Những trang sách suốt đời đi vẫn nhớ/ Như đám mây ngũ sắc ngủ trong đầu



tải về 27.38 Kb.
trang1/3
Chuyển đổi dữ liệu10.11.2023
Kích27.38 Kb.
#55612
  1   2   3
BÀ CỤ TỨ TRONG NGÀY ĐÓI


"Những trang sách suốt đời đi vẫn nhớ/ Như đám mây ngũ sắc ngủ trong đầu" - có những tác phẩm chẳng thể hấp dẫn ta đọc đến trang cuối cùng, nhưng có những tác phẩm đọc đến trang cuối cùng vẫn còn đọng lại biết bao dư âm sâu lắng, ám ảnh khôn nguôi. Dư âm ấy khi như men say, mật ngọt khiến ta cảm nhận từng dòng chảy hân hoan, hạnh phúc trong tâm hồn, khi lại như móng vuốt sắc nhọn của một con vật nào đó chạm nhẹ trái tim ta, khiến ta thổn thức, nhói đau. Sức truyền cảm của một tác phẩm thực sự, bao giờ cũng lắng sâu như thế. "Vợ nhặt " của Kim Lân là một tác phẩm mang đến nhiều dư âm trong lòng người đọc. Đúng như Hà Minh Đức trong Nhà văn nói về tác phẩm đã viết: "Kim Lân là một trong những cây bút truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại. Kim Lân đã tạo được cách viết độc đáo. Phải nói rằng Kim Lân viết không nhiều, nhưng sáng tác của ông đã gây ấn tượng với bạn đọc". Cả tác phẩm "Vợ nhặt" nói chung và đoạn kết truyện với hình ảnh bà mẹ già bên nồi cháo cám thực sự để lại những ấn tượng khó quên:".. Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại. Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo [..] Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy".
Kim Lân (1920 – 2007), tên thật là Nguyễn Văn Tài. Giống như tên gọi, ông là người có tài và đã phát lộ tài năng ở lĩnh vực văn chương mặc dù sự nghiệp học hành phải dang dở vì nhà nghèo. Bắt đầu viết văn và có tác phẩm đăng báo từ những năm 1941-1944, Kim Lân được coi là nhà văn thành công về đề tài nông thôn với những con người bé nhỏ và cam phận, những vẻ đẹp chân quê bình dị và những phong tục tập quán độc đáo của làng quê Bắc bộ. Từng trang viết của nhà văn sinh ra từ đồng ruộng này đều như mang trong đó mùi của rơm rạ, khói bếp, lúa đồng, mùi của cuộc sống nông thôn cơ cực, nhọc nhằn..
"Vợ nhặt" được viết lên mang cái tình của Kim Lân dành cho những người nông dân nghèo khổ, lam lũ mà chất phác, yêu đời. Nhân vật chính của truyện là anh cu Tràng. Hắn là một anh chàng kéo xe thuê nghèo khổ, lại là dân ngụ cư. Gia cảnh Tràng neo đơn, nhà chỉ còn hai mẹ con nương tựa vào nhau. Hắn có ngoại hình xấu xí, thô kệch, tính tình lại có chút ngốc nghếch. Giữa những ngày đói khủng khiếp của năm Ất Dậu, hắn bỗng dưng "nhặt" được vợ chỉ qua hai lần gặp gỡ và mấy bát bánh đúc. Hắn đưa vợ về nhà trong sự ái ngại những người dân xóm ngụ cư, trong trạng thái ngạc nhiên, ngỡ ngàng của bà mẹ hắn – bà cụ Tứ.
Trong ba nhân vật của truyện, thì cụ Tứ là người già cả nhất, xuất hiện muộn nhất, nhưng lại là nhân vật khiến cho vẻ đẹp của tình người, vẻ đẹp của đạo lí, vẻ đẹp của tinh thần lạc quan.. tỏa sáng hơn cả. Với nhan đề "Vợ nhặt", truyện có thể kết thúc ở chi tiết Tràng dẫn người vợ về nhà. Nhưng sự phát triển phần sau của truyện với sự xuất hiện của bà cụ Tứ đã khiến cho tác phẩm thêm chiều sâu lớn lao về giá trị tư tưởng.
Nghịch cảnh éo le trong cuộc hôn nhân của con trai đã khiến cho bà cụ Tứ rơi vào chấn động tâm lí lớn. Vượt qua tất cả những âu lo, phiền muộn, cụ Tứ vui vẻ chấp nhận nàng dâu mới với suy nghĩ có lẽ đó là cái may của con trai mình. Buổi sáng đầu tiên sau khi con có vợ, cụ đã cùng nàng dâu dậy sớm quét tước nhà cửa và chuẩn bị bữa sáng. Chi tiết bữa cơm đón dâu mới nằm ở cuối truyện nói lên rất nhiều về cảnh ngộ cũng như vẻ đẹp của nhân vật bà cụ Tứ.
"Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại. Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo.."
Câu văn trên phần nào mang đến những cảm nhận xót xa về cảnh ngộ đáng thương của cụ Tứ nói riêng, của biết bao người dân nghèo Việt Nam nói chung trong năm đói Ất Dậu. Đói đến thê lương, thảm khốc. Đói đến nỗi người chết thì như ngả rạ, người sống cũng dật dờ như những bóng ma. Đói đến phải bán cả con, cả chó, cả sữa như chị Dậu. Đói đến phải ăn bả chó tự tử như lão Hạc. Đói đến phải ăn cả đất sét và bèo tây để lấp dạ, và phải chết vì "một bữa no".. Cụ Tứ cũng là nạn nhân của cái đói. Nên bữa ăn mừng dâu mới, cụ chẳng thể lo nổi "dăm ba mâm" như người ta. Cụ chỉ có thể đãi các con rau chuối, và cháo loãng ăn với muối.
Có bữa cơm mừng tân nương nào lại "thảm hại" đến thế chăng? Thảm hại đến mức: "Niêu cháo lõng bõng, mỗi người được có lưng lưng hai bát đã hết nhẵn" khiến cụ Tứ, để kéo dài bữa ăn, phải chuẩn bị thêm nồi chè khoán, nhưng thực chất cũng chỉ là cháo cám đắng chát. Có ai đón dâu bằng cháo cám như cụ - một món ăn vốn dành cho con vật? Thật đáng thương! Và dù cụ có tỏ ra "tươi cười", "vui vẻ" đến đâu, có cố giấu bớt đi phần khắc nghiệt của hiện thực, Kim Lân vẫn không che giấu sự thật đầy xa xót khi đem đến cho người đọc chi tiết ánh mắt chị con dâu thoáng "tối lại" và nét mặt anh con trai thì "chun ngay lại" khi đón bát cháo trên tay người mẹ nghèo.
Niềm vui của bà cụ Tứ vì thế cũng chỉ là niềm vui tội nghiệp. Cảnh cơ hàn vẫn ám ảnh, bủa vây cụ và các con, khiến họ chẳng thể vui trọn vẹn trong ngày đại hỷ của đời người.
Bữa cơm mừng dâu mới như một nét vẽ cuối cùng hoàn tất bức tranh thê thảm của nạn đói năm Ất Dậu, trong đó có những nạn nhân đáng thương như cụ Tứ.
"Một nghệ sĩ chân chính phải là nhà nhân đạo từ trong cốt tủy", T. Sekhop đã từng khẳng định như vậy. Nhà văn, bên cạnh việc phải phản ánh chân thực bức tranh cuộc sống và con người, còn cần phải đưa vào trong tác phẩm của mình, tình cảm, suy nghĩ và quan điểm của mình về cuộc đời, về con người. Đó là giá trị nhân đạo của tác phẩm.
Vậy nên, với tấm lòng nhân hậu sâu sắc dành cho các nhân vật của mình, Kim Lân không dừng lại ở việc miêu tả khía cạnh đáng thương của hiện thực. Qua sự thể hiện của nhà văn, chi tiết trên là cơ hội, là tình huống vô song để vẻ đẹp phẩm chất của nhân vật vút lên giữa cảnh cơ hàn.
Cụ Tứ vì thế không chỉ được khắc họa ở khía cạnh nạn nhân của cái đói, mà còn được tô đậm ở vẻ đẹp của tình mẫu tử thiêng liêng, tình người nhân hậu, và đặc biệt là lòng lạc quan, yêu đời, là nghị lực tinh thần vượt lên trên hoàn cảnh.
Thực ra, tình mẫu tử, lòng thương người của cụ Tứ, không phải đến chi tiết này mới bộc lộ. Ngay từ lúc cụ lọng khọng bước vào câu chuyện, rồi đi từ ngạc nhiên đến vỡ lẽ và mừng tủi.. khi anh con trai kể lại tình huống nhặt vợ của mình, người đọc đã cảm nhận sâu sắc tấm lòng người mẹ nghèo dành cho các con. Cụ đã vượt lên trên nỗi lo lắng về cái đói, cái chết, đã đánh cược với sự rủi ro để chấp nhận dâu mới, vui mừng cho hạnh phúc của con trai. Và tình yêu thương, tình người cao cả của cụ đã thôi thúc cụ có những hành động, thái độ thật nhân văn không chỉ buổi chiều hôm trước, mà cả buổi sáng hôm sau.
Thương con, thương dâu, cụ dậy sớm quét tước nhà cửa và chuẩn bị bữa sáng cho các con, dù đạm bạc, dù chỉ có rau chuối, cháo loãng, và cuối cùng là cháo cám chát nghẹn.. nhưng gửi gắm trong đó tất cả tấm lòng của người mẹ nghèo. Tâm trạng vui vẻ của cụ suốt bữa ăn, có thể chỉ là một sự cố gắng, nhưng chẳng phải đáng trân trọng lắm sao? Chẳng phải vì thương các con mà cụ không muốn các con buồn tủi bởi cảnh nghèo đó sao? Tạo không khí vui vẻ trong gia đình, cũng là một cách để thể hiện tình yêu thương dành cho những người yêu quý. Cụ già cả nhất nhưng cũng là sâu sắc, thấu hiểu nhất. Cụ biết, hiện thực nghiệt ngã, cái đói cứ đeo bám nhưng cụ vẫn động viên, an ủi, vun vén cho hạnh phúc của đôi vợ chồng trẻ. Đó là điều mà không phải người mẹ nào cũng có thể can đảm nghĩ để có những lời động viên đến các con mình. Chính tấm lòng này của người mẹ khiến cho Tràng và người vợ mới thêm nhẹ lòng, không bị ám ảnh bởi cái đói quá nhiều.
Phải là người giàu tình yêu, tình thương, cụ Tứ mới có thể nén tiếng thở dài, có thể san sẻ miếng ăn cho người xa lạ và có cách ứng xử đầy nhân văn như thế. Ta xót xa cho cảnh nghèo của cụ, nhưng cũng yêu quý cụ biết bao bởi tấm lòng đôn hậu, ấm áp ấy.
Điều khiến người đọc vô cùng khâm phục ở người mẹ nghèo này, chính là nghị lực sống phi thường, là niềm lạc quan, yêu đời, tin tưởng vào tương lai.
Trong ba nhân vật, người hi vọng vào tương lai nhiều hơn cả là bà cụ Tứ. Điều ấy tưởng như trái với quy luật tâm lí người đời từng tổng kết: Tuổi trẻ hay hướng đến tương lai còn người già hay nhìn về quá khứ. Vậy mà người mẹ già lọng khọng gần đất xa trời này lại là người sống cho con và cũng hi vọng cho con.
Sau những buồn tủi, lo âu, xót thương, bà cụ Tứ cháy lên niềm hi vọng về tương lai cho các con của mình.
Bà nghĩ đến chuyện đan phên để ngăn riêng chỗ ở cho vợ chồng Tràng (chi tiết này đã lược đi trong đoạn trích). Một khi còn hi vọng, người ta sẽ không chấp nhận sự tạm bợ. Đó cũng là lí do để cụ Tứ và con dâu thu dọn quét tước nhà cửa với hi vọng khi nhà cửa trở nên gọn gàng ngăn nắp thì cuộc đời có thể khác đi, làm ăn có cơ khấm khá hơn.
Cụ Tứ còn nói đến chuyện nuôi gà và tưởng tượng "ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem.." . Dù bữa cơm ngày đói trông thật "thảm hại'" nhưng tâm trạng của cụ lúc này vui vẻ lạ thường. Trong bữa cơm, cụ nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau.
Để kéo dài bữa ăn và như muốn dành một món quà bất ngờ cho các con cụ Tứ nhìn hai con rất vui vẻ, rồi úp mở đầy bí mật "Chúng mày đợi u nhá. Tao có cái này hay lắm cơ" . Sau đó cụ tất tả xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút. Cầm cái môi vừa khuấy, cụ vừa cười: "Chè đây! Chè khoán đây, ngon đáo để cơ" . Cụ gọi nồi cháo cám "đắng chát" là "chè khoán", còn rối rít khen "ngon đáo để". Làm sao cháo cám có thể ngon? Nhưng sự vui vẻ và niềm tin vào hạnh phúc của các con đã khiến cho bà mẹ biến đắng chát thành ngọt ngào. Đúng là, "những người đói, họ không nghĩ đến cái chết mà nghĩ đến cái sống".
Để các con đỡ tủi thân, cụ còn an ủi động viên con trai và nàng dâu: "Cám đấy mày ạ! Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà chả có cám mà ăn đấy!" . Cụ không nói về cháo cám như một món ăn dành cho con lợn, con gà, mà cụ nói đến nó như một sự may mắn của gia đình khi nhiều nhà còn không có cả cám để ăn qua nạn đói. Bà mẹ ấy, trước sau, vẫn nhìn mọi thứ ở góc nhìn tươi sáng, lạc quan. Góc nhìn mà không phải ai cũng có được, nhất là khi họ phải đối diện với cái chết ập đến bất cứ lúc nào. Cụ Tứ thật đáng trân trọng, khâm phục ở nghị lực sống phi thường.
Hàng loạt những từ ngữ miêu tả cảm xúc vui vẻ, cùng những lời thoại của cụ Tứ trong đoạn văn đã khiến người đọc như được vui lây bởi niềm vui của người mẹ nghèo trong ngày đại sự của các con. Như vậy, giữa không gian ảm đạm của nạn đói, vẻ đẹp của tình người, vẻ đẹp của lòng yêu đời, ham sống.. ở nhân vật bà cụ Tứ vẫn vút lên lan tỏa những giá trị nhân văn cao đẹp.
Đoạn văn ghi nhận những thành công của Kim Lân ở việc lựa chọn chi tiết tiêu biểu, nhất là chi tiết nồi cháo cám cảm động, gây sức ám ảnh mãnh liệt. Mặt khác, cách kể chuyện tự nhiên, hấp dẫn, cách dựng đối thoại và ngôn ngữ nhân vật đậm chất dân dã, thôn quê.. cũng tạo nên những nét đặc sắc về phương diện nghệ thuật của đoạn văn kết truyện này.
Qua việc khắc họa chân dung nhân vật bà cụ Tứ trong đoạn văn trên, Kim Lân đã bộc lộ niềm cảm thông sâu sắc trước hiện thực thê thảm của người nông dân trong nạn đói. Đồng thời, nhà văn còn thể hiện cách nhìn của mình về vẻ đẹp của người lao động . Ông đã phát hiện ra những vẻ đẹp đáng quý của họ ngay cả khi rơi vào hoàn cảnh khốn cùng nhất. Chính nhà văn đã từng giãi bày: "Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới cuộc sống, vẫn hi vọng, vẫn tin tưởng vào tương lại. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người".

🌿 𝐓𝐓𝐒 - Gợi ý kết bài nâng cao về nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm “Vợ nhặt” ❤️


𝟏. Svetlana Alexievich - nhà văn đoạt giải Nobel văn học năm 2015 từng có một câu nói mà tôi rất tâm đắc: “Ký ức không chỉ là kiến thức, ký ức còn là cảm xúc”. Từ ký ức và sự thấu hiểu tâm lí người nông dân, từ phông nền hiện thực u ám của nạn đói, thông qua nhân vật bà cụ Tứ, nhà văn Kim Lân đã nói lên khát vọng, ước mơ cao đẹp của những người dân nghèo trong hoàn cảnh tăm tối. Từ đó, ông bày tỏ lòng trân trọng những phẩm chất tốt đẹp ở con người, những niềm thương, những bao dung cao quý của người mẹ Việt Nam. Đó cũng chính là biểu hiện của tấm lòng nhân đạo sâu sắc của nhà văn. Có thể nói, Kim Lân đã thành công xây dựng diễn biến tâm lí nhân vật sinh động, chân thực, nói lên phong cách văn chương độc đáo của riêng mình, để lại cho hậu thế những tác phẩm đặc sắc, có sức sống lâu dài, làm giàu có thêm văn chương Việt, tâm hồn Việt.
𝟐. Lỗ Tấn đã từng viết trong "Cố hương": “Trên thế gian này làm gì có đường mòn. Người ta đi mãi thì thành đường thôi…”. Trên “con đường mòn” của chủ nghĩa hiện thực, Vợ nhặt của Kim Lân như một sự tiếp nối tất yếu của những tác phẩm hiện thực phê phán của Nam Cao, Tô Hoài từ trước Cách mạng tháng Tám. Cảnh đời cũng vẫn là tối tăm, ngột ngạt, nhưng nhân vật của Kim Lân đã có được niềm tin và hi vọng vào cuộc sống. Ở mảng đề tài quen thuộc về nạn đói, Kim Lân đã khai mở lối đi riêng, ông hướng tới khám phá vẻ đẹp khỏe khoắn, đôn hậu, chất phác trong tâm hồn những người nông dân. Thông qua nhân vật bà cụ Tứ, Kim Lân đã phát hiện và trân trọng những vẻ đẹp tâm hồn của người mẹ nông dân nghèo khổ nhưng giàu lòng thương con, giàu tình thương người, giàu đức hi sinh và sự vị tha trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Trong bế tắc, trong tuyến đường cùng cực mà đói khổ bủa vây, bà đã thắp nên niềm hy vọng, tinh thần lạc quan để hướng về phía chân trời tươi đẹp ở tương lai.
𝟑. Nhà văn Albert Camus - người luôn đi tìm bản thể của con người và luôn tin rằng con người có thể có hạnh phúc dù cuộc đời phi lý đến đâu đã nêu lên quan điểm của mình: “Tôi không thấy việc sáng tạo nghệ thuật như là một thú vui trong cô đơn. Nó là một phương tiện làm mủi lòng tuyệt đại đa số con người bằng cách trao cho họ một hình ảnh thiên vị nói lên những niềm vui và những nỗi đau người”. Văn học phải gắn bó chặt chẽ với cuộc sống, hướng về con người và thể hiện bằng tất cả tâm huyết và tài năng của người cầm bút. Với truyện ngắn "Vợ nhặt", đặc biệt qua nhân vật bà cụ Tứ, nhà văn Kim Lân đã "nói lên niềm vui và những nỗi đau người" của người mẹ nhân hậu, giàu đức hi sinh giữa nạn đói khốn cùng. Đồng thời, thông qua nhân vật này, nhà văn đã nêu cao một lối sống đẹp: Cuộc sống dù có bi thảm đến đâu thì cội nguồn nhân văn, nhân bản lưu giữ trong con người vẫn là điều bất diệt. Bà cụ Tứ chính là hình ảnh đẹp đẽ nhất, đại diện tiêu biểu cho hàng triệu bà mẹ Việt Nam, để rồi, dù thời gian mải miết trôi đi, hình tượng người mẹ ấy vẫn luôn được nhớ về như một biểu trưng cho trái tim, phẩm giá của một người mẹ tuyệt vời.

𝐓𝐓𝐒 - Về “bữa cơm ngày đói” trong truyện ngắn “Vợ nhặt” ❤


Kim Lân là một trong những nhà văn hướng ngòi bút của mình về với cội nguồn cuộc sống nông thôn thuần hậu nguyên thủy. Đến với “Vợ nhặt”, ta bắt gặp tình cảm nhân đạo xót xa trên từng trang viết của văn nhân. Đó là khung cảnh của nạn đói bao trùm, là tình huống nhặt vợ éo le, thương cảm. Đó còn là hình ảnh nồi cháo cám hiện hữu ngay giữa tác phẩm – nơi những con người khốn khổ ấy vẫn mong mỏi một cái gì tươi sáng “lóe” lên ngay trong cuộc sống tăm tối của họ. “Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại… Bà lão không dám để con dâu nhìn thấy bà khóc.” Đoạn trích vừa là áng văn xúc cảm về tình người đầm ấm, vừa là điểm sáng trong cách khai thác chiều sâu hiện thực và giá trị nhân đạo của nhà văn Kim Lân.
“Vợ nhặt” là tác phẩm xuất sắc của nhà văn Kim Lân, trích trong tập “Xóm ngụ cư”. Bối cảnh toàn bộ thi phẩm diễn tả hiện thực đời sống người nông dân Việt Nam những năm 1945. Tuy nhiên, chỉ đến khi hòa bình lập lại, năm 1954, “Vợ nhặt” mới chính thức được ra mắt bạn đọc, trở thành “đứa con đẻ” tinh thần của Kim Lân. Khi đọc “Vợ nhặt”, người đọc sẽ chẳng thể nào quên không khí vương vẩn của cái đói, cái nghèo trong bữa ăn đầu tiên đón nàng dâu mới. Đoạn trích thuộc phần giữa tác phẩm cũng như là một trong những đoạn văn viết về người nông dân thành công nhất của Kim Lân.
M.Gorki đã từng nói: “Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”. Nếu chi tiết chiếc lá cuối cùng trong tác phẩm của O.Henri được coi là yếu tố “kiến tạo” nên tương hiệu của nhà văn, nếu Nam Cao để lại dấu ấn trong lòng bạn đọc với chi tiết bát cháo hành thì nhà văn Kim Lân lại khéo léo xây dựng, thể hiện chân thực chi tiết nồi cháo cám – hình ảnh “gieo” vào lòng người đọc biết bao thương nhớ, ám ảnh tột cùng của cái nghèo, cái đói bủa vây. Lời văn của Kim Lân dẫn ta vào bữa ăn đón nằng dâu mới với bao chân thực: “Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại. Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo”. Hai chữ “thảm hại” như đã nói lên tất cả: sự nghèo đói, thiếu thốn, sự cơ cực và bần cùng hóa! Trong bữa cơm ấy, ấn tượng day dứt trong tôi về hình ảnh “cái mẹt rách” hiện lên thật đau đớn, xót xa. Ấy là hình ảnh nồi cháo cám được đặt ở giữa cái mẹt rách, ăn kèm là món rau chuối thái rối cùng một đĩa muối. Niêu cháo “lõng bõng”, khi ấy mỗi người “được có lưng lưng hai bát đã hết nhẵn”. Miêu tả chân thực cảnh bữa cơm ngày đói, dường như Kim Lân đã thổi vào trong trang văn luồng gió nặng trĩu xúc cảm xót thương thật mạnh mẽ. Theo truyền thống văn hóa của người Việt Nam, bữa cơm đầu tiên gia đình đón nàng dâu mới thường có sự xuất hiện của những món ăn dân tộc truyền thống, thêm vào đó là sự chuẩn bị chu đáo, kĩ lưỡng. Thế nhưng, điều mà nhà văn muốn nói ở đây không phải mâm cao cỗ đầy hay giá trị vật chất thịnh soạn, nhân văn muốn nhấn mạnh vẻ đẹp quý giá của tình người dẫu trong cơ cực, thiếu thốn. Niêu cháo tuy ít ỏi và không đủ no nhưng đó là thức quà, là bữa cơm duy trì sự sống cho mỗi thành viên trong gia đình. Và vào miệng những miếng cháo “lõng bõng” ấy, điều còn lại chính là giá trị của tình thương, của hạnh phúc gia đình đầm ấm. Để không khí gia đình thêm phần vui vẻ, bà cụ Tứ đã đặt cái nồi xuống bên cạnh mẹt cơm, cầm cái môi vừa khuấy khuấy vừa cười: “Chè khoán đây, ngon đáo để cơ”. Bát chè khoán tuy bình dị, dân giã và thiếu thốn với những miếng cháo nghẹn ứ cả cổ họng, thế nhưng mọi thành viên trong gia đình vẫn đón nhận món ăn ấy bằng sự vui vẻ, phấn khởi. Khi miêu tả hình ảnh bát chè khoán, Kim Lân còn khai thác bên cạnh đó chi tiết “đám mây đen” và “đàn quạ bay vù lên”. Điều đó thể hiện một hiện thực còn khốn cùng hơn cả hiện thực. Ánh đen của bóng tối, của màn đêm đang chìm vào không khí nơi đây, màu đen của cái đói, màu đen của sự ngột ngạt chìm trong chết chóc. Như vậy, Kim Lân đã thành công khi miêu tả cảnh bữa cơm ngày đói đón nàng dâu mới, đoạn văn còn bao trùm cả hiện thực nghèo đói, xác xơ trên từng nét chữ.
Người nghệ sĩ chân chính trên hành trình tìm kiếm cái đẹp không tách rời với hiện thực phong phú. Văn phong của Kim Lân ánh lên trong đó cái đẹp của tình người, tình đời sâu sắc. Trước một hiện thực khốn cùng – “cái đói đã tràn đến xóm này từ lúc nào”, những con người trong câu chuyện của nhà văn dường như thấu hiểu được điều đó, họ không tủi phận mà họ thương cho chính phận đời rẻ rúng của mình. Trong bữa cơm, bà cụ Tứ luôn nhắc đến chuyện làm ăn, gia cảnh với con dâu. Bà lão nói toàn những chuyện vui, “toàn chuyện sung sướng về sau này”. Với tư cách là một bà mẹ đã gần đất xa trời, bà lão mong muốn lan tỏa niềm vui, năng lượng tích cực đến các con, mong một tương lai tươi sáng sau này. “Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà. Tao tin rằng chỗ bếp kia làm chuồng gà thì tiện quá”. Sâu thẳm trong lời nói của bà, người đọc dường như thấm thía bao suy tư, nỗi lòng của người mẹ: thương và lo lắng cho các con. Cả cuộc đời mẹ tần tảo, hi sinh vì những đứa con yêu dấu, tâm nguyện lớn nhất của người làm cha, làm mẹ suy cho cùng là mong các con khôn lớn, trưởng thành, biết lo nghĩ cho cuộc sống sau này. Câu chuyện đàn gà cũng chính là sự kì vọng, tin tưởng vào tương lai tươi sáng của bà cụ. Không chỉ vậy, người mẹ ấy còn dành tình cảm mến yêu, thương xót cho Tràng và con dâu. Bà lão mang ra giữa nhà bát chè khoán dành cho các con. Chi tiết nhỏ bé ấy lại là sự thể hiện lớn lao của bà cụ. “Người mẹ vẫn tươi cười, đon đả”, lấy từng bát chè khoán đưa cho Tràng và thị. Thế nhưng, đằng sau nụ cười hồn hậu ấy là gì? Phải chăng phía sau vẻ bề ngoài luôn tỏ ra mạnh mẽ, vui vẻ của bà cụ Tứ lại là một nỗi lòng thầm kín? Bà lão đã khóc khi Thị hỏi về tiếng trống thúc thuế. “Bà lão không dám để con dâu nhìn thấy bà khóc”. Bởi tiếng trống thúc thuế ấy ẩn chứa biết bao nỗi đau trong tâm can bà cụ. “Đằng thì nó bắt trồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế. Giời đất này không chắc đã sống qua được đâu các con ạ”. Như vậy, nhân vật bà cụ Tứ vừa là hiện thân của hình ảnh người mẹ tần tảo, hi sinh vì con, vừa là con người nhạy bén, sâu sắc, giàu lòng yêu thương và chan chứa nỗi đau đất nước bị xâm lược.
Nghệ thuật là câu trả lời độc đáo của cái đep, chỉ riêng mình nó không thừa nhận cái chết. Trang văn viết về hiện thực éo le của Kim Lân vẫn sống mãi trong lòng người đọc trước hết bởi tài năng xây dựng tình huống truyện bất ngờ, lối viết đi sâu vào miêu tả tâm lý, nội tâm nhân vật sâu sắc. Đặc biệt, chi tiết nồi cháo cám là một sáng tạo đầy tài tình của Kim Lân. Bên cạnh đó, ta còn xúc động, ám ảnh trước phong cách viết truyện, ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, gần gũi với đời sống nông thôn. Bởi vậy mà có nghệ sĩ đã từng nói: “Kim Lân là nhà văn một lòng đi về với trời, với đất, với thuần hậu nguyên thủy nông thôn”
“Vợ nhặt” là tác phẩm mà Kim Lân đã dụng công sáng tạo giá trị hiện thực và nhân đạo thấm đẫm trong trang văn bình dị ấy. Grandi từng cho rằng: “Không có nghệ thuật nào là không hiện thực”. Ngòi bút xúc cảm của nhà văn vẫn tuôn trào những “giọt máu” của cuộc sống hiện thực éo le, bi kịch. Kim Lân đã trực tiếp thể hiện sự cùng cực của cái đói, cái nghèo đeo bám con người tới hơi thở cuối cùng. Đó là bức tranh hiện thực của nạn đói khủng khiếp đã cướp đi sinh mệnh hơn hai triệu đồng bào ta. Đó là chi tiết nồi cháo cám ám ảnh, xúc động mà chân thực đến da diết. Điểm mới trong giá trị hiện thực được thể hiện ở cách khai thác đề tài, nhà văn hướng con người đến tương lai tươi sáng, từ hiện thực đói khổ ấy mà con người tự giải thoát mình. Sê-khốp khi nói về văn học nghệ thuật từng cho rằng: “Nhà văn chân chính là nhà nhân đạo từ trong cốt tủy”. Giá trị nhân đạo thấm đẫm nơi trang viết của Kim Lân không chỉ thể hiện ở cái nhìn thương cảm, xót xa đối với mảnh đời bất hạnh, lên án sự tàn bạo, dã man của bọn thực dân mà qua đó, Kim Lân còn thể hiện tiếng nói của sự ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn của họ. Nhà văn đề cao giá trị của tình thương và khát vọng sống, mở ra cuộc sống tươi đẹp cho nhân vật của mình.
Đọc “Vợ nhặt”, ta thêm yêu, thêm trân trọng cuộc sống hiện tại. Hơi thở hiện thực trong ngòi bút của Kim Lân đã hướng con người đến với lẽ sống tình thương, tình người đầm ám. Bởi “Văn học là nhân học” (M.Gorki)

Tác giả: Kim Lân là cây bút xuất sắc chuyên viết truyện ngắn về đề tài nông thôn. Những sáng tác của ông phản ánh một cách chân thật, xúc động về cuộc sống và người dân quê mà ông am hiểu sâu sắc cảnh ngộ cũng như tâm lí của họ - những con người gắn bó tha thiết với quê hương và cách mạng. Một trong những sáng tác thuộc đỉnh cao của Kim Lân là truyện ngắn “Vợ nhặt”, tác phẩm vừa là bức tranh hiện thực về nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu, vừa là bài ca ca ngợi sức sống và niềm tin mãnh liệt của con người vào tương lai, vào Cách mạng, vào tình người.


Kim Lân được đánh giá là một trong những gương mặt xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại. Kim Lân sáng tác cả hai giai đoạn trước và sau Cách mạng, sở trường của ông là viết truyện ngắn. Ông là nhà văn chuyên viết về nông thôn và đồng bằng Bắc Bộ. Nhà văn Nguyên Hồng từng nhận xét:
tải về 27.38 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
  1   2   3




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương