướng đạo trong cuộc đối thoại giữa bên này với bên kia. Trong tác phẩm thần học của mình, Thánh Thomas đã nêu lên và cụ thể hóa mối liên hệ ấy. Đức tin củng cố, thống nhất và soi động di sản về sự thật lý trí con người có được. Việc tin tưởng rằng Thánh Thomas cống hiến hai khí cụ về kiến thức là đức tin và lý trí này có thể được dẫn trở về với niềm tin tưởng rằng cả hai đều xuất phát từ cùng một nguồn mạch duy nhất của tất cả mọi sự thật là Lời thần linh, một Lời sinh động ở cả hai bối cảnh, bối cảnh tạo thành, và bối cảnh cứu độ.


Cùng với sự thuận hợp nhau giữa lý trí và đức tin, đàng khác, chúng ta cần phải nhìn nhận rằng tự chúng thuận lợi cho hai phương thức kiến thức khác nhau. Lý trí chấp nhận một sự thật vì chứng cớ nội tại của nó, trực tiếp hay gián tiếp; nhưng đức tin chấp nhận một sự thật dựa vào thẩm quyền của Lời Thiên Chúa mạc khải. Thánh Thomas viết ở ngay đầu bộ Tổng Luận Thần Học rằng “Chúng ta cần phải nhớ rằng có hai loại khoa học. Một số khoa học xuất phát từ nguyên tắc được nhận biết bởi ánh sáng tự nhiên của lý trí, chẳng hạn như đại số hay hình học và tương tự như thế. Có một số khoa học từ những nguyên tắc được biết từ các khoa học cao hơn: vậy khoa học về phối cảnh xuất phát từ những nguyên tắc được nhận biết bởi hình học và nhạc lý từ những nguyên tắc của toán học. Và vì vậy giáo huấn linh thánh là một khoa học vì nó xuất phát từ những nguyên tắc được nhận biết bởi ánh sáng của một khoa học cao hơn, tức là từ kiến thức về Thiên Chúa và các thánh” (I, q. 1, a. 2).
Việc phân biệt này là những gì bảo đảm cho tính chất tự lập của các khoa nhân bản học và những khoa thần học. Tuy nhiên, như thế không có nghĩa là tách biệt, trái lại là một thứ hợp tác hỗ tương và lợi ích. Thật vậy, đức tin bảo vệ l ý tr í kh ỏ I b â ấ t c ư ứ xu hướng mất tin tưởng vào những khả năng của mình, phấn khích nó hướng tới những chân trời rộng mở hơn, bảo tồn nó trong việc tìm kiếm những nền tảng, và khi chính lý trí được áp dụng vào lãnh vực siêu nhiên của mối liên hệ giữa Thiên Chúa và con người thì đức tin làm phong phú công việc của Ngài. Chẳng hạn, theo Thánh Thomas, lý trí của con người nhất định có thể nắm bắt được sự hiện diện của một Thiên Chúa duy nhất, thế nhưng chỉ có đức tin là những gì có thể chấp nhận mạc khải thần linh mới có thể chạm vào mầu nhiệm của Tình Yêu của Thiên Chúa Duy Nhất Ba Ngôi.
Đàng khác, cũng chỉ đức tin mới giúp cho lý trí. Thậm chí lý trí, bằng những phương cách của mình, có thể làm được một cái gì đó quan trọng cho đức tin, cống hiến mình làm một trợ giúp tam diện được Thánh Thomas tóm tắt ở lời dẫn nhập cho bài dẫn giải về Chúa Ba Ngôi của Boethius: “chứng tỏ cho thấy các chân lý là lời tựa của đức tin; cống hiến một khái niệm rõ hơn, bằng một số những tương tự, các chân lý của đức tin; chống lại những gì nói phạm tới đức tin, hoặc bằng cách cho thấy rằng các phát biểu ấy là sai, hay bằng việc chứng tỏ rằng chúng không phải là những gì cần phải đúng” (q. 2, a. 2). Tất cả lịch sử của thần học là việc thực thi nỗ lực về lý trí này, thứ nỗ lực cho thấy tính chất hiểu được của đức tin, việc ăn khớp của nó cùng với tính chất hòa hợp nội tại của nó, tính chất hợp lý của nó và khả năng của nó trong việc cổ võ tình trạng phúc hạnh của con người. Tính chất đúng đắn nơi lý luận về thần học cùng với ý nghĩa về kiến thức thực sự của nó được căn cứ vào giá trị của ngôn ngữ thần học, tức là, theo ý kiến của Thánh Thomas, một thứ ngôn ngữ chính yếu về phép loại suy. Khoảng cách giữa Thiên Chúa, Đấng Hóa Công, và hữu thể của các loài tạo vật của Ngài thì vô cùng, cái khác nhau bao giờ cũng lớn hơn cái giống nhau (cf. DS 806). Cho dù hoàn toàn khác nhau giữa Đấng Hóa Công và tạo vật, vẫn có một cái giống nhau giữa hữu thể được tạo dựng và hữu thể Hóa Công, những gì giúp chúng ta nói bằng ngôn ngữ loài người về Thiên Chúa.
Thánh Thomas chẳng những đã đặt giáo điều về sự tương tự trên các lập luận thuần triết học, mà còn trên sự kiện được chính Thiên Chúa tỏ ra cho chúng ta và vì thể cho chúng ta thẩm quyền nói về Ngài. Tôi cho rằng cần phải nhắc lại giáo điều n ày. Thật vậy, nó giúp chúng ta thắng vượt được một số chống đối của thuyết vô thần hiện đại đang chối bỏ là ngôn từ về tôn giáo được cung cấp với một ý nghĩa khách quan và thay vào đó lập luận rằng nó chỉ có một giá trị chủ quan hay chỉ thuần cảm xúc mà thôi. Việc chống đối này xuất phát từ sự kiện là ý nghĩ về thực chứng tin rằng con người không biết hữu thể mà chỉ biết được những tác hành của thực tại có thể cảm nghiệm được. Với Thánh Thomas và đại truyền thống về triết lý, chúng ta tin rằng thực sự con người chẳng những biết được các tác hành, đối tượng của các khoa học tự nhiên, mà còn biết được một cái gì đó về chính hữu thể nữa – chẳng hạn, biết được con người, Cái Tôi của người khác, chứ không phải chỉ có khía cạnh thể lý và sinh lý của hữu thể.
Theo chiều hướng giáo huấn này của Thánh Thomas thì thần học cho thấy rằng, cho dù bị giới hạn đi nữa, ngôn ngữ tôn giáo cũng mang một ý nghĩa – vì nó chạm được cái là – như một mũi tên hướng tới thực tại được nhắm tới. Cái hòa hợp căn bản này giữa lý trí của con người với đức tin Kitô giáo được nhận thấy nơi một nguyên tắc căn bản khác của tư tưởng Thánh Thomas, đó là ân sủng thần linh không hủy hoại mà là xây dựng trên và kiện toàn bản tính tự nhiên của con người. Bản tính tự nhiên này, thậm chí sau khi xẩy ra tội lỗi vẫn không hoàn toàn bị băng hoại mà chỉ bị tổn thương và trở nên yếu kém thôi. Ân sủng được Thiên Chúa ban và thông đạt qua mầu nhiệm của Lời Nhập Thể, là một tặng ân hoàn toàn nhưng không nhờ đó bản tính được chữa lành, được kiên cường và trợ giúp trong việc theo đuổi ước muốn bẩm sinh mong được hạnh phúc nơi tâm can của hết mọi con người nam nữ. Tất cả mọi tài năng của hữu thể con người đều được thanh tẩy, biến tạo và thăng hoa bởi ân sủng thần linh.
Một áp dụng quan trọng về mối liên hệ này giữa bản tính tự nhiên và ân sủng đã được nhận thấy nơi luân lý thần học của Thánh Thomas Aquinas, một khoa luân lý thần học rất hợp thời. Ở tâm điểm của giáo huấn mình về lãnh vực này, ngài đã nêu lên một luật mới, đó là Ân Sủng Thánh Linh được ban cho những ai tin vào Chúa Kitô. Giáo huấn thành văn và truyền khẩu về các chân lý tín lý và luân lý được Giáo Hội truyền đạt liên kết với Ân Sủng này. Khi nhấn mạnh tới vai trò nền tảng nơi đời sống luân lý của tác động Thánh Linh, của Ân Sủng, từ đó xuất phát các nhân đức đối thần và luân lý, Thánh Thomas giúp chúng ta hiểu rằng tất cả mọi Kitô hữu đều có thể đạt tới những viễn ảnh cao cả của “Bài Giảng Trên Núi”, nếu họ sống mối liên hệ đích thực của đức tin trong Chúa Kitô, nếu họ cởi mở trước tác động của Thánh Linh. Tuy nhiên, Thánh Thomas thêm, “cho dù Ân Sủng có công hiệu hơn bản tính tự nhiên thì bản tính tự nhiên vẫn là những gì thiết yếu hơn cho con người và vì thế kéo dài hơn” (Summa Theologica, Ia, q. 29, a. 3), đó là lý do tại sao, theo quan điểm luân lý Kitô giáo, có một chỗ đứng cho lý trí, một lý trí có thể nhận thức được luật luân lý tự nhiên. Trong khi lý trí có thể nhận ra điều ấy khi nhận thấy những gì là đúng và những gì cần tránh né để đạt được hạnh phúc là những gì thân thương với hết mọi người, và đồng thời cũng áp đặt một trách nhiệm đối với kẻ khác, và vì thế tiến đến việc tìm kiếm công ích. Nói cách khác, các nhân đức nhân bản, thần đức và luân đức, đều được bắt nguồn nơi bản tính của con người. Ân sủng thần linh là những gì đi kèm theo, nâng đỡ và phấn khích việc dấn thân về đạo lý, thế nhưng, tự mình, theo Thánh Thomas, tất cả mọi người, thành phần tín ngưỡng hay vô tín ngưỡng, đều được kêu gọi nhận biết các nhu cầu của bản tính con người được bày tỏ nơi luật tự nhiên và được luật này hướng dẫn khi hình thành luật thực tiễn, chẳng hạn những luật lệ được các thẩm quyền dân sự và chính trị ban hành để điều hành cuộc chung sống của nhân loại.
Một khi luật tự nhiên cùng với các trách nhiệm kèm theo bị chối bỏ là lúc mở đường một cách thê thảm cho chủ nghĩa tương đối về đạo lý nơi cá nhân cũng như tình trạng độc đoán của Quốc Gia nơi bình diện chính trị. Việc bênh vực các thứ nhân quyền phổ quát và việc khẳng định giá trị tuyệt đối của phẩm vị con người là những gì đòi phải có một nền tảng. Không phải luật tự nhiên là những gì cấu tạo nền tảng này cùng với những thứ giá trị bất khả thương lượng được nó ấn định hay sao? Đấng Đáng Kinh Gioan Phaolô II đã viết trong Thông Điệp Phúc Âm Sự Sống của mình những lời lẽ vẫn còn hiện đại: “Bởi thế, thật cần thiết cho tương lai của xã hội và việc phát triển của một nền dân chủ lành mạnh, trong việc tái nhận thức việc hiện hữu của những giá trị nhân bản và luân lý thiết yếu và bẩm sinh xuất phát từ sự thật về con người, và bày tỏ cùng bảo toàn phẩm vị của con người: các thứ giá trị không một cá nhân nào, không một đa số nào và không một Quốc Gia nào có thể tạo dựng, cải tiến hay hủy hoại, nhưng chỉ phải nhìn nhận, tôn trọng và cổ võ” (khoản 71).
Tóm lại, Thánh Thomas nêu lên một quan niệm bao rộng và tin tưởng về lý trí con người: bao rộng vì nó không bị giới hạn vào những lãnh vực được gọi là lý trí khoa học thực nghiệm, nhưng hướng về tất cả mọi hữu thể và vì thế là những vấn đề nền tảng và bất khả chuyển nhượng của sự sống con người, và tin tưởng vì lý trí con người, nhất là khi đón nhận tác động của đức tin Kitô giáo, l à một phát động viên của một thứ văn hóa nhìn nhận phẩm giá, nhìn nhận tính chất bất khả vi phạm của các quyền lợi cùng với những nhiệm vụ kèm theo. Không lạ gì giáo huấn về phẩm giá con người, nền tảng cho việc nhìn nhận tính chất bất khả vi phạm của các thứ nhân quyền, đã được khai triển ở các trường phái tư tưởng chấp nhận di sản của Thánh Thomas Aquinas, vị đã có một quan niệm rất cao cả về loài người. Ngài đã gọi nó, bằng ngôn ngữ triệt đệ triết lý của mình, như “cái gì hoàn hảo nhất nơi tất cả thiên nhiên tạo vật, tức là một con người sinh tồn có một bản tính hữu lý” (Summa Theologica, Ia, q. 29, a. 3).
Chiều sâu của tư tưởng Thánh Thomas Aquinas – chúng ta đừng bao giờ quên rằng – tuôn ra một cách sống động bởi đức tin của ngài và lòng đạo đức sốt sắng của ngài, những gì được thể hiện nơi những lời nguyện cầu như lời cầu nguyện được ngài dâng lên Thiên Chúa như sau: “Ôi Chúa là Thiên Chúa của con, xin hãy cho con một trí khôn để biết Chúa, một con tim để tìm kiếm Chúa, một đức khôn ngoan để thấy Chúa, một tác hành làm hài lòng Chúa, một lòng kiên trì đợi chờ Chúa và một niềm hy vọng để cuối cùng được chiếm hữu Chúa”.
tải về 89.5 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6   7




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương