256. S M U S ÊU Ö T ẤT
(Cảnh tỉnh vô thƣờng 9)
Ðường sanh tử, nối dài quá ngán,
Cõi hồng trần, tụ tán mấy hồi,
Một đời mau lẹ ai ôi!
Thân người tuy có, có rồi hoàn không!
Mấy bữa trước: ước mong lắm việc,
Ngày hôm nay, tử biệt gia đình,
Cùng là lối xóm bạn mình,
Bỏ nhà xuống đất thân hình còn đâu!
Nhớ những lúc tình sầu man mác,
Nghĩ đến hồi lên gác xuống lầu,
Bây giờ để thảm để sầu,
Cho người quyến thuộc buồn rầu khóc than.
Ra đến chỗ đồng hoang cỏ lạnh,
Với nấm mồ hiu quạnh từ đây,
Nhớ hồi sum hiệp vui vầy,
Bây giờ vĩnh biệt mặt mày thấy đâu.
Nhớ mấy lúc, canh thâu phất phưởng,
Nghĩ đến hồi vào trướng ra màn,
Bây giờ xa cách xóm làng,
Thân bằng quyến thuộc họ hàng biệt tăm.
Nhớ từ thuở ngồi nằm sớm tối,
Nghĩ mấy hồi trao đổi tình nhân,
Bây giờ xa cách chẳng gần,
Nỡ đành ra ở mộ phần đồng sâu.
Ba bảy thất, ưu sầu buồn bã,
Mãn hai năm, mồ mả quạnh hiu,
Dù cho tiền của có nhiều,
Cũng không mua chuộc người yêu sống hoài.
Ðã nhiều kiếp trần ai lao khổ,
Ðã bao lần quá khổ cực thân,
Từ đây đã dứt nợ nần,
Nương về với Phật cảnh trần lánh xa.
Ðừng mến tiếc Ta bà uế trược,
Về Tây phương mới được an thân,
Di Ðà, Bồ Tát được gần,
Dạy hồn phương pháp hóa thân độ đời.
Nơi cảnh Phật đời đời chẳng có,
Ở trần ai mưa gió không chừng,
Tử sanh tiếp nối chẳng ngừng,
Vô thường chi phối không ngừng ai ơi!
Nơi biểân ái lội bơi cũng ngán,
Giữa sông mê phải rán lướt qua,
Quyết lên cho khỏi bờ ma,
Về nơi an dưỡng mới là tiêu diêu.
Ao thất bảo có nhiều của báu,
Ngọc xà cừ mã não bao quanh,
Kim ngân xây bảy lớp thành,
Bảy hàng cây báu, bảy vành lưới châu.
Nào ngân các với kim lầu,
Có chim nói pháp nhiệm mầu dễ nghe.
Nghe rồi tỏ đạo Bồ đề,
Bao nhiêu nghiệp chướng tâm mê giác liền.
Hồn về Cực lạc ở yên,
Ðến sau trở lại hóa duyên Ta bà.
Nam Mô Từ Phụ Thích Ca,
Ðộ hồn thoát khổ thẳng qua Liên trì.
Niệm rành sáu chữ A Di,
Nhứt tâm niệm Phật tham si hết liền.
Nguyện sanh về cửu phẩm liên,
Ở nơi Cực lạc vô biên thanh nhàn.
Nam Mô Tịnh Ðộ Lạc Bang,
Ðộ vong hồn đặng Tây phương mau về.
--------------
- Trích trong ―Kinh Nhật Tụng,‖ chùa Ðại Giác ấn hành, Sài Gòn, 1974.
- Ðây là bài cải biên từ bài sám Tống táng, số 51, tập I. Văn phong có nhiều
nét mới, dễ đọc và tiện dụng hơn, nên đưa vào để tùy độc giả lựa chọn mà
tụng.
---o0o---
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |