TÀi liệu tham khảO



tải về 342.9 Kb.
trang3/4
Chuyển đổi dữ liệu25.03.2018
Kích342.9 Kb.
#36578
1   2   3   4

+ Tiểu thuyết Minh-Thanh:

Thời Minh - Thanh đã để lại cho hậu thế một số lượng lớn tiểu thuyết chương hồi phong phú về nội dung, đa dạng về hình thức. Có các tác phẩm tiêu biểu như: Tam quốc chí diễn nghĩa của La Quán Trung, Thủy hử của Thi Nại Am, Tây du kí của Ngô Thừa Ân …

Từ đầu nhà Thanh tới cuối thời vua Càn Long là thời kì tiểu thuyết cực thịnh. Các tác phẩm tiêu biểu như Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh, Nho lâm ngoại sử của Ngô Kính Tử, Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần… Trong đó Hồng lâu mộng là tiểu thuyết có giá trị nhất, là một kiệt tác của nhân loại.

c. Sử học:

Người Trung Quốc có ý thức cao về lịch sử và rất giàu kinh nghiệm trong việc biên soạn sử, vì vậy sử học nước này rất phát triển.

- Người tiêu biểu cho nền sử học Trung Quốc là Tư Mã Thiên (sinh năm 135 hay 145.TCN), ông là người đầu tiên trên thế giới chép sử bằng thể kí. Tác phẩm tiêu biểu là Sử kí, bộ sử đồ sộ nhất của nhân loại, gồm 5265000 chữ được Lỗ Tấn ca ngợi “Lời hát tuyệt vời của các sử gia, thiên Li tao không vần”.

- Ban Cố thời Đông Hán là người mở đầu cho cách viết sử theo triều đại (tác phẩm Hán thư), sau đó có Tam quốc chí của Trần Thọ, Hậu Hán thư của Phạm Diệp…

- Tư Mã Quang và nhiều tác giả khác cùng biên soạn tác phẩm Tư trị thông giám theo thể biên niên, tổng cộng có 354 cuốn (kể cả 30 cuốn mục lục).

- Thời Minh -Thanh còn có các bộ “Minh sử”, “Tứ khố toàn thư”… Các bộ sách trên đều là những di sản văn hóa vô giá của nhân dân Trung Quốc.
(2) Tôn giáo và tư tưởng phương Đông

1. Ai Cập:

+ Tôn giáo của người Ai Cập rất phong phú, gồm nhiều hệ thần linh địa phương hỗn dung với nhau. Ban đầu mỗi vùng thờ những vị thần của mình, chủ yếu là những vị thần tự nhiên, linh hồn người chết...

+ Đến thời kì thống nhất quốc gia, ngoài việc thời cúng các thần riêng của từng địa phương, còn xuất hiện những vị thần chung. Người Ai Cập thờ thần Ra (Thần mặt trời), thần Ptah (thần sáng tạo vũ trụ và con người), thần Amon (thần đem lại sức mạnh cho vương quốc và Pharaon), thần Osiris (được coi là thần Nông nghiệp, thần sông Nile), thần Montou (thần chim ưng), Sobek (thần Cá sấu)...

+ Người Ai Cập tin linh hồn bắt tử, nên việc chôn cất thi hài gắn liền với quan niệm hồn và xác. Khi chết, linh hồn tuy thoát ra ngoài nhưng vẫn còn tìm chỗ dựa ở nơi xác, vì vậy khi con người cần phải giữ lại xác. Việc xây dựng các Kim tự tháp (các lăng mộ của nhà vua) và kĩ thuật ướp xác bắt nguồn từ quan niệm trên.
2. Lưỡng Hà:

- Trong thời kỳ đầu, người Lưỡng Hà theo đa thần giáo. Họ tôn sùng những lực lượng tự nhiên, coi đó là những lực lượng thống trị cuộc sống của mình. Người Lưỡng Hà thờ thần Anu, Eaua, thần Enlin... ngoài các thần chủ, người Lưỡng Hà còn tôn thờ nhiều thần khác như thần trồng trọt, thần chăn nuôi và các hiện tượng tự nhiên như thần Samat (thần Mặt trời). Thần Istaro (thần Ái tình)... người ta tin rằng thần Mẹ (Inana) còn là thần bảo hộ nông nghiệp, thần của sinh nở, thần Ea (thần Biển) còn dạy cho người ta biêt nghề thủ công, nghệ thuật, khoa học, thần Tamuz (thần Nước) được coi như vị thần dạy bảo cư dân trông trọt, làm nghề thủ công và là vị thần của lòng nhân ái, bảo vệ mùa màng...

- Cùng với sự xác lập quyền lực tối cao, trong toàn Lưỡng Hà của Hammourabi, thần Mardouk đã trở thành vị thần tối cao trong toàn quốc, bản thân nhà vua cũng được thần thánh hóa, thay mặt thần Mardouk cai trị muôn dân.

- Người ta xây dựng nhiều đền miếu thờ thần và tiến hành nhiều nghi lễ phức tạp. Việc xây dựng đền miếu đã trở thành gánh nặng đối với quần chúng. Nhân dân đã bị tập đoàn tăng lữ nô dịch về tinh thần và bóc lột về kinh tế. Tập đoàn tăng lữ của Babylone rất cồng kềnh, có đến hơn 30 đẳng cấp.


* Đạo Hồi của Arập:

- Đạo hồi, tiếng Arập là Islam, có nghĩa là phục tùng, tuân theo thánh Allah tối cao và duy nhất, tuân theo vị sứ giả của thánh Allah là Muhammad.

Những tư tưởng chính trị của đạo Hồi nằm trong kinh Koran gồm 30 quyển, 114 chương, 6236 tiết. Các tín đồ Hồi giáo coi kinh Koran như một vật linh thiêng, thần thánh.

Trong kinh Koran luân lí và pháp luật, thế tục và tôn giáo là một, mọi giới luật đều do thánh Allah ban ra, đó là quy tắc cho mọi hành vi, từ lễ giáo đến hôn nhân, từ các hoạt động kĩ nghệ, thương mại đến chính trị, di chúc, chiến tranh và hòa bình... Những hiểu biết về y, dược và cách chữa trị một số bệnh cũng thấy nói đến trong kinh Koran.

- Kinh Koran gọi tín ngưỡng của đạo Hồi là lman là chỉ tất cả những tín điều của thánh Allah do nhà tiên tri Muhammad truyền đạt lại. Đạo Hồi có 6 tín ngưỡng lớn gọi là Lục tín’

Tin chân thánh: tức là tin rằng ngoài thánh Allah không còn vị thần nào khác, thánh Allah là duy nhất, là độc nhất. Đây là hạt nhân cơ bản nhất của tín ngưỡng của đạo Hồi.

Tin thiên sứ: Theo kinh Koran thì có rất nhiều thiên sứ, mỗi thiên sứ cai quản một công việc. Thiên sứ do Allah sáng tạo ra từ ánh sáng, để theo dõi, ghi chép tất cả mọi hành vi thiện, ác, tốt, xấu của con người.

Tín kinh điển: Tức là tin rằng kinh Koran là bộ kinh Thần thánh do đâng Allah khải thị cho nhà tiên tri Muhammad, từ đó xây dựng uy quyền tuyệt đối của kinh Koran đối với các tín đồ.

Tín sứ giả: Muhammad là sứ giả và nhà tiên tri của thánh Allah, được phái xuống để thực hiện những sứ mệnh do Allah ủy thác, vì vậy mọi tín đồ phải tôn sùng.

Tín tiên định: Các tín đồ Hồi giáo tin rằng, số phận con người do thánh Allah an bài, con người không có cách gì cưỡng lại được. Đó là định mệnh.

Tín kiếp sau: Các tín đồ Hồi giáo tin rằng, sau khi chết, con người có thể sống lại và chịu sự phán xét của thánh Allah vào ngày tận thế.

- Về nghĩa vụ của tín đồ, đạo Hồi quy định:

Phải có đức tin kiên định và chỉ thừa nhận chỉ có thánh Allah còn Muhammad là sứ giả và là vị tiên tri (Nêbi) cuối cùng. Hàng ngày phải cầu nguyện 5 lần vào sáng, trưa, chiều, tối và đêm. Khi cầu nguyện phải hướng về Mecca. Thứ sáu hàng tuần phải đến thánh thất làm lễ.

Hàng năm đến tháng Ramadan phải trai giới một tháng. Trong tháng này, từ khi mặt trời mọc đến khi mặt trời lặn, các tín đồ tuyệt đối không được ăn uồng, hút thuốc... nhưng những người già, người bệnh, trẻ em dưới 10 tuổi, phụ nữ có thai thì được miễn.


3. Ấn Độ:

- Bàlamôn giáo ra đời vào những thế kỉ đầu thiên niên kỉ I.TCN do sự phát triển của xã hội có giai cấp và sự bất bình đẳng về đẳng cấp. Là một tôn giáo đa thần, cao nhất là thần Brama, vị thần sáng tạo thế giới. Ngoài thần Brama còn có thần Visnu, Siva … nội dung quan trọng trong giáo lí của Bàlamôn giáo là thuyết luân hồi. Về mặt xã hội, Bàlamôn giáo là công cụ đắc lực bảo vệ chế độ đẳng cấp ở Ấn Độ. Bàlamôn được truyền bá rộng rãi trong nhiều thế kỉ, đến thế kỉ VI.TCN bị suy thoái do sự phát triển mạnh mẽ của đạo Phât.

- Khoảng thế kỉ VII, đạo Phật bị suy sụp, nhân đó đạo Bàlamôn phục hồi và phát triển. Đến khoảng thế kit VIII-IX, Bàlamôn giáo được bổ sung thêm nhiều yếu tố về đối tưựong sùng bái, kinh điển và nghi thức… từ đây Bàlamôn giáo được gọi là Hinđu giáo (Ấn Độ giáo). Đối tượng sùng bái chủ yếu của Hinđu giáo vẫn là ba thần Brama, Visnu, Siva. Các loài động vật như rắn, hổ, khỉ, bò, cá sấu… cũng được Hinđu giáo coi là các thần và rất được tôn sùng, Giáo lí của Hinđu giáo được thể hiện trong các bộ kinh Vêđa, Upanisad và các sử thi Mahabharata, Ramayana, Bhagavad….

- Phật giáo: Ra đời vào cuối thiên niên kỉ I.TCN, Siddharata Gautama là người sáng lập. Nội dung chủ yếu của Phật giáo là chỉ ra chân lí về nguyên nhân cảu các nổi khổ ở đời và sự giải thoát khỏi nỗi đau khổ ấy.

Chân lí về nỗi đau và sự giải thoát khỏi nỗi đau khổ đó được thể hiện trong “Tứ diệu đế”.

Khổ đế là chân lí về các nỗi khổ.

Tập đế là chân lí về nguyên nhân của các nỗi khổ.

Diệt đế là chân lí về sự chấm dứt các nỗi khổ.

Đạo đế là chân lí về con đường diệt khổ (Bát chính đạo).

Về mặt thế giới quan nội dung cơ bản của học thuyết Phật giáo là thuyết “duyên khởi”. Mọi vật đều do nhân duyên hòa hợp mà thành, duyên khởi do tâm mà ra, tâm là nguồn gốc của duyên khởi và cũng là nguồn gốc của vạn vật.

Về mặt xã hội, đạo Phật không quan tâm đến chế độ đẳng cấp vì nguồn gốc xuất thân không phải là điều kiện để được cứu vớt.Đạo Phật khuyên con người phải từ bỏ ham muốn, tránh điều ác, làm điều thiện để được cứu vớt. Phật giáo được truyền bá nhanh chóng không những ở Ấn Độ mà còn sang các nước khác. Khoảng 100 năm sau công nguyên, đạo Phật chia làm hai phái là Tiểu thừa và Đại thừa.

Ảnh hưởng của các tôn giáo trên đã vượt ra khỏi biên giới quốc gia, có mặt ở nhiều nước trên thế giới. Ngay cả Hindu giáo cũng có thể coi nó là tôn giáo mang tính quốc tế, bởi vì sự ảnh hưởng đậm nét của nó đối với vùng Đông Nam Á.

- Ấn Độ còn là quê hương thứ hai của Hồi giáo, một tôn giáo lớn trên thế giới, và Jain giáo, Xích giáo…

+ Triết học:

Triết học Ấn Độ rất phong phú và đa dạng với nhiều quan điểm và trường phái khác nhau.

- Bàlamôn giáo cho rằng thế giới vật chất cũng như thần thánh đều do Brama sáng tạo ra, về sau trong sách Upanisad, Bàlamôn đem cái “bản ngã ” (at man) của con người kết hợp với Brama làm một và cho rằng chính cái bản ngã này sáng tạo ra thế giới. Triết học Bàlamôn chia ra làm sáu trường phái triết học như Yoga, Purova Mimãna, Vêđanta, Niaga, Xankia, Vaisêrica. Phái Vaisêrica do Canada đề xướng ra thuyết nguyên tử. Ông cho rằng, vũ trụ gồm vô số vật khác nhau nhưng vật nào cũng được cấu tạo từ những nguyên tử, ngoài nguyên tử và chân không ra thì không có gì hết. Nguyên tử vận động là do một lực lượng vô hình chứ không phải do một vị thần linh nào cả.

- Triết học Phật giáo: Triết học Phật giáo phủ nhận hai yếu tố Brama và Át man của Bàlamôn giáo, không thừa nhận có đấng thần linh tối cao sáng tạo ra vũ trụ và phủ nhận luôn cả tồn tại khách quan. Những yếu tố của phép biện chứng của triết học Phật giáo tuy còn ở mức độ tự phát, chưa hoàn chỉnh nhưng đã nhìn thấy sự vận động biến đổi của thế giới, thấy được sự đối lập trong thống nhất, vạch ra những mâu thuẫn nội tại của chúng như ý thức và vô thức, niết bàn và vô minh…

- Triết học Sácvaca: Đây là trường phái triết học duy vật cổ đại, cho thế giới chung quanh là vật chất được tạo nên bởi bốn nguyên tố: đất, lửa, nước và không khí. Con người nhận thức được thế giới là do cảm giác. Con người có ý thức và ý thức là sản phẩm của thể xác, khi con người ta chết thì ý thức cũng mất theo. Triết học Sácvaca cũng phủ nhận những quan niệm về thần sáng tạo thế giới của tôn giáo.


4. Trung Quốc:

  1. Thuyết Âm dương, Bát quái, Ngũ hành, Âm dương gia:

Vào thời Ân, Chu, người Trung Quốc đã có các thuyết: Bát quái (cho rằng thế giới do 8 loại vật chất cấu tạo thành, âm dương là hai yếu tố căn bản của Bát quái ...). Người ta dùng ngũ hành (kim, mộc, thủy, hỏa, thổ) và âm dương để giải thích nguồn gốc của vũ trụ, mọi vật sinh sinh hóa hóa đều do sự tác động tương hỗ hay sự phối hợp không điều hòa các yếu tố trên mà thành. Những người theo học phái Âm dương gia đã đem kết hợp thuyết Âm dương với thuyết Ngũ hành rồi thần bí hóa các thuyết này... để giải thích các biến động của lịch sử xã hội.

  1. Nho gia -Nho giáo:

+ Nho gia:

Khổng Tử (551-479. TCN) nhà tư tưởng lỗi lạc, người sáng lập phái Nho gia. Khổng Tử chủ trương “nhân”, khôi phục “lễ” của nhà Chu. Từ hại nhân tư tưởng là “nhân” ông đã chỉ ra mối quan hệ khăng khít giữa nhân và lễ. Ông đưa ra thuyết “chính danh định phận”, đề cao tư tưởng “Thiên mệnh”... Cái có giá trị nhất trong học thuyết của ông là tư tưởng giáo dục: ông là người đầu tiên đề xuất có thể dạy học cho tất cả mọi người “Hữu giáo vô loại”... Học trò của ông và những môn đệ của họ hợp thành học phái Nho gia. Tư tưởng triết học Nho gia chính là cội nguồn nhân đạo chủ nghĩa của văn hóa truyền thống Trung Quốc.

+ Nho giáo:

- Từ thời Hán Vũ Đế (140-87.TCN) với lệnh “bãi truất bách gia, độc tôn Nho thuật” Nho học trở thành trường phái tư tưởng quan trọng nhất ở Trung Quốc.

- Đổng Trọng Thư (179-104.TCN) đã phát triển Nho học lên một bước mới, đồng thời dùng thần học để giải thích nó làm cho học thuyết này mang màu sắc thần học tôn giáo nên từ đó người ta thường gọi là Nho giáo. Nho giáo trở thành cơ sở lí luận và tư tưởng của chế độ phong kiến Trung Quốc suốt 2000 năm lịch sử.


  1. Đạo gia – Đạo giáo.

+ Đạo gia:

Lão Tử (không rõ năm sinh, năm mất) là đại biểu chủ yếu của học phái Đạo gia. Trang Tử (khoảng năm 369-286.TCN), người phát triển học thuyết của Lão Tử thành một học thuyết tư tưởng, cùng với Lão Tử hợp thành học phái Đạo gia.

Hệ thống tư tưởng của Đạo gia được thể hiện trong các tác phẩm “Đạo đức kinh” và “Nam Hoa kinh”: “Đạo” là cơ sở đầu tiên của thế giới, có trước đất trời, từ “Đạo” sinh ra tất cả. “Đạo”còn để chỉ quy luật biến hóa của sự vật, vừa có trước sự vật, vừa nằm trong sự vật. Quy luật biến hóa tự thân của mỗi sự vật gọi là “Đức”. Như vậy “Đạo” và “Đức” của Lão Tử là phạm trù thuộc thế giới quan, ông là người đầu tiên xác lập nên thế giới quan của triết học Trung Quốc.

Về quan điểm lịch sử-xã hội: Lão Tử đề xướng quốc gia lí tưởng là “tiểu quốc quả nhân” (nước nhỏ dân ít), “vô vi nhi trị” (không làm gì mà thịnh trị)... Đạo gia không chỉ là cơ sở triết học của văn hóa truyền thống mà còn ảnh hưởng đến mọi mặt đời sống của dân tộc Trung Quốc.

+ Đạo giáo:


  • Là tôn giáo ra đời vào giữa thời Đông Hán, đến thời Đường, Tống được sự hỗ trợ của vương triều, Đạo giáo phát triển mạnh. Từ thời Minh, Đạo giáo bị suy vi.

  • Đạo giáo có nguồn gốc phức tạp, tín ngưỡng cơ bản là Đạo, hạt nhân là tư tưởng thần tiên.

  • Đạo giáo cho rằng sống ở đời là việc sung sướng nên họ cổ vũ tư tưởng trọng sinh, lạc quan. Quan niệm thế giới thần tiên của Đạo giáo không giống thế giới hiện thực, không hoàn toàn tách biệt thế giới hiện thực và thế giới bên kia. Đạo giáo là tôn giáo đa thần.

  • Ảnh hưởng của Đạo giáo đối với văn hóa truyền thống rất rộng rãi và sâu sắc.

  1. Mặc gia:

- Mặc Tử (khoảng 479-381TCN), nhà tư tưởng, nhà giáo dục kiệt xuất, người sáng lập học phái Mặc gia. Hạt nhân của tư tưởng triết học Mặc gia là nhân và nghĩa (nhân là kiêm ái, nghĩa là nghĩa lợi) với 10 chủ trương lớn...

- Là người đầu tiên đề xuất “thủ thực dư danh” (lấy thực đặt tên) như một phạm trù triết học, cũng là một trong những người đi tiên phong trong ngành logic học của nhân loại.

- Tư tưởng của học phái Mặc gia đầy thiện chí, có ảnh hưởng lớn một thời nhưng chứa đựng nhiều ảo tưởng, nên từ Tần, Hán về sau Mặc gia dường như không còn tồn tại nữa.


  1. Pháp gia:

- Pháp gia là học phái triết học đại biểu cho lợi ích của gia cấp địa chủ mới ra đời trong thời kì Xuân Thu. Sở dĩ gọi là Pháp gia vì học phái này chủ trương “pháp trị”, cai trị đất nước theo pháp luật.

- Người tiêu biểu cho Pháp gia là Hàn Phi (khoảng 280-233.TCN), công tử nước Hàn, đã tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và lí luận của các pháp gia thời kì đầu, hình thành hệ thống tư tưởng Pháp gia hoàn chỉnh hơn. Ông phản đối tư tưởng phục cổ, lấy pháp, thuật, thế làm nội dung cơ bản cho hệ thống chính trị của mình, chủ trương vô thần. Lí luận của học phái Pháp gia có đóng góp lớn trong cuộc thống nhất đất nước, đưa lịch sử Trung Quốc phát triển lên một bước mới.


(3) Nghệ thuật-Kiến trúc

1. Ai Cập:

+ Kiến trúc: Người Ai Cập đã xây dựng nhiều công trình kiến trúc như đền đài, cung điện, kim tự tháp nổi tiếng làm người phải kinh ngạc và cúi đầu trước cái uy nghi hùng vĩ, biểu hiện quyền lực vô biên của thần và của nhà vua. Trong kiến trúc, nỗi bật nhất là các kim tự tháp. Cho đến nay, người ta đã phát hiện được trên 70 kim tự tháp, chủ yếu là ở khu vực phía bắc Ai Cập, gần thủ đô Cairo nằm ở phía tây sông Nile.

Việc xây dựng lăng mộ được các Pharaon từ vương triều III chú ý. Kim tự tháp Djoser, do kiến trúc sư Imhotép xây dựng, là kim tự tháp đầu tiên. Tới vương triều IV, kim tự tháp được xậy dựng nhiều nhất, quy mô và kết cấu hoàn chỉnh, kĩ thuật tinh xảo và nghệ thuật trang trí đạt tới trình độ cao. Nỗi bật nhất là kim tự tháp của Kheops có chiều cao 148m, phải mất 30 năm mới xây dựng xong.

Việc xây dựng kim tự tháp “đã đem lại cho nhân dân Ai Cập cổ đại không biết bao nhiêu tai họa”. Nhưng nhân dân Ai Cập, bằng bàn tay khối óc của mình, đã để lại cho nền văn minh nhân loại những công trình kiến trúc vô giá.

+ Điêu khắc: Ngoài việc xây dựng lăng mộ, người Ai Cập còn đạt tới trình độ cao về điêu khắc. Đặc biệt là tượng Sphinx (nhân sư) ở gần kim tự tháp Khéphren, mình sư tử, đầu vua Khéphren, ý muốn ca ngợi vua không những có trí tuệ của loài người mà còn có sức mạnh của sư tử.

+ Nghệ thuật tạo hình thời Trung và Tân vương quốc phát triển. Thời Trung vương quốc có rất nhiều tượng nổi khắc trên tường đá và những bức tranh vẽ trên tường mộ. Thời Tân vương quốc đã để lại một tác phẩm điêu khắc xuất sắc nhất của nghệ thuật Ai Cập là những tượng nữ thần Neferti.

Những công trình kiến trúc, điêu khắc trên là kết quả của quá trình lao động, là đỉnh cao của sự sáng tạo của con người ở lưu vực sông Nile.


2. Lưỡng Hà:

Nổi bật nhất trong nghệ thuật kiến trúc của Lưỡng Hà là thành Babylone và khu vườn treo Babylone được xây dựng trong thời kỳ trị vì của Nabuchodonosor – quốc vương tân Babylone, sau này được coi là một trong bảy kỳ quan của thế giới cổ đại.

- Thành Babylone có chu vi 16km, tường thành bằng gạch cao 30m, dày 8,5m có 7 của và các tháp canh. Thành phố được trang trí tỉ mỉ bằng phù điêu, tượng với các cánh cử thành bằng đồng vững chắc. Tổng thể kiến trúc thành Babylone được kết hợp hài hòa với cảnh quan thiên nhiên làm tăng thêm vẻ thơ mộng.

- Vườn treo Babylone: được xây dựng kề bên cung điện của vua Nabuchodonosor. Tương truyền khu vườn thượng uyển độc đáo này được Nabuchodonosor xây dựng để chiều ý vương hậu sủng ái của ông vốn là cồn chúa xứ Mèdes, xứ sở của núi rừng, cây, cảnh.

- Đền tháp Ementélauki cũng là một loại hình kiến trúc độc đáo của Lưỡng Hà. Tháp cao 90m, từ xa trông ngọn tháp bảy tầng như một cái thang khổng lồ vươn thẳng lên trời.

- Cung điện của vua Giudéa dài tới 50m, rộng 30m, tường xây bằng gạch đá có trang trí chạm khắc sặc sỡ và cung điện của vua Nabuchodonosor cũng là những công trình kiến trúc độc đáo của người Lưỡng Hà.


* Nghệ thuật, kiến trúc Arập:

- Nghệ thuật kiến trúc Hồi giáo có vị trí rất cao trong kho tàng tri thức kiến trúc nhân loại. Nhiều cung điện và thánh thất Hồi giáo với mái vòm và các tháp nhọn được xây cất công phu và trang hoàng rực rỡ, chạm trổ tinh vi, trang trí bằng hoa lá và các hình kỉ hà, vòi phun nước... nghệ thuật kiến trúc Arập thừa hưởng những nét đẹp của các công trình xây dựng Ba Tư với những cây cột mảnh, vòng cung nhọn hình móng ngựa hoặc học theo người Byzantin cách xây vòm tròn, đồng thời học tập nghệ thuật của Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ, cho nên nghệ thuật của người Arập rất phong phú và đa dạng.

3. Ấn Độ:

Ấn Độ là nơi có nền nghệ thuật tạo hình phát triển rực rỡ nhất phương Đông. Chính vì thế đây là nơi cung cấp nguyên mẫu cho nền nghệ thuật của nhiều nước, trong đó có Trung Quốc.

Nghệ thuật Ấn Độ mang tính chất bền vững và lấu đời. Đó là nền nghệ thuật chuyển tải nội dung tôn giáo, do đó ứng với mỗi tôn giáo sẽ có một mảng nghệ thuật riêng biệt, trong đó phải kể đến ba mangr nghệ thuật lớn, nhiều về số lượng, phong phú về nội dung là nghệ thuật Hindu giáo, Phật giáo và Hồi giáo.

Điểm chung của những mảng nghệ thuật tôn giáo Ấn Độ là khát vọng tâm linh, khát vọng về cái đẹp và sự giải thoát. Tất cả những đặc điểm trên được thể hiện thông qua một số công trình kiến trúc tiêu biểu sau đây:



  • Stupa Sanchi và chùa Hang Ajanta là những công trình kiến trúc Phật giáo sớm nhất của Ấn Độ, đây là những mẫu lí tưởng của kiến trúc Phật giáo.

  • Các công trình kiến trúc Hindu giáo được xây dựng nhiều nơi trên đất Ấn, và phát triển cực thịnh từ thế kỉ VII đến thế kỉ XI. Tiêu biểu có các công trình như cụm đền tháp Khajuraho ở Trung Ấn được xây dựng trong khoảng thời gian từ năm 900 – 1150, gồm 85 đền đài trải rộng giữa những hồ nước và cánh đồng.

  • Kiến trúc Hồi giáo tiêu biểu là các giáo đường và lăng mộ với những đường cổng đồ sộ, những tháp xây cao vút và được trang trí bằng những hoa văn đặc trưng phi hình tượng. Tháp Mina được xây dựng từ TK XIII và lăng Mahah được xây dựng từ TK XII là những công trình nỗi tiếng của dạng kiến trúc này.

4. Trung Quốc:

+ Hội họa


  • Từ thời đại đồ đá mới, người Trung Quốc đã từng biết dùng màu sắc để trang trí.

  • Cách đây 2000 năm, đã xuất hiện những bắc tranh lụa như “Phượng quỳ mỹ nữ” và “Nhân vật Ngự Long” cho thấy hội họa Trung quốc đã dạt trình độ cao.

  • Từ đời Hán trở về sau, hội họa Trung Quốc ngày càng phát triển, chất liệu để vẽ đa dạng (Lụa, đất nung, tượng đá, tường… ). Nổi tiếng là tranh lụa thời hán, tranh Phật thời Ngụy, Tấn, Nam – Bắc triều. Cố Khải Chi với những bức “Nữ sử châm đồ”, “Lạc thần phú đồ”… là mẫu mực về họa pháp. Tranh vẽ người thời Đường đạt đến đỉnh cao như tranh của Thánh họa Ngô Đạo Tử. Thời Minh – Thanh tranh sơn thủy, mai, lan, trúc, thạch, cỏ cây... được thể hiện nhiều.

  • Về lí luận hội họa: “Lục pháp luận” của Tạ Hách tổng kết kinh nghiệm sáng tác từ đời Hán đến đời Tùy, “Khổ qua hòa thượng họa ngữ lục” của Thạch Thọ (Minh - Thanh) viết về lịch sử hội họa rất nổi tiếng.

+ Điêu khắc:

Trung quốc có một nền nghệ thuật điêu khắc từ rất sớm (ngọc điêu có cách đây 6000 năm, sớm nhất thế giới), và rất phong phú về cách thể hiện (điêu khắc trên ngà voi, trên gỗ, gạch đá...).

Thach điêu là một ngành nghệ thuật nổi tiếng đã để lại những công trình vô giá như cặp tượng “Tần Ngẫu” đời Tần, “Lạc sơn Đại Phật” đời Tây Hán là pho tượng lớn nhất hành tinh, tượng phật “Nghìn mắt nghìn tay” và 500 vị La Hán “Vạn Tự Bi” có 39 vạn chữ thời Tống...

+ Kiến trúc:

Trung Quốc là nước có nền kiến trúc phát triển rực rỡ với nhiều công trình độc đáo, có tầm cỡ quốc tế. Thời Cổ-Trung đại, lịch sử phát triển kiến trúc Trung Quốc được chia làm 4 giai đoạn, mỗi giai đoạn mang một nét đặc trưng riêng. Có những công trình kiến trúc nỗi tiếng như: Thành Trường An, Vạn Lí Trường Thành, chùa Phật Quang ở Ngũ Đài Sơn, tháp chùa Giang Thiên trên ngọn Kim Sơn, thành phố Lạc Dương, Điện Màu Ni (Hà Bắc), Cổ Cung, Viên Minh Viên, Tử Cấm Thành....
(4) Những thành tựu về khoa học tự nhiên của phương Đông

1. Ai Cập:

Toán học:

Nhu cầu đo đạc ruộng đất, làm thủy lợi, xây dựng đền miếu, kim tự tháp, tính toán thu nhập... là những nguyên nhân thúc đẩy toán học, hình học cổ Ai Cập ra đời.

- Thiên niên kỉ thứ III.TCN là thời kì xuất hiện từng bước quan niệm trừu tượng về số của người Ai Cập. Sang đầu thiên niên kỉ thứ II.TCN, người Ai Cập đã phát triển thành công hệ đếm của mình.

Người Ai Cập đã biết dùng hệ thập phân. Nhờ có hệ đếm, người Ai Cập đã biết làm các phép tính cộng và trừ, còn nhân và chia thì thực hiện bằng cách cộng hoặc trừ nhiều lần. Tri thức đại số của người Ai Cập đã đạt tới việc giải phương trình bậc nhất.

- Về hình học, họ biết tính diện tích hình tam giác, tứ giác, biết rằng bình phương cạnh huyền bằng tổng bình phương hai cạnh trong một tam giác vuông. Người Ai Cập đã tìm được Pi = 3,14.

+ Thiên văn học:

- Người Ai Cập sớm phát hiện ra các chòm sao và đã soạn ra bản đồ các thiên thể. Loại bản đồ thiên thể này được vẽ trên trần nhà của đền đài cổ. Bản đồ 12 cung hoàng đạo có từ thời Vương triều XIV. Họ cũng biết sao Thủy, sao Kim, sao Hỏa, sao Mộc, sao Thổ và các hành tinh khác.

- Từ thời Tảo Vương quốc và Cổ Vương quốc người Ai Cập đã tính toán khá chính xác mực nước sông Nile hành năm. Nắm được quy luật về thời gian, biết tính năm, tháng, ngày, giờ, thời gian gieo hạt, gặt hái, và thời điểm để làm các nghi lễ tôn giáo...

- Ở Ai Cập, việc xậy dựng lịch gắn liền với việc quan sát sao Lang (Sirius) trên bầu trời. Một năm – 365 ngày là thời gian giữa hai lần sao Lang xuất hiện đúng ở đường chân trời. Người Ai Cập chia năm thành 3 mùa, mỗi mùa 4 tháng, mỗi tháng 30 ngày. Năm ngày còn lại được xếp vào cuối năm thành năm ngày lễ.



tải về 342.9 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương