Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho dân tộc ta một di sản vô giá, đó là tư tưởng của Người, trong đó có tư tưởng về đạo đức. Bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng ngời về đạo đức



tải về 20.58 Kb.
Chuyển đổi dữ liệu27.02.2022
Kích20.58 Kb.
#51000
tthcm
chương 1, TTHCM (KC). DE TAI

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho dân tộc ta một di sản vô giá, đó là tư tưởng của Người, trong đó có tư tưởng về đạo đức. Bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng ngời về đạo đức. Người để lại rất nhiều tác phẩm, bàinói, bài viết chuyên về đạo đức. Ngay trong tác phẩm lý luận đầu tiên Người viết để huấn luyện những người yêu nước Việt Nam trẻ tuổi, cuốn Đường Kách mệnh, vấn đề đầu tiên Người đề cập là tư cách người cách mệnh. Tác phẩm sau cùng bàn sâu về vấn đề đạo đức được Người viết nhân dịp kỷ niệm 39 năm ngày thành lập Đảng (3-2-1969), đăng trên báo Nhân dân là bài Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Trong Di chúc thiêng liêng, khi nói về Đảng, Bác cũng căn dặn Đảng phải rất coi trọng giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam đã được hình thành, phát triển trong suốt quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước; là sự vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng đạo đức cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đó là sự tiếp thu có chọn lọc và phát triển những tinh hoa văn hóa, đạo đức của nhân loại, cả phương Đông và phương Tây, mà Người đã tiếp thu được trong quá trình hoạt động cách mạng đầy gian lao, thử thách và vô cùng phong phú vì mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là một hệ thống các quan điểm cơ bản và toàn diện về đạo đức, bao gồm: vị trí, vai trò, nội dung của đạo đức; những phẩm chất đạo đức cơ bản và những nguyên tắc xây dựng nền đạo đức mới; yêu cầu rèn luyện đạo đức với mỗi người cách mạng. Tư tưởng tiên tiến ấy đã được hình thành trong nhà lãnh đạo vĩ đại của chúng ta từ những cơ sở : I. Cơ sở khách quan1. Bối cảnh lịch sử hình thành tư tưởng Hồ Chí Minha) Bối cảnh lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XXHồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh đất nước và thế giwosi có nhiều biến độngTrong nước chính quyền triều Nguyễn đã từng bước khuất phục trước cuộc xâm lược của tư bản Pháp, lần lượt ký các hiệp ước thừa nhận nền bảo hộ của thựcdân Pháp. Việt Nam trở thảnh nước thuộc địa nửa phong kiếnCác cuộc khai thác của thực dân Pháp khiến xã hội Việt Nam chuyển biến và phân hóa giai cấp tạo ra các mâu thuẫn xã hội. Tầng lớp tiểu tư sản và tư sản bắt đầu xuất hiện, tạo ra những tiền đề bên trong cho phong trào yêu nước giải phóng dân tộc Việt Nam đầu thế kỷ XX.Phong trào yêu nước diễn ra sôi nổi từ các sĩ phu yêu nước có tư tưởng tiến bộ, tiêu biểu, thức thời như : Phan Bội Châu chủ trương cầu ngoại viện, dùng bạo lực khôi phục độc lập; Phan Châu Trinh khai thông dân trí dần tính chuyện giải phóng theo chủ trương “ỷ Pháp cầu tiến bộ” ; còn con đườngcủa anh hung Hoàng Hoa Thám lại mang nặng cốt cách phong kiến, chưa phải là lối thoát rõ ràng, hướng đi đúng đắn nên các cuộc khởi nghĩa lần lượt thất bại. Đặt ra, phong trào yêu nước muốn thắng lợi phải đi theo một con đường mới.b) Bối cảnh thời đại.Chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn cạnh tranh tự do chuyển sang giai đoạn độc quyền, xác lập quyền thống trị của chúng trên phạm vi toàn thế giới. Lúc này chủ nghĩa đế quốc không chỉ dừng lại ở sự áp bức trong chính quốc mà đã mở rộng ra sự áp bức các dân tộc khác trên thế giới. Vì thế cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc không còn là hành động riêng lẻ nữa mà trở thành cuộc đấu tranh chung của dân tộc thuộc địa chóng đế quốc.Tư bản chủ nghĩa vẫn duy trì sự bóc lột trước kia. Bên cạnh các giai cấp cơ bản cũ đã xuất hiện các giai cấp, tầng lớp xã hội mới: giai cấp công nhân và giai cấp tư sản.Từ cuộc đấu tranh sôi nổi của công nhân các nước tư bản chủ nghĩa vào cuối thế kỉ XIX, đầuthế kỷ XX đã dẫn đến cao trào cách mạng thế giới với đỉnh cao là sự bùng nổ của cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã làm “thức tỉnh các dân tộc Châu Á”. Cuộc cách mạng đã lật đổ nhà nước tư sản, thiết lập chính quyền Xô viết, mở ra thời kỳ mới trong lịch sử loài người, nêu lên tấm gương sáng về sự giảiphóng các dân tộc bị áp bức, “mở ra trước mắt họ thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc”.Sự ra đời của Quốc Tế Cộng Sản (tháng 3-1919), phong trào công nhân trong các nước tư bản chủ nghĩa phương Tây và phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa ở phương Đông càng có quan hệ mật thiết với nhau hơn trong côngcuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là đế quốc.Chủ nghĩa xã hội trở thành hiện thực trên thế giới đánh dấu bước chuyển biến lớn của thời đại, thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội và giúp Hồ Chí Minh nhận ra“chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng các dân tộc bị áp bức, những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ.2. Những tiền đề, tư tưởng- lý luậna) Giá trị truyền thống dân tộc Việt Nam.Dân tộc Việt Nam có mấy ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước đã tạo lập cho mình một nền văn hóa riêng, phong phú và bền vững với những truyền thống tốt đẹp, cao quý.Trước hết, đó là chủ nghĩa yêu nước và ý chí bất khuất đấu tranh để dựng nước và giữ nước.Chủ nghĩa yêu nước là dòng chủ lưu xuyên suốt lịch sử Việt Nam, là chuẩn mực cao nhất, đứng đầu bảng giá trị văn hóa tinh thần người Việt. Mọi học thuyết đạo đức, tôn giáo ngoại nhập đều được tiếp nhận khúc xạ qualăng kính của tư tưởng yêu nước.Thứ hai, đó là tinh thần nhân nghĩa, truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái. Truyền thống này hình thành cùng sự hình thành dân tộc, từ hoàn cảnh và nhu cầu đấu tranh quyết liệt với thiên nhiên và giặc ngoại xâm. Đến những năm đầu của thế kỷ XX, xã hội Việt Nam đã có sự phân hóa giai cấp, nhưng truyền thống này vẫn rất bền vững. Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát huy sức mạnh truyền thốngnày mà nhấn mạnh bốn chữ “đồng” (đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh).Thứ ba, Việt Nam là một dân tộc có truyền thống lạc quan, yêu đời. Tinh thần lạc quan, trong muôn gian nguy vẫn động viên nhau “chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo” có cơ sở từ niềm tin vào sức mạnh của bản thân, tin vào sự tất thắng của chân lý, chính nghĩa. Hồ Chí Minh là hiện thân của tinh thần lạc quan đó.Thứ tư, Việt Nam là một dân tộc cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo trongsản xuất và chiến đấu, nên cũng là một dân tộc ham học hỏi và không ngừng mở rộng cửa đón nhận tinh hoa văn hóa nhân loại. Từ ngàn xưa, dân tộc Việt Nam đã rất xa lạ với đầu óc hẹp hòi, thủ cựu, bài ngoại cực đoan. Trên cơ sở giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc, nhân dân ta đã biết chắt lọc, tiếp thu cái tốt, cái hay, cái đẹp của nhân loại tạo nên những giá trị riêng của mình. Hồ Chí Minh là hình ảnh sinh động và trọn vẹn của truyền thống.Chính sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước đã thúc giục chủ tịch Hồ Chí Minh rađi tìm đường cứu nước, tìm kiếm những gì hữu ích cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.b) Tinh hoa văn hóa nhân loại.Xuất thân trong một gia đình khoa bảng, từ nhỏ Hồ Chí Minh đã hấp thụ một nền Quốc học và Hán học khá vững vàng. Khi ra nước ngoài Người đã không ngừng làm giàu trí tuệ mình bằng tinh hoa văn hóa nhân loại. Khi đấu tranh, Người viết văn Anh, văn Pháp sắc sảo như một nhà báo phương Tây thực thụ, nhưng khi có nhu cầu “tự bạch” thì Người lại làm thơ bằng chữ Hán. Đó là nét đặcsắc trong sự kết hợp hài hòa văn hóa Đông-Tây ở Hồ Chí Minh.*Tư tưởng văn hóa phương Đông:Nho giáo chứa đựng nhiều yếu tố duy tâm, lạc hậu, phản động như: tư tưởng đẳng cấp, khinh lao động chân tay, khinh phụ nữ v.v.. là những điều thường bị Hồ Chí Minh phê phán, bác bỏ. Nhưng Nho giáo cũng có nhiều yếu tố tích cực như triết lý hành động, tư tưởng nhập thế, hành đạo giúp đời, lý tưởng về một xã hội bình trị. Đó là ước vọng về một xã hội an ninh, hòa mục, một thế giới đại đồng, triết lý nhân sinh, tu thân, dưỡng tính; đề cao văn hóa, lễ giáo, tạo ra truyền thống hiếu học. Đó là những điều mà Hồ Chí Minh đã lựa chọn, kế thừa, cải tạo cho phù hợp để phục vụ cách mạng. Người dẫn lời của Lênin: “Chỉ có những người cách mạng chân chính mới thu hái được những điều hiểu biết quý báu của các đời trướcđể lại”.Phật giáo là một tôn giáo, có mặt tiêu cực là duy tâm, tuyệt đối hóa sự vận động của thế giới mà không thấy tính đứng im tương đối của vạn vật, nên chỉ thấy một thế giới huyễn, ảo, giả tồn tại.Nhưng Phật giáo cũng có những mặt tích cực đãđể lại dấu ấn sâu sắc trong tư duy, hành động và cách ứng xử của người Việt. Đó là tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ cứu nạn, thương người như thể thương thân; nếp sống có đạo đức, trong sạch, giản dị, chăm lo làm việc thiện; tinh thần bình đẳng, dân chủ chất phác, chống lại mọi sự phân biệt đẳng cấp; đề cao lao động, chống lười biếng “nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực”; Phật giáo Việt Nam- thiền phái Trúc Lâm - chủ trương không xa đời mà sống gắn bó với nhân dân, với đất nước, tham gia vào cộng đồng, vào cuộc đấu tranh của nhân dân, chống kẻ thù dân tộc. Đó là những điều để lại dấu ấn sâu sắc trong gia đình Hồ Chí Minh vàbản thân Người.Ngoài ra, trong các bài nói, bài viết của Hồ Chí Minh còn chứa đựng tư tưởng của Lão Tử, Mặc Tử, Quản Tử, Tôn Trung Sơn v.v..Là người mác-xít tỉnh táo và sáng suốt, Hồ Chí Minh đã biết khai thác những yếu tố tích cực của tư tưởng và văn hóa phương Đông để phục vụ sự nghiệp cách mạng của Việt Nam.*Tư tưởng văn hóa phương TâyHồ Chí Minh đã sống chủ yếu ở châu Âu, và ngay tại các trung tâm văn hóa lớn nhất của phương Tây, nên chịu ảnh hưởng rất sâu rộng nền văn hóa dân chủ cách mạng của phương Tây.Khi còn học ở trường Tiểu học Đông Ba, rồi vào học ở Quốc học, Nguyễn Tất Thành đã làm quen với văn hóa Pháp, đặc biệt rất ham mê tìm hiểu Đại cách mạngPháp 1789.Khi ra nước ngoài, những tháng năm sống tại Mỹ, Người đã sống ở New York, làm thuê ở Bruclin và thường đến thăm khu ở của người da đen tại Haclem, Người đã rất chú ý đến ý chí đấu tranh cho tự do, độc lập, cho quyền sống của con người được ghi trong Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ 1776. Năm 1913, khi sang Anh, Người đã gia nhập công đoàn thủy thủ, cùng giai cấp công nhân Anh tham gia các cuộc biểu tình, đình công bên bờ sông Thêm-dơ.Cuối năm 1917, Người đến sống và hoạt động tại Pari, trung tâm văn hóa và nghệ thuật của châu Âu. Tại đây, Người đã có thuận lợi để nhanh chóng chiếm lĩnh vốn tri thức của thời đại, đặc biệt là truyền thống văn hóa dân chủ và tiến bộ Pháp.Tại Pháp, với nghề làm báo, Người phải nhanh chóng làm chủ được ngôn ngữ và văn hóa Pháp. Người tiếp xúc với các tác phẩm của các nhà tư tưởng khai sáng: Vonte (Voltaire), Rutxô (Rousseau), Môngtecxkiơ (Montesquieu),.. những lý luận gia của Đại cách mạng Pháp 1789, như “Tinh thần pháp luật” của Môngteckiơ, “Khế ước xã hội” của Rutxô,.. Tư tưởng dân chủ của các nhà khai sáng Pháp đã cóảnh hưởng tới tư tưởng của Người.Ngoài ra, Người còn hấp thụ được tư tưởng dân chủ và hình thành phong cách dân chủ của mình từ trong cuộc sống thực tiễn. Người có thể tự do hội họp, tham gia đảng phái, ra báo, phát biểu ý kiến, trình bày quan điểm của mình trước dư luận Pháp, phê phán bọn quan lại, vua chúa của nước mình và cả bọn thống sứ, toàn quyền Pháp tại Đông Dương. Người còn học được cách làm việc dân chủ ngay trong cách sinh hoạt khoa học ở Câu lạc bộ Phôbua (Faubourg), trong sinh hoạt chính trị của Đảng Xã hội Pháp, nhất là không khí tranh luận ở Đại hội Tua (tháng 12/1920).Tóm lại, được rèn luyện trong phong trào công nhân Pháp và được sự cổ vũ, dìu dắt trực tiếp của nhiều nhà cách mạng và trí thức tiến bộ Phápnhư M.Casanh (M.Cachin), P.V.Cutuyariê (Couturier), G.Môngmutxô (G.Monmousseau),..Ngườiđã từng bước trưởng thành. Trên hành trình cứu nước, Người đã biết làm giàu trí tuệ của mình bằng vốn trí tuệ của thời đại, Đông và Tây, vừa gặt hái, vừa gạn lọc, kế thừa và đổi mới, vận dụng và phát triển.c) Chủ nghĩa Mác – LêninChủ nghĩa Mác – Leenin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của tư tưởng Hồ Chí Minh.Chủ nghĩa Mác – Lenin là học thuyết khoa học và cách mạng, là đỉnh cao của trí tuệ loài người, là vũ khí tư tưởng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Việc tiếp thu chủ nghĩa Mác – Leenin dựa trên nền tảng của những tri thức văn hóa tinh túy được chắt lọc, hấp thụ bởi một trí tuệ bản lĩnh, tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo.Thứ nhất, khi ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh với một vốn tri thức chắc chắn, một năng lực trí tuệ sắc sảo, Người đã nhận ra rằng, các phong trào yêunước cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX tựu trung chỉ xoay quanh hai đường lối quânchủ hay dân chủ, hai phương pháp cách mạng hay cải lương. Cả hai đường lối và hai phương pháp ấy đều không thỏa mãn được yêu cầu giải phóng dân tộc trong điều kiện chủ nghĩa đế quốc đã trở thành một lực lượng quốc tế.Trong 10 năm đầu (1911-1920) của quá trình bôn ba tìm đường cứu nước, Người đã hoàn thiện cho mìnhmột vốn văn hóa, chính trị và vốn sống thực tiễn phong phú, tạo thành một bản lĩnh trí tuệ mà không một nhà cách mạng trẻ tuổi Việt Nam nào vào thời ấy có thể so sánh được. Cái bản lĩnh ấy đã giúp Người tiếp thu, vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam một cách trung thành mà không sao chép.Thứ hai, khác với các nhà trí thức tư sản phương Tây, khi đến với Chủ nghĩa Mác-Lênin là đến với một học thuyết nhằm giải quyết những vấn đề về tư duy hơnlà hành động, Nguyễn Ai Quốc đến với Chủ nghĩa Mác-Lênin là để tìm kim chỉ nam cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc. Người tâm sự “Lúc bấy giờ, tôi ủng hộ cách mạng Tháng Mười chỉ là theo cảm tính tự nhiên.. Tôi kính yêu Lênin vì Lênin là một người yêu nước vĩ đại đã giải phóng đồng bào mình.. Tôi tham giaĐảng Xã hội Pháp là vì các “ông bà” ấy đã đồng tình với tôi, với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức. Còn như Đảng là gì, công đoàn là gì, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là gì thì tôi chưa hiểu. Lúc đầu chính là chủ nghĩa yêu nước,chứ chưa phải là chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế III”.Tác phẩm của Lênin, “Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” đã chỉ rõ mối quan hệ gắn bó, thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản với sự nghiệp giải phóng các dân tộc thuộc địa. Nhờ nó, Người đã tìm thấy “con đường giải phóng của chúng ta” và từ Lênin, Người đã trở lại nghiên cứu Mác sâu sắc hơn.Thứ ba, khi đến với Chủ nghĩa Mác-Lênin, Người đã tiếp thu phương pháp nhận thức mac-xit, nắm lấy cái tinh thần, cái bản chất, không rập khuôn máy móc, không sao chép giáo điều. Người vận dụng Chủ nghĩa Mác-Lênin để tự tìm ra những chủ trương, giải pháp, đối sách phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể, từng thời kỳ cụ thể của cách mạng Việt Nam chứ không đi tìm những kết luận có sẵn trong sách vở kinh điển.Vì vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh thuộc hệ tư tưởng Chủ nghĩa Mác-Lênin, những phạm trù của tư tưởng Hồ Chí Minh cũng nằm trong những phạm trù cơ bản của Chủ nghĩa Mác-Lênin; đồng thời tư tưởng Hồ Chí Minh còn là sự vận dụng sáng tạo, phát triển và làm phong phú Chủ nghĩa Mác-Lênin ở thời đại các dân tộc bị áp bức vùng lên giành độc lập, tự do và xây dựng xã hội mới.II, Nhân tố chủ quan1. Khả năng tư duy và trí tuệ Hồ Chí Minh*Tư duy độc lậpChủ tịch Hồ Chí Minh lớn lên trong bối cảnh đất nước bị đô hộ,sớm tiếp thu tinh thần yêu nước của các bậc tiền bối,Bác luôn muốn tìm con đường giải phóng dân tộc.Vượt lên những nhà tiền bối về hệ tư tưởng,Bác nhận thấy thời thế đã thay đổi,không thể dùng những tư tuworng cũ, những phương pháp cũ nên giải phóng dân tộc phải bằng cách mới.Bác quan niệm muốn chiến thắng kẻ thù thì phải hiểu rõ kẻ thù.Vậy nên ngày 5/6/1911 bác lên đường sang pháp với hai bàn tay trắng với hành trang là nghị lực và lòng yêu nước sâu sắc mong muốn học hỏi tiếp thu những tinh hoa và tiến bộ của phương tây tìm ra con đường cứu nước*Nhà chiến lược thiên tàiBác luôn lao động,học tập,đấu tranh và vận động quốc tế không ngừng nghỉTrực tiếp thành lập,tổ chức, lãnh đạo đảng ta tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Trong quá trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã khám phá các quy luật vận động xã hội, đời sống văn hóa và cuộc đấu tranh của các dân tộc trong haifn cảnh cụ thể để khái quát hình thành lý luận, đem lý luận vào chỉ đạo thực tiễn và kiểm nghiệm trong thực tiễn từ đó tìm ra hướng đi cho con đường cách mạng. *Khả năng dự đoán kỳ diệuNhờ nắm vững,vận dụng sáng tạo lý luận và phương pháp luận Mác-Lê-nin chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát, tổng kết lịch sử- thực tiễn từ đó nắm chính xácđặc điểm xu thế phát triển của thời đại cùng năng lực nhìn xa trông rộng, Bác đã dự đoán hướng đi đúng đắn cho cách mạng ta.2. Phẩm chất đạo đức và năng lực hoạt động thực tiễnMục tiêu đấu tranh giải phóng dân tộc, sự tác động mạnh mẽ của thời đại và sựnhận thức đúng đắn về thời dại đã tạo điều kiện để Hồ Chí Minh hoạt động có hiệuquả cho dân tộc và nhân loại.Có được điều đó là nhờ vào nhân cách, phẩm chất và trí tuệ siêu việt của Hồ Chí Minh. Bác có tư duy độc lập, tự chủ,tính sáng tạo ,có óc phê phán tinh tường và sáng suốt trong việc nghiên cứu,tìm hiểu các cuộc cách mạng lớn trên thế giới từ đó tìm ra lý luận cách mạng thuộc địa trong thời đại mới, trên cơ sở đó xây dựng một hệ thống quan điểm toàn diện, sâu sắc và sang tạo về cách mạng Việt Nam, kiên trì chân lý và định ra các quyết sách đúng đắn, sáng tạo để đưa cách mạng đến thắng lợi.Phẩm chất của Hồ Chí Minh còn thể hiện ở sự khổ công rèn luyện để tiếp thu được những kiến thức phong phú của nhân loại. Người không ngừng học tập nhằmchiếm lĩnh vốn tri thức vốn kinh nghiệm đấu tranh của các phong trào giải phóng dân tộc. Nhân cách,phẩm chất ,tài năng và trí tuệ của HCM đã giúp Người đến vớichủ nghĩa Mác- Lênin và tiếp thu được các giá trị văn hóa nhân loại. Bác có tâm hồn của một người yêu nước vĩ đại,một chiến sĩ cộng sản nhiệt thành cách mạng ;một trái tim yêu thương nhân dân,thương người cùng khổ,sẵn sàng chịu hi sinh vì độc lập của Tổ Quốc,vì hạnh phúc của nhân dân. Bác Hồ từ một người tìm đường cứu nước đã trở thành người dẫn đường cho cả dân tộc đi theo.Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm tổng hòa của những điều kiện khách quan và chủ quan, của truyền thống văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại. Từ thực tiễn dân tộc và thời đại được Hồ Chí Minh tổng kết, chuyển hóa sắc sảo, tinh tế với một phương pháp khoa học, biện chứng, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành tư tưởng Việt Nam hiện đại. III. Tổng kếtVới 10 năm hoạt động sôi nổi, từ năm 1920 đến 1930, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của phong trào vô sản trên thế giới, sự phát triển mạnh mẽ của phong trào giải phóng dân tộc trong nước, Hồ Chí Minh đã hoạt động rất tích cực, sôi nổi. Được sự giúp dỡ nhiệt tình của các đồng chí, bạn bè, Người đã nhận thức và hiểu được các quy luật vận động và phát triển của phong trào cách mạng trong nước và thế giới, từ đó Người tiếp cận với ánh sáng chủ nghĩa Mác- Leenin, sáng lập nên Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đồng thời Hồ Chí Minh cũng có những luận điểm sáng tạo góp phầnlàm phong phú thêm chủ nghĩa Mác- Leenin, nhất là những vấn đề cách mạng giảiphóng dân tộc, xây dựng chế độ dân chủ mới và con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở một nước phương Đông, thuộc địa nửa phong kiến, kinh tế lạc hậu….Người đi từ người yêu nước chân chính đến người cộng sản. Trong quá trình ấy các tư tưởng cơ bản về cách mạng Việt Nam của Hồ Chí Minh hình thành và phát triển.Đó là những nét đóng góp cực kỳ quan trọng của Hồ Chí Minh trong thời kỳ này. . Những tư tưởng này được chính Người vận dụng và rèn rũa, trong đó có rất nhiều điểm sáng tạo với Chủ nghĩa Mác Lênin. Và ngày nay, sau gần một thế kỷ, những tư tưởng ấy vẫn sáng chói và soi đường cho chúng ta bước tiếp. Tuy nhiên, sự phát triển biện chứng của chủ nghĩa Mác Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh cũng đòi hỏi chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu làm rõ đồng thời bổ sung phát triển thêm những nội dung tư tưởng mới nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đang thay đổi từng ngày từng giờ.Vậy sự ra đời của tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội không chỉ là yêu cầu tất yếu khách quan của cách mạng Việt Nam màcòn là tất yếu của cách mạng thế giới

Xem nội dung đầy đủ tại: https://123docz.net//document/3933117-chung-minh-su-ra-doi-cua-tu-tuong-ho-chi-minh-la-ket-qua-tat-yeu.htm
tải về 20.58 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương