Tự Do Ngôn Luận Bán Nguyệt San


LUẬT SƯ TỐ CÁO THÂN CHỦ KHÔNG KHÁC CHA ĐẠO ĐI TỐ CON CHIÊN XƯNG TỘI



tải về 1.02 Mb.
trang3/3
Chuyển đổi dữ liệu01.01.2018
Kích1.02 Mb.
#35225
1   2   3

LUẬT SƯ TỐ CÁO THÂN CHỦ KHÔNG KHÁC CHA ĐẠO ĐI TỐ CON CHIÊN XƯNG TỘI


  Truy cứu trách nhiệm hình sự luật sư do không tố giác thân chủ về các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng trở thành chủ đề nóng tại phiên thảo luận tại Quốc hội chiều 24/5.

Đại biểu Nguyễn Chiến (Hà Nội) đề nghị loại bỏ chủ thể luật sư ra khỏi quy định tại Điều 19 của dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự.

Ông Chiến nêu ra một loạt vấn đề như đưa chủ thể luật sư vào xử lý hình sự không có sự khảo sát đánh giá tác động tính nguy hại cho xã hội; cần điều chỉnh bằng chế tài hình sự hành vi này có mức độ nguy hại thế nào, có coi là tội phạm và phải bị trừng trị bằng biện pháp hình sự hay không.

Hơn nữa, quy định đẩy luật sư vào tình thế không những vi phạm điều cấm đối với luật sư được quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự và Luật Luật sư mà còn vi phạm quy tắc đạo đức nghề nghiệp.

Ông Chiến nhấn mạnh đây là một quy định vi hiến. “Luật sư đi tố giác thân chủ khác nào cha đạo đi tố con chiên vừa xưng tội. Chỉ một vụ luật sư tố giác thân chủ thôi, xã hội có còn tin để nhờ luật sư bào chữa bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ nữa hay không?”, đại biểu Nguyễn Chiến, đồng thời cũng là một luật sư bày tỏ.

Một trong những hệ lụy khi Điều 19 Bộ luật hình sự được thông qua là có thể đẩy luật sư từ chỗ đang thực thi nhiệm vụ bào chữa cho thân chủ theo đúng quy định của pháp luật, bỗng dưng lại trở thành người bị tình nghi phạm tội.

…………..

Theo News.Zing 24-05-2017





Đối thoại chỉ thực sự đạt được kết quả dân sinh – dân chủ – dân quyền khi đảng bị ép vào chân tường – một “vách đá tài chính” về ngân sách, suy thoái dẫn đến khủng hoảng kinh tế, phản kháng và hỗn loạn xã hội, nội bộ chính trị phân rã cùng trào lưu “tách đảng”, tất cả cùng cộng hưởng.

3 kế hoạch “đối thoại”

Dù nửa đầu năm 2017 vẫn chưa qua, nhưng đã có đến 3 sự kiện “đối thoại” khiến lùm xùm dư luận.

Cuộc “đối thoại” đầu tiên thuộc về chức trách của Hội Nhà văn Việt Nam với kế hoạch “Hội nghị hòa hợp dân tộc về văn học” và “sẽ mời tất cả các nhà văn hải ngoại về nước tham dự”, dự định tổ chức vào tháng 4-2017, nhưng cho tới giờ hoàn toàn bặt vô âm tín. Nghe nói tuyệt đại đa số nhà văn hải ngoại đã cự tuyệt lời mời bị xem là quá sức mị dân từ hội đoàn bị xem là “cánh tay nối dài của đảng”.

Sự kiện đối thoại thứ hai đã diễn ra đúng nghĩa, dù là “nước đến chân mới nhảy”. Tại một địa danh lần đầu tiên xuất hiện trên bản đồ chính trị thế giới: Đồng Tâm. Lần đầu tiên, một nhân vật đại diện cho thói kiêu ngạo cộng sản của đảng cầm quyền là Chủ tịch Hà Nội Nguyễn Đức Chung phải viết cam kết nhượng bộ trước đám đông nông dân chỉ chực chờ “nổi loạn”.

Và đến ý tưởng “đối thoại” chỉ mới nảy sinh vào tháng 5-2017: hội nghị trực tuyến toàn quốc sơ kết một năm triển khai thực hiện Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” vào sáng 18-5-2017 đã bớt hẳn khí sắc nhàm chán khi Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương Võ Văn Thưởng đột nhiên nhấn mạnh: “Chúng ta không sợ đối thoại, không sợ tranh luận, bởi vì sự phát triển của mỗi lý luận và của học thuyết cách mạng nào rồi cũng phải dựa trên sự cọ xát và tranh luận. Và cũng chính sự tranh luận đó tạo ra cơ sở để hình thành chân lý”.

Dấu hiệu đáng chú ý là vào năm nay, có vẻ sự việc trở nên “quyết liệt” và gấp gáp hơn. Nếu năm ngoái Võ Văn Thưởng chỉ hé ra ý định “đối thoại” mà không kèm theo kế hoạch nào và cũng chẳng làm gì sau đó, thì lần này ông Thưởng đã nhích thêm một chút (mới chỉ một chút) khi thông tin cho báo giới nhà nước: “Ban Tuyên giáo Trung ương đang chờ Ban Bí thư thông qua một văn bản hướng dẫn về việc tổ chức trao đổi và đối thoại với những cá nhân có ý kiến và quan điểm khác với đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng và pháp luật của Nhà nước”.

Sau động thái trên của Võ Văn Thưởng, một số ý kiến trong giới phản biện tỏ ra hào hứng và vồn vã đón nhận “chủ trương đối thoại của đảng”. Một số khác trong đấu tranh dân chủ nhân quyền trong nước cho rằng kỳ này đảng có vẻ nghiêm túc hơn trong việc đối thoại, mặc dù vẫn chỉ dùng lối đảo từ theo cách ám chỉ “người khác biệt quan điểm” chứ chưa dám gọi thẳng tên “người bất đồng chính kiến”.

Nhưng tại sao từ nhiều năm qua, đã có không ít lời kêu gọi đối thoại từ giới trí thức phản biện độc lập mà đảng vẫn không chịu có “chủ trương”? Thậm chí ngay cả lời kêu gọi này xuất phát từ nhóm trí thức “phản biện trung thành” cũng không khiến đảng mảy may động lòng?



Vì sao đảng bỗng nhiên muốn “đối thoại”?

Có khá nhiều bằng chứng về thế chủ động đề nghị đối thoại đã từng thuộc về giới phản biện và bất đồng chứ không phải chính quyền.

Từ năm 2015 đến nay, “Nhóm 61” – một tập hợp mới của một số trí thức đảng viên và những người thuộc phong trào học sinh và sinh viên ở Sài Gòn trước năm 1975 – đã vài lần gửi thư yêu cầu cho Bộ Chính trị về nhu cầu đối thoại và đề nghị “ít nhất một cuộc gặp để góp ý”. Nhưng từ Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trở xuống, tất cả nín bặt, không một lời hồi âm.

Còn trước đó, vào năm 2014 khi nổ ra vụ hạ đặt giàn khoan HD 981 của Trung Quốc ở Biển Đông, nhiều trí thức đã yêu cầu Bộ Chính trị phải đối thoại để xử lý dứt khoát vấn đề đối sách với Bắc Kinh. Nhưng Bộ Chính trị đã như thể cấm khẩu.

Vào giữa năm 2016, khi cuộc biểu tình bảo vệ môi trường bùng nổ ở miền Trung và kéo theo các cuộc biểu tình liên tiếp của người dân ở hai đầu cầu Hà Nội và Sài Gòn, Ủy viên Bộ Chính trị Võ Văn Thưởng bất chợt tung ra một phát ngôn hàm ý về “đối thoại với dân” như một động tác xoa dịu không khí phẫn nộ trong dân chúng. Nhưng sau đó ông Thưởng đã “biệt tích” trước cảnh công an Việt Nam lộ nguyên hình hài, hùng hổ bắt bớ và đánh hội đồng không thương tiếc hàng trăm người biểu tình.

Có thể giải thích thế nào về cái cách thập thò rất thiếu chính danh như thế của “đảng ta”?

Trên phương diện tâm lý, sĩ diện của đảng là cao vời vợi, dù sắp chết đến nơi vẫn còn vời vợi cao. Tâm lý đầu tiên và luôn có là “ta đường đường là ủy viên Bộ Chính trị, sao phải hạ mình ngồi ngang hàng và nói chuyện với mấy tay trí thức chỉ là đảng viên thường?”.

Còn nếu có diễn ra một cuộc đối thoại trong mơ, cái gì sẽ được nói ra? Chẳng lẽ giới lãnh đạo đầy sĩ diện và ảo tưởng quyền lực lại chịu ngồi im để nghe “đám trí thức nhiều chuyện” răn dạy sự cần kíp phải bỏ ngay Điều 4 Hiến pháp, chấm dứt ngay sự độc tôn lãnh đạo của đảng cầm quyền, thoát Trung và cả thoát Cộng, chống tham nhũng từ ngay trong nhà mình… Toàn những chuyện quá khó nghe và quá khó nuốt! Toàn những chuyện “bỏ đảng là tự sát!”.

Kết quả là cho đến tận giờ này, khi quá nhiều dư luận sôi sục về hiện tình “đảng nát như tương” và “đất nước nát như cám”, vẫn không có nổi một cuộc đối thoại cho ra hồn giữa một đảng vẫn tuyên xưng là chính danh với những người chẳng cần danh chính nhưng nghiễm nhiên ngôn thuận.

Không ít người trong giới phản biện nói thẳng rằng đừng hy vọng gì về “bản lĩnh đối thoại” của giới lãnh đạo ngày nay. Họ còn đang phải dành đến 99% thời gian và tâm trí để lo đối phó triệt hạ nhau trong nội bộ, lấy đâu ra hơi sức để ngồi nói chuyện với mấy ông trí thức. Mà cứ nghe đến trí thức là họ lại lắc đầu quầy quậy.

Rất có thể chỉ sau vụ Đồng Tâm tháng 4-2017, khi Chủ tịch Hà Nội Nguyễn Đức Chung phải “hạ mình” đến tận thôn Hoành để đối thoại với bà con nông dân quyết tử giữ đất, Bộ Chính trị đảng mới nhận ra là một khi đảng và chính quyền không có được tiếng nói “nhất trí” trong việc đàn áp người dân Đồng Tâm, mà ngay cả có chủ trương dùng bạo lực đàn áp thì chẳng có gì chắc chắn là lực lượng vũ trang sẽ dám ra tay, còn Đồng Tâm sẽ không biến thành một Thái Bình thứ hai để trở thành một cuộc khởi nghĩa bùng nổ dữ dội toàn miền Bắc…, mới dẫn đến phát ngôn “không sợ đối thoại” của Trưởng ban tuyên giáo trung ương Võ Văn Thưởng…



Đảng muốn gì?

Cũng như giấc mơ cộng sản chủ nghĩa trầy trật quăng quật trong những người bảo thủ nhất của đảng, cuộc gặp giữa số người này với những trí thức chẳng còn mơ màng vào chủ nghĩa xã hội vẫn là một tiến trình vô cùng chậm chạp và xen kẽ không hiếm cơn mộng du.

Trong hiện tình khốn quẫn ở Việt Nam, đối thoại chỉ manh nha thành hình ở những nơi và vào những thời điểm cực chẳng đã đối với chính quyền, ở những cấp địa phương có điểm nóng như Đồng Tâm mà đảng không thể không hạ mình, chứ không phải cấp trung ương. Đối thoại với nông dân, ngư dân, tiểu thương vì bị tước đoạt kế sinh nhai cuối cùng – những người bị coi là sắp “làm loạn”, chứ không phải với những trí thức được chính quyền đánh giá là “chưa nguy hiểm lắm.”

Nhưng vụ Đồng Tâm chỉ là một mồi lửa. Còn nhiều mồi lửa khác trong dân chúng. Trong giới trí thức…

Chỉ đến lúc này, sau khi đã họp mãi và nghĩ mãi nhưng không còn cách nào khác, đảng đành lê tấm thân tàn tạ đến “những người khác biệt về quan điểm”.

Nhưng lúc này mới là bắt đầu, chỉ mới bắt đầu thôi, cho cơ chế “đối thoại”.

Còn bắt đầu từ đâu và tiếp tới như thế nào? Những câu hỏi nát óc.

Bắt đầu từ đâu để giới đối lập không có lý cớ nào cho rằng “đảng ta” sợ đối thoại?

Nhằm những mục đích và kết quả gì cho “đối thoại”?

Thuyết phục, vận động và lôi kéo như mục tiêu truyền thống chăng? Nhưng mục tiêu này liệu có đạt được khi trí thức ngày càng tan vỡ niềm tin với đảng và nguy hiểm hơn cả là ngày càng bất trị và ít sợ hãi hơn, cho dù đảng vẫn dùng công an để răn đe bắt bớ thường xuyên?

Nhiều năm qua, rõ ràng phương pháp “đối thoại trong đồn công an” bằng đủ thứ sách nhiễu, theo dõi, canh nhà, triệu tập, đánh đập và dùi cui đe nẹt của giới “công an nhân dân làm công tác dân vận” đã quá ít tác dụng, phản cảm và còn bị công luận trong và nước cùng quốc tế lên án là phản động.

Hay đảng cần chuyển qua thái độ “lắng nghe” và “chia sẻ”?

Một kiểu cách như “đảng sẽ tiếp thu ý kiến trí thức” có vẻ sẽ tạm ổn trong hoàn cảnh nước sôi lửa cháy này, ít nhất cũng đạt được mục đích mị dân. Đối với dân Việt vẫn thường bị ma mị. Nhất là với những vị trí thức mà chỉ mới nghe một chút hơi hướng “đảng mở rộng dân chủ”, chưa biết thực hư thế nào đã vội rối rít, cuống quýt “xin được đối thoại”.

Nếu chỉ nhằm mục đích xoa dịu tạm thời, không có gì cao tay hơn là đảng cứ tổ chức vài cuộc đối thoại với những trí thức hoặc nhóm trí thức được đảng xếp vào danh sách “phản biện trung thành”. Mọi việc về cơ bản sẽ diễn ra với tính chất “ngoan hiền dễ bảo” như khi đảng nói chuyện hay chỉ đạo các hội đoàn nhà nước. Sẽ chỉ ghi nhận những ý kiến góp ý về điều chỉnh chính sách, còn ý kiến nào phản bác về thể chế chính trị như điều 4 Hiến pháp thì coi như “không nghe, không biết”…

Kết thúc những cuộc đối thoại trên, đảng sẽ cho báo chí nhà nước và đám dư luận viên “tuyên truyền sâu rộng” về chủ trương và kết quả thực hiện đối thoại của đảng. Trí thức sẽ sớm thỏa mãn, theo đúng đặc tính “dễ dao động” của họ. Và biết đâu đấy, những trí thức “phản biện trung thành” lại loan truyền bài học kinh nghiệm về “thành tâm của đảng” cho đám trí thức phản biện độc lập và cả cho các tổ chức xã hội dân sự độc lập. Từ đó mới thấy đảng mở rộng vòng tay yêu thương đến thế nào, để kẻ nào còn dám nói là đảng sợ đối thoại?

Hay sâu kín hơn, lại có những nhân vật, thế lực nào đó trong đảng muốn vận dụng cơ chế đối thoại để lợi dụng một ít nhân vật bất đồng và tổ chức xã hội dân sự làm cầu nối với giới chính khách phương Tây và lấy lòng người Việt hải ngoại, tích cực thu xếp cho “hậu sự”…

Nhưng dù gì, những mục tiêu và cách thức trên mới chỉ là não trạng của đảng – một não trạng vốn rất chủ quan duy ý chí và thường sai lệch rất nhiều so với thực tiễn.

Giới bất đồng nên làm gì?

Cuộc khủng hoảng Đồng Tâm đã trở thành một bài học rất có ý nghĩa dành cho giới trí thức phản biện và giới bất đồng chính kiến: chính quyền chỉ buộc phải ngồi vào bàn đối thoại, mà thực chất là đàm phán các điều kiện dân chủ và nhân quyền với dân chúng, khi các “công bộc của dân” đã hoàn toàn bế tắc về phương pháp luận lẫn phương pháp áp chế dân.

Bởi thế, những trí thức và người đấu tranh nhân quyền muốn có được kết quả đối thoại thật sự có ý nghĩa với đảng, cần chọn đúng thời điểm và bối cảnh bế tắc của đảng. Sớm quá sẽ bị giảm hoặc mất tác dụng. Thậm chí còn bị thói kiêu ngạo của đảng nhìn từ trên xuống và chỉ dừng ở đó.

Sau vụ Đồng Tâm mang tính cục bộ, hiện thời đảng mới chỉ nguy ngập chứ chưa bế tắc toàn diện. Đây là lúc mà giới bất đồng chính kiến không cần vội vã, sốt ruột, cuống quýt, càng không cần “cầu xin đối thoại”… Những cuộc gặp gỡ vào thời gian này, tuy vẫn nên xúc tiến, nhưng chỉ có ý nghĩa “hiểu nhau hơn” mà chưa thể giải quyết những nan giải căn cơ của đất nước và bản chất chế độ.

Đối thoại chỉ thực sự đạt được kết quả dân sinh – dân chủ – dân quyền khi đảng bị ép vào chân tường – một “vách đá tài chính” về ngân sách, suy thoái dẫn đến khủng hoảng kinh tế, phản kháng và hỗn loạn xã hội, nội bộ chính trị phân rã cùng trào lưu “tách đảng”, tất cả cùng cộng hưởng. Bối cảnh chính trị – xã hội càng tiệm cận điểm cộng hưởng này, đảng mà đặc biệt là những bộ phận “muốn thay đổi” hoặc muốn tìm lối thoát trong đảng sẽ càng cần đến đối thoại, càng biến diễn “thành tâm” hơn trong đối thoại, từ đó mới có thể từng bước mở ra dân chủ, nhân quyền và thay đổi bản chất chế độ.

Nếu đã chịu đựng được vài ba chục năm, chẳng lẽ giới bất đồng chính kiến và đấu tranh nhân quyền không thể kiên nhẫn thêm một vài năm nữa?



Nguồn: http://www.voatiengviet.com/a/dang-khong-so-doi-thoai-tranh -luan/3867814.html

ÔNG VÕ VĂN THƯỞNG: KHÔNG SỢ ĐỐI THOẠI, TRANH LUẬN


Theo Pháp Luật Online Thứ Năm, ngày 18/5/2017


Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Võ Văn Thưởng đã nói như thế tại hội nghị trực tuyến toàn quốc sơ kết một năm triển khai thực hiện Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, sáng 18-5.


Ông Thưởng cho biết, Ban Tuyên giáo Trung ương đang chờ Ban Bí thư thông qua một văn bản hướng dẫn về việc tổ chức trao đổi và đối thoại với những cá nhân có ý kiến và quan điểm khác với đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng và pháp luật của Nhà nước.

“Đây là vấn đề rất quan trọng. Chúng ta không sợ đối thoại, không sợ tranh luận, bởi vì sự phát triển của mỗi lý luận và của học thuyết cách mạng nào rồi cũng phải dựa trên sự cọ xát và tranh luận. Và cũng chính sự tranh luận đó tạo ra cơ sở để hình thành chân lý” – ông Thưởng nói nhưng cũng cho rằng cần có quy định rõ ràng để từng cấp từng ngành từng cơ sở từng đơn vị xác định rõ trách nhiệm của mình và phương pháp trong trao đổi, đối thoại.

Ông Thưởng nói đang cố gắng để Ban Bí thư thông qua vấn đề này trong thời gian tới.

……………….

Trong cuộc họp sơ kết của ngành Tuyên giáo–báo chí ngày 18-5 vừa qua, ông Trưởng ban Tuyên giáo TƯ đảng Võ Văn Thưởng đăng đàn nói mạnh rằng: “Chúng ta không sợ đối thoại, không sợ tranh luận, cọ sát ý kiến khác nhau để tìm ra chân lý”. Ông còn cho biết sắp có một chỉ thị của Ban Bí thư TƯ hướng dẫn việc đối thọai và tranh luận trong đảng và trong xã hội.

Đây là chuyện lạ, rất bất ngờ. Tôi phải bấm mạnh vào đùi để xem mình đang tỉnh hay mê sau khi đọc tin này. Vì có một sự thật rõ ràng là xưa nay đảng Cộng sản rất ngại, rất sợ việc tranh luận, việc đối thoại, việc cọ sát ý kiến một cách trung thực để tìm ra chân lý.

Cái khả năng lắng nghe ý kiến người khác là gần bằng con số “không”. Chính đây là căn bệnh kinh niên, trầm kha, chết người của đảng CS, con đường tử lộ của đảng, kéo theo thảm họa của nhân dân.

Có trăm nghìn sự thật nói lên căn bệnh bịt chặt 2 lỗ tai của người lãnh đạo CS. Trước các Đại hội X, XI, XII, có biết bao ý kiến, kiến nghị của hàng trăm trí thức, đảng viên góp ý vào các văn kiện dự thảo, nhưng đảng không thèm trả lời lấy một câu. Đó là những trí tuệ và tâm huyết mong muốn đối thọai xây dựng, nhưng đảng đã lạnh lùng không thèm đếm xỉa. Đó là thái độ kẻ cả, tự mãn, trịch thượng, vô văn hóa. Thành ra như nói chuyện với người điếc!

Ngay cả 5 bức tâm thư của Đại tướng Võ Nguyên Giáp về “Vụ án siêu nghiêm trọng Tổng cục II” và về “Khai thác bô-xit trên vùng Tây Nguyên”, gửi Bộ Chính trị và Ban Chấp hành TƯ, cũng không có đến một câu trả lời. Thế là không sợ tranh luận, không sợ đối thọai ư?

Gần đây Vụ án Đinh La Thăng, bao nhiêu câu hỏi dồn dập. Vụ án đã kết thúc hẳn chưa? Sao bị kết tội nặng thế mà vẫn còn là ủy viên TƯ Đảng, là Phó Ban Kinh tế TƯ, còn là đảng viên? Còn là Đại biểu Quốc hội. Đã thật công minh, đúng người đúng tội chưa? Tài sản tham nhũng, thất thoát được thu hồi ra sao, bao nhiêu? Còn bao nhiêu người liên can trong vụ án này? Sẽ xử ra sao?

Vẫn không một ai trả lời.

Nay ông Trưởng ban Tuyên giáo lại tuyên bố xanh rờn, không chút ngượng ngùng, là “đảng không sợ đối thọai, không sợ tranh luận”, nếu quả thật là thế thì đây là cả một cuộc cách mạng, đoạn tuyệt với quá khứ, mở ra một thời kỳ hoàn toàn mới, may mắn, tốt đẹp cho bản thân đảng Cộng sản, cho toàn xã hội.

Nhân đây xin mạnh dạn gợi ý với ông Trưởng ban Tuyên giáo hãy sớm tổ chức một vài cuộc hội thảo, đối thoại, tranh luận thật sôi nổi, có kết luận rõ ràng về một số vấn đề quan trọng, nóng hổi sau đây:

- Về Cương lĩnh Chính trị của đảng CS. Học thuyết Mác–Lenin có còn sức sống hay không? Chế độ độc đảng có thể là một chế độ dân chủ thật sự hay không? Chủ nghĩa Xã hội là sự thật hay là ảo vọng?

- Phương châm “Đất đai, ruộng đất là thuộc quyền sở hữu của toàn dân, do Nhà nước thay mặt thống nhất quản lý” có nên duy trì hay không? Hay nên trở lại phương châm “Người cày có ruộng” với các hình thức sở hữu tư nhân (là phổ biến), tập thể và công hữu, như trước năm 1960? Đâu là đúng, sai?

- Có nên giữ chính sách “các cơ sở quốc doanh có vai trò chủ đạo trong nền kinh tế” hay không? Vì theo đó các Tập đoàn quốc doanh được ưu đãi, nuông chiều quá đáng, làm ăn lỗ lớn hàng trăm nghìn tỷ đồng, lấn át, bóp chết các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ của giai cấp trung lưu đông đảo, là bệ đỡ rộng lớn làm nền cho phồn vinh kinh tế và cải thiện đời sống cho toàn xã hội?

- Có nên cho phép Quân đội và Công an làm kinh tế hay không? Có biết Trung Cộng đã cấm tuyệt đối chuyện này từ 12 năm nay, vì Quân đội làm kinh tế sẽ lao vào kiếm lợi nhuận, tay cầm súng sẽ lỏng lẻo, dễ tạo nên tham nhũng hưởng lạc, hư hỏng, đi trệch khỏi chức năng cơ bản là bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nhân dân? Việc Tổng công ty Bưu chính Quân đội Viettel cướp đất trong vụ Đồng Tâm là một điển hình sống, chưa nói đến mâu thuẫn gay gắt giữa Viettel với Tổng cục Bưu điện và ngành Viễn thông của Nhà nước.

Hãy tổ chức đối thoại tranh luận về 4 vấn đề lớn, nóng hổi trên đây, chưa nói đến các vấn đề hệ trọng khác, như: nên lựa chọn đường lối đối ngọai nào để có bạn tốt, đáng tin cậy; nên cải cách nền giáo dục ra sao? Có nên làm như Bình Định xây dựng tượng cha con ông Hồ Chí Minh tốn đến 118 tỷ đồng?

Đảng CS, Bộ Chính trị và ngành Tuyên huấn Trung ương chủ trương tổ chức tiến hành đối thoại thật sự là chuyện rất đáng hoan nghênh, một cuộc đổi mới gương mẫu rất có lợi cho đất nước, cho nhân dân.

Mở đầu, để tạo nên đà thuận lợi, hãy triệu tập những trí thức của đảng thường có chính kiến xây dựng, mạnh bạo, như các vị: Trần Phương, Ng. Văn An, Vũ Khoan, Lê Đăng Doanh, Phạm Chi Lan, Đặng Hồng Võ, Bùi Quang Vinh, Trương Đình Tuyển, Trần Quốc Thuận, Hoàng Xuân Phú, Vũ Ngọc Hoàng, Nguyên Ngọc, Phan Huy Lê, Ng. Huệ Chi, Trần Quốc Thước, Lê Mã Lương… Đây là một phần ‘túi khôn’ truyền thống của dân tộc.

Xây dựng thật sự và thật lòng một “nền văn hóa đối thoại” trong Đảng và trong xã hội là một bước tiến vượt bực trong tư duy và trong tác phong lãnh đạo của Đảng, sẽ làm lợi vô hạn cho đất nước và cho nhân dân, sẽ là một bước tiến dài để đảng Cộng sản thoát khỏi đà suy thoái nguy hiểm và khôi phục niềm tin của nhân dân, niềm tin mà mới đây Giáo sư – đảng viên Đào Công Tiến đã báo động là “đã cạn kiệt” do Đảng đã buộc nhân dân phải trả giá quá cao cho những sai lầm của mình suốt 70 năm qua.

Trong những sai lầm ấy, có sai lầm sợ đối thoại, sợ tranh luận, không chịu nghe ý kiến phản biện, xây dựng, tự thỏa mãn… đã thành cố tật của các nhà lãnh đạo CS nước ta. Có gì đáng mừng hơn là sự tự nguyện rũ bỏ cố tật ấy.



Trong những ngày vừa qua, một vài trang mạng đã “giật tít” rằng đảng CSVN sẽ đối thoại, liên quan đến câu phát biểu của ông Võ Văn Thưởng, Trưởng ban tuyên giáo trung ương đảng CSVN trong Hội nghị học tập về phong cách của ông Hồ Chí Minh, nhân sinh nhật thứ 127 của ông Hồ.

Theo báo Pháp Luật ở Sài Gòn, ông Võ Văn Thưởng cho biết là Ban Tuyên giáo trung ương đang chờ Ban Bí thư thông qua một văn bản hướng dẫn về việc tổ chức trao đổi và đối thoại với những cá nhân có ý kiến và quan điểm khác với đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng và pháp luật của Nhà nước.

Các trang mạng ở Hải ngoại đã dựa theo một số nội dung nói trên của báo Pháp Luật để diễn giải rằng đảng CSVN đang có xu hướng muốn đối thoại!

Tuy nhiên, trên các trang mạng của đảng và nhà nước như trang Nhân Dân, Tạp chí Cộng sản, Cổng thông tin Chính phủ và kể cả Thông tấn xã Việt Nam đều không nhắc gì đến nội dung phát biểu nói trên của ông Thưởng.

Nói cách khác, các trang mạng của đảng và nhà nước đều cắt bỏ đoạn ông Thưởng đề cập đến vấn đề đối thoại như báo Pháp Luật loan tải, mà chỉ nói chung chung về những chỉ thị của ông Thưởng yêu cầu các đảng ủy phải học tập phong cách Hồ Chí Minh để sống gần dân hơn, tránh những hiện tượng tiêu cực xảy ra gần đây.

Việc các trang thông tin của đảng và nhà nước không loan tải vấn đề đối thoại mà ông Thưởng phát biểu có thể đến từ hai lý do:

Một là Ban bí thư chưa chính thức chấp nhận đề nghị của Ban tuyên giáo trung ương nên chưa là quan điểm chung của đảng.

Hai là nội dung phát biểu về đối thoại của ông Thưởng đã không phù hợp với Hội nghị trực tuyến học tập về chỉ thị 05 của Bộ Chính trị liên quan đến học tập phong cách của ông Hồ, nên đã bị cắt bỏ.

Dù lý do nào đi chăng nữa, qua sự kiện loan tải khác nhau về nội dung phát biểu của ông Thưởng đăng lại trên báo đảng và báo bên ngoài cho thấy có sự nhận thức khác nhau về cái gọi là “đối thoại” dưới chế độ độc tài cộng sản.

Ông Thưởng đã nói rất rõ về chủ trương đối thoại của Ban tuyên giáo là giữa những cá nhân có ý kiến và quan điểm khác với đảng và nhà nước CSVN, chứ không phải là cuộc đối thoại giữa một tổ chức, một tập thể có quan điểm khác với CSVN.

Trong khi đó một số người vì vô tình hay cố ý, diễn giải phát biểu của ông Võ Văn Thưởng là một chủ trương nhằm mở ra một kênh đối thoại giữa đảng CSVN với lực lượng đối lập chống lại chính sách của đảng và nhà nước CSVN.

Thật sự nội dung đối thoại theo chủ trương của ông Võ Văn Thưởng đã và đang được đảng và nhà nước CSVN tiến hành kể từ khi họ tung ra Nghị quyết 36 cách nay gần 15 năm, nhằm chiêu dụ một số kiều bào hải ngoại. Nay Ban tuyên giáo muốn mở rộng hơn sự đối thoại để tìm cách tranh thủ với một số cá nhân vốn có những bất đồng về các chính sách hiện nay của CSVN trong bối cảnh đảng CSVN gặp quá nhiều khó khăn về tham nhũng, thảm họa Formosa ...

Những loại đối thoại này, CSVN không nhắm vào những đối tượng đang sống và đang đấu tranh ngay tại Việt Nam, mà chỉ nhắm vào những đối tượng ít hiểu biết tình hình thực tế ở trong nước, đang sinh sống tại hải ngoại là chủ yếu.

Đảng CSVN luôn luôn coi những cá nhân, tập thể khác ý kiến, đường lối của đảng là phản động. Khi bị coi là phản động thì chì có hai con đường: Một là đi vào tù dưới những tội vi phạm Điều 88, 79, 258. Hai là hợp tác và phục tùng đảng vô điều kiện.

Với chế độ độc tài độc đảng như vậy làm sao có sự tồn tại của cái gọi là: “Chúng ta không sợ đối thoại, không sợ tranh luận, bởi vì sự phát triển của mỗi lý luận và của học thuyết cách mạng nào rồi cũng phải dựa trên sự cọ xát và tranh luận.”

Đây là phát biểu mị dân của ông Thưởng và đảng CSVN, vì nó không bao giờ được chấp nhận trong chế độ độc tài dựa trên bạo lực, đàn áp và khủng bố.

Chế độ CSVN nói riêng và các chế độ độc tài nói chung chỉ chấp nhận “đối thoại” khi họ bị các lực lượng đối lập và quần chúng đẩy vào thế nguy hiểm, như chúng ta đã từng thấy diễn ra ở Ba Lan, Tiệp Khắc vào cuối thập niên 80 và tại Miến Điện vào những năm 2010 và 2014. Khi đó, đối thoại là nhằm giúp đảng độc tài hạ cánh an toàn, tránh sự tan rã toàn diện trước sức bật vũ bão của toàn dân.

Tóm lại, trong tiến trình đấu tranh trực diện, đối thoại không phải là một giải pháp để mang lại sự thay đổi dân chủ cho đất nước, khi thành phần lãnh đạo tiếp tục cố thủ trong lô cốt độc đảng. Đối thoại nếu có chỉ là một thủ thuật mị dân mà những chế độ độc tài mong qua đó tháo bớt ngòi nổ bất mãn của quần chúng và lực lượng đối lập để tìm cách mua thời gian tồn tại.

Đối thoại như là một giải pháp cho những bế tắc hiện nay của đất nước phải là một chính sách nghiêm túc đến từ ý thức từ bỏ độc tài, độc đảng, và phải được thể hiện qua những hành động cụ thể ngay lập tức như: thả tất cả các tù nhân lương tâm tại Việt Nam; tôn trọng quyền tự do phát biểu và tổ chức những buổi gặp gỡ, đối thoại với người dân; tôn trọng quyền biểu tình để bày tỏ ý kiến một cách ôn hòa, tôn trọng tự do truyền thông v.v... Chỉ với những hành động cụ thể này, người ta mới thấy là đảng CSVN thực sự mong muốn có những thay đổi tốt đẹp cho đất nước, và tiếp tay hợp tác để đẩy mạnh tiến trình đối thoại và dân chủ hóa đất nước.

Miệng nói đối thoại mà tiếp tục bịt miệng quần chúng, bỏ tù các nhà dân chủ ôn hòa, trấn áp nạn nhân Formosa... chỉ khiến cho người dân thấy rõ hơn các thủ đoạn của một chế độ đang trong giai đoạn đường cùng.



http://www.viettan.org





Tháng 5-2017, chỉ nửa năm sau việc gạ gẫm cho tỉnh Quảng Ninh vay 300 triệu USD để làm cao tốc Vân Đồn–Móng Cái nhưng rốt cuộc đã bị tỉnh này từ chối sau khi bị dư luận phản ứng mạnh mẽ, Trung Quốc lại đang dụ dỗ một địa phương khác biên giới phía Bắc là chính quyền tỉnh Cao Bằng, cũng với món vay 300 triệu USD để làm đường cao tốc từ Đồng Đăng, Lạng Sơn đến cửa khẩu Trà Lĩnh, Cao Bằng.

Vẫn là 300 triệu đôla!

Không hề rút được bài học kinh nghiệm nào từ Quảng Ninh, chính quyền Cao Bằng vội vã đề xuất Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc giao các bộ tham mưu vay 300 triệu USD từ Trung Quốc. Cao Bằng còn “khôn lanh” đến mức “chỉ điểm” cho Thủ tướng rằng Bộ Giao thông Vận tải là địa chỉ cần đứng ra vay Trung Quốc.

Nhưng Bộ Giao thông Vận tải lại là cơ quan phải hứng chịu mũi dùi của dư luận xã hội khi quá nhiệt tình đề xuất Chính phủ vay 300 triệu USD cho tỉnh Quảng Ninh vào cuối năm ngoái. Vào lần này, hẳn đã “rút kinh nghiệm sâu sắc”, Bộ giao thông Vận tải đã phản hồi chính quyền Cao Bằng rằng bộ này không phải là đối tượng được vay lại, nên đề xuất Thủ tướng để UBND tỉnh Cao Bằng và tỉnh Lạng Sơn đảm nhiệm việc vay.

Vậy thực chất của những món tiền cho vay mà Trung Quốc nhiệt tình gợi ý là gì?

Vào năm 2016, một chuyên gia phản biện độc lập là ông Lê Đăng Doanh đã lôi toạc thực chất nguồn gốc rất đặc biệt của số vay 300 triệu USD trên: số tiền này được lấy ra từ quỹ hỗ trợ xuất khẩu của Trung Quốc, chứ không phải là hỗ trợ xuất nhập khẩu. Nghĩa là điều kiện đi kèm của khoản vay này là Việt Nam phải nhập khẩu hàng hoá của Trung Quốc.

Ông Lê Đăng Doanh giải thích: “Trung Quốc hiện nay đang thừa quá nhiều thép và xi măng. Năng suất hằng năm của Trung Quốc đối với mặt hàng thép là 1.200 triệu tấn, Trung Quốc chỉ dùng 600 triệu tấn, số dư còn lại đang tìm cách đẩy sang liên minh châu Âu, sang Mỹ cũng như các nước khác… và đang bị các nước chống đối kịch liệt. Cho nên, bây giờ Trung Quốc dùng miếng “mồi” 300 triệu USD này. Nếu Việt Nam nhận lời vay vốn thì Việt Nam phải nhập toàn bộ thép, xi măng, thiết kế thi công, công nhân lẫn giám sát của Trung Quốc”.

Không cần chính phủ bảo lãnh?

Lại có thêm một dấu hiệu khác rất đáng nghi ngờ. Tháng 3-2017, Jin LiQun, Chủ tịch Ngân hàng Đầu tư cơ sở hạ tầng Châu Á (AIIB), một định chế do Trung Quốc khởi xướng, mới đây đã cùng đoàn công tác của AIIB đến làm việc với Bộ Tài chính Việt Nam với một hứa hẹn rất hấp dẫn: AIIB sẵn sàng hỗ trợ các hoạt động đầu tư cho khu vực tư nhân cũng như đầu tư cơ sở hạ tầng mà không cần bảo lãnh Chính phủ nhằm giảm áp lực nợ công.

Có thể cho rằng đây là lần đầu tiên mà AIIB, cũng như các ngân hàng Trung Quốc, đề nghị với phía Việt Nam về cơ chế cho vay “thoáng” đến như thế.

Trong khi đó, hầu hết các chủ nợ lớn nhất của Việt Nam như Ngân hàng Thế giới, Quỹ tiền tệ Quốc tế, Ngân hàng Phát triển Á châu đã “đóng cửa” đối với Việt Nam về các khoản vay lãi suất ưu đãi và thời gian ân hạn. Từ tháng 7-2017, Việt Nam sẽ phải vay với lãi suất thị trường gấp 3 lần mức lãi suất ưu đãi được vay trước đó, cùng thời gian ân hạn giảm đi một nửa. Nhưng điều kiện cần để doanh nghiệp Việt Nam được vay là phải có bảo lãnh của chính phủ.

Nhưng vì sao ngân hàng Trung Quốc dám cho Việt Nam vay “không cần chính phủ bảo lãnh”?

Sau một thời gian dài ồ ạt vay mượn quốc tế và trong nước, đến nay nợ công của Việt Nam đã lên đến 210% GDP, tương đương 431 tỷ USD –theo một phân tích mới nhất của Tiến sĩ Vũ Quang Việt. Trong tình cảnh thê thảm ấy, vào năm 2017 chính phủ của ông Nguyễn Xuân Phúc đã tuyên bố chỉ bảo lãnh đúng 1 tỷ USD cho các doanh nghiệp, giảm hẳn so với mức bảo lãnh 1,5 tỷ USD vào năm 2016, 2,5 tỷ USD vào năm 2015 và hơn 6 tỷ USD vào năm 2014.

Những lý do trên đã khiến nhiều doanh nghiệp và chính quyền địa phương bắt đầu ngó ngàng sang “cửa Trung Quốc”…

Nhưng cho tới nay, đã có quá nhiều dẫn chứng rất cụ thể về hậu quả quá trầm trọng từ các dự án do nhà thầu Trung Quốc đảm nhiệm.

“Đòn bẩy” của Trung Quốc là ở chỗ ban đầu doanh nghiệp nước này đưa ra thiết kế rất thấp. Tuy nhiên, sau khi thực hiện thì giá cứ bị “đẩy lên”, dần dần giá chào rẻ ban đầu sẽ trở nên “rất đắt”. Dự án đường cao tốc trên cao Cát Linh–Hà Đông là bài học nhãn tiền, khiến đội vốn lên 100%, kéo dài thời gian từ năm này qua năm khác.

Một trong những mánh khóe rất phổ cập của nhà thầu Trung Quốc là bỏ thầu với giá khá thấp, nhưng sau đó tống công nghệ lạc hậu vào dự án, đồng thời đòi tăng chi phí bổ sung trong quá trình thực hiện dự án… để bù đắp “thiệt hại”.



Cái bẫy “Một vành đai, một con đường”

Cho vay tín dụng lại luôn là một phương thức khống chế và từ đó dẫn đến thao túng kinh tế và cả chính trị của Trung Quốc đối với nhiều quốc gia.

Một phân tích của tác giả Brahma Chellaney trên trang Project Syndicate ngày 23-01-2017, do Tạp chí Nghiên cứu quốc tế dịch và đăng tải đã làm rõ: Thông qua sáng kiến “Một vành đai, một con đường” trị giá 1 nghìn tỷ USD, Trung Quốc đang hỗ trợ xây dựng các dự án cơ sở hạ tầng ở các nước đang phát triển nằm ở các vị trí chiến lược, thường là bằng cách cung cấp các khoản vay khổng lồ cho chính phủ các nước này. Từ đó, các nước ngày càng sa vào bẫy nợ khiến họ trở nên dễ bị chi phối trước ảnh hưởng của Trung Quốc.

Gánh nặng nợ nần đè lên vai các nước nhỏ càng lớn thì ảnh hưởng của Trung Quốc với các nước đó càng tăng. Sri Lanka là một trường hợp điển hình nhất. Trung Quốc đã nhanh chóng trở thành nhà đầu tư và là chủ nợ hàng đầu của Sri Lanka, và là đối tác thương mại lớn thứ hai, qua đó có được ảnh hưởng ngoại giao lớn đối với nước này.

Còn nhiều ví dụ khác như Nepal, Venezuela, Lào, Campuchia… mà Trung Quốc đã từng bước khống chế được qua cơ chế cho vay mượn tín dụng.

Trung Quốc hiện đã sử dụng ảnh hưởng của mình để thúc đẩy Campuchia, Lào, Myanmar và Thái Lan ngăn chặn một ASEAN đoàn kết chống lại việc Trung Quốc theo đuổi một cách hung hăng các yêu sách lãnh thổ trên Biển Đông.

Trung Quốc hiện đang đi thêm các bước để đảm bảo các nước này sẽ không thể thoát khỏi các món nợ của mình. Để đổi lấy việc điều chỉnh thời hạn trả nợ, Trung Quốc yêu cầu các nước giao cho mình hợp đồng xây dựng các dự án bổ sung, qua đó biến khủng hoảng nợ của họ kéo dài mãi. Tháng 10-2016, Trung Quốc đã xóa khoản nợ 90 triệu USD cho Campuchia chỉ nhằm giành thêm các hợp đồng lớn mới.

Một số nền kinh tế đang phát triển đang rất hối tiếc về quyết định nhận các khoản vay của Trung Quốc. Các cuộc biểu tình đã bùng phát do tình trạng thất nghiệp tràn lan, được cho là do việc bán phá giá hàng hóa Trung Quốc, giết chết ngành sản xuất trong nước. Các cuộc biểu tình càng trở nên trầm trọng hơn do việc Trung Quốc đưa lao động Trung Quốc đến làm việc tại các dự án của mình.

Các chính phủ mới ở một số nước, từ Nigeria đến Sri Lanka, đã đề nghị điều tra các nghi án hối lộ của Trung Quốc với các nhà lãnh đạo tiền nhiệm…

Kẻ nào “cõng rắn cắn gà nhà”?

Từ đầu năm 2016 đến nay, có những dấu hiệu đáng lo ngại là Trung Quốc đang tăng cường đầu tư vào các dự án ở Việt Nam để khống chế dự án để từ đó mở rộng thao túng kinh tế Việt Nam lẫn chiến thuật “lấn đất”.

Theo những số liệu của Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), đến cuối tháng 4-2017, Trung Quốc tiếp tục là một trong 4 nhà đầu tư nước ngoài lớn của Việt Nam, đặc biệt số dự án góp mua và chờ mua doanh nghiệp Việt khi lên sàn của đối tác này đang tăng rất mạnh. Lượng vốn đầu tư nước ngoài (FDI) của các doanh nghiệp, nhà đầu tư Trung Quốc đạt hơn 900 triệu USD, tăng hơn 530 triệu USD so với cùng kỳ năm trước, tỷ lệ tăng vốn đạt trên 140%.

Đối chiếu với cái bẫy “Một vành đai, một con đường” sẽ dễ dàng nhận ra Việt Nam không hề là ngoại lệ trong số nhiều nước đang phát triển phải chấp nhận các khoản vay của Trung Quốc. Không được các nhà đầu tư tổ chức quan tâm, Việt Nam và một số nước đã không tìm được nguồn vốn cho các dự án cơ sở hạ tầng lớn. Thế nên khi Trung Quốc xuất hiện, hứa hẹn các khoản đầu tư rộng lượng với tín dụng dễ dàng, các nước này đều nhận lời. Chỉ sau này thì mọi thứ mới trở nên rõ ràng hơn rằng mục đích thực sự của Trung Quốc chính là thâm nhập thương mại và gây ảnh hưởng chiến lược, nhưng khi đó thì mọi chuyện đã quá trễ, và các nước này bị dính vào một vòng luẩn quẩn với các món nợ từ Trung Quốc.

Trong quan hệ Việt–Trung, nếu lấy mốc từ năm 2001 theo một thống kê của Việt Nam, thì từ năm đó đến năm 2016, Việt Nam nhập siêu từ Trung Quốc với quy mô không ngừng tăng qua các năm với tốc độ chóng mặt, từ 200 triệu đôla Mỹ năm 2001 lên gần 37 tỉ đôla Mỹ năm 2016, tức tăng đến 180 lần (chưa kể con số nhập siêu 20 tỷ USD từ Trung Quốc qua đường tiểu ngạch).

Trong suốt giai đoạn 2003-2013, Trung Quốc đã thống trị nhóm sản phẩm ở 4 trong 5 ngành chính là thủy điện, nhiệt điện, xi măng, bauxite, và sàng tuyển than tại Việt Nam. Hệ quả là mỗi năm, Việt Nam phải nai lưng nhập khẩu đến 10 tỉ đôla Mỹ cho nhóm sản phẩm máy và thiết bị đồng bộ, trong khi tỉ lệ nội địa hóa là cực kỳ thấp.

Nhiều dự án vốn đầu tư phải vay từ Trung Quốc, từ đó tạo ưu thế cho Trung Quốc đặt ra các điều kiện như phải mua thiết bị từ chính thị trường của họ. Thậm chí nếu phía Trung Quốc không “chủ động gợi ý” thì một số doanh nghiệp Việt Nam cũng quá hiểu là doanh nghiệp Trung Quốc có chế độ bao thư phong bì thuộc loại nặng nhất thế giới.

Chính phủ thời Phó thủ tướng Hoàng Trung Hải và Bộ Công thương thời Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng là hai địa chỉ đặc biệt, trong số nhiều bộ ngành, chính quyền địa phương và doanh nghiệp, phải bị xem là “tội đồ” cho ý thức hệ “cõng rắn cắn gà nhà”.

Giờ đây Việt Nam không chỉ bị ảnh hưởng chính trị nặng nề từ “Thiên triều”, mà nền kinh tế đang lệ thuộc chặt chẽ vào Trung Quốc sẽ hết sức chật vật nếu muốn thoát khỏi vòng kiềm tỏa của người láng giềng khổng lồ tham lam, nhiều thủ đoạn ở phương Bắc.

Không còn cách nào khác, muốn chống ngoại xâm thì việc đầu tiên phải là chống nội xâm. Không thể thoát Trung nếu không giải quyết bài toán thanh loại những kẻ “cõng rắn cắn gà nhà”.



Ngay trước mắt, một tỉnh nghèo như Cao Bằng thì lấy đâu ra ngoại tệ để trả món vay 300 triệu USD? Hay sẽ cam tâm chấp nhận những điều kiện mang tính áp đặt của Trung Quốc, làm tiền đề cho những toan tính của Bắc Kinh tạo thế khống chế địa hình địa vật quân sự ở khu vực biên giới phía Bắc Việt Nam?

P.C.D.

http://www.voatiengviet.com/a/trung-quoc-vay-tien-cong-ran-can-ga-nha/3865973.html



Người dân VN chúng ta thường nghĩ: chỉ có CSVN mới phá tan đất nước và bán nước. Đúng, nhưng xét cho cùng, chính tay mấy tên CS chóp bu có phá nổi đất nước không? Chính tay chúng có cày xới đất nước để khai thác khoáng sản như dầu, titan, than, bauxite… được không? Chính tay những tên Trọng, Dũng, Phúc, Quang, Ngân.. có trực tiếp cướp đất, đánh dân được không? Hẳn phải có một bè lũ tay sai, bè lũ ăn theo, thậm chí là ăn chính trong vụ phá nước, bán nước, hại dân mà chúng ta quên nêu tên, quên luận tội: đó là các đại gia đỏ! Chính bọn này mới trực tiếp cướp đất của dân, cày phá đất nước, đã và đang bán một phần đất nước VN cho Tàu cộng!

Xin cám ơn các chương trình “khai dân trí” trên Youtube đã nhắc nhở cho chúng ta điều này!



I. "Đại gia đỏ" là ai? Chúng đã phá hoại và bán nước cho ngoại bang như thế nào?

Mọi người đều rõ: nếu không dính líu đến CSVN, thì không ai cướp được đất, phá được rừng, đào được tài nguyên thiên nhiên, khai thác được dầu khí trên biển mà làm giàu, mà trở thành đại gia. Phải gọi chính xác chúng là “đại gia đỏ”, vì chúng là người thân, là tay chân, bè lũ của VC. Chúng còn là những tên Tàu cộng trá hình làm kinh doanh, là các công ty của Tàu nhưng không phải tư nhân thuần túy, mà chúng là giặc Tàu, quân (đội) Tàu, giả danh công nhân như ở Formosa Vũng Áng, bauxite Tây Nguyên…! Hãy khoan nói đến bọn giặc Tàu này, mà phải phanh phui ngay cái bọn đại gia VN, là con cháu người VN, nhưng đã bán linh hồn cho quỷ dữ, vứt lương tâm xuống cống rãnh, nên theo đuôi CSVN mà làm giàu bằng cách cướp của giết người! Những bọn này không hẳn chỉ là người trong nước, là dòng họ xa gần, là tay sai, là cánh tay nối dài của những tên chóp bu CSVN, mà có cả những tên tài phiệt, tư bản gốc Việt từ nước ngoài về, bỏ tiền ra mua chuộc bọn CS tham tiền để quay trở lại VN mà phá nước, hại dân! Chúng tôi không liệt kê tên tuổi bọn chúng vì quá nhiều, cũng không cần điều đó, vì khi luận tội bọn này, thì đã có lịch sử và những người hữu trách đảm nhận. Nếu không là tay chân của bọn CS chóp bu, nếu không là những kẻ bỏ tiền mua chuộc bọn VC để được chúng bao che cấp phép cho, thì ai làm được việc này? Những doanh nhân, những công ty của người dân VN mà không dính đến CS thì đã bị chúng cướp sạch, đã bị chúng cho phá sản hàng triệu doanh nghiệp và công ty tư nhân những năm vừa qua rồi. Sau khi chúng “mở cửa” chiêu dụ mọi người bỏ tiền của, công sức, tiềm lực ra đầu tư, giờ này những tư nhân đầu tư kinh doanh đã vô tù, bị phá sản, đã trắng tay, bị tan nát gia đình, vợ chồng con cái ly tan rồi! Còn lại nổi lên các đại gia đất, rừng, khoáng sản, nông sản, thậm chí đại gia buôn lậu, cướp đất… toàn là đại gia đỏ, hay chính xác là bọn cướp của giết người, bán nước hại dân!



II. Tại sao đạigia đỏ là bọn cướp của giết người, bán nước hại dân

1/ Đại gia đất: Chúng là bọn dựa lưng CS để cướp đất của dân. Bao nhiêu dự án lớn nhỏ trên cả nước từ đô thị tới nông thôn, như bọn Viettel đang cướp đất của dân Đồng Tâm-Mỹ Đức Hà Nội, bọn cướp đất Thủ Thiêm dựa vào kẻ cầm quyền Sài Gòn, bọn “Mặt trời… đen” ở Đà Nẵng đã dựa vào Nguyễn Bá Thanh để cướp đất của giáo xứ Cồn Dầu, ngôi làng có hàng hơn 300 năm nay bị xóa sổ và dân chúng lưu lạc lên rừng, bọn cướp đất Dương Nội, Thái Bình, Hà Tĩnh, và còn vô vàn vụ cướp đất lớn nhỏ khác trên cả nước cho dự án này dự án nọ, khắp nơi và mọi lúc!

2/ Đại gia thuỷ điện trên khắp nước, nhất là miền Trung: Bọn này cướp đất nông nghiệp, cướp rừng, phá hoại môi trường, và từng giết người trong các vụ xả lũ hàng năm, gây bao tai họa tang thương, mất người, mất tài sản, mất nơi ăn chốn ở cũng như công việc làm của bao người dân!

3/ Đại gia khoáng sản: Bauxite Tây Nguyên, Titan Bình Thuận, than khoáng sản ở miền Bắc, miền Trung, dầu khí ở biển Đông v.v... Không ai trong dân Việt còn không biết và căm thù bọn này! Chúng đã cưỡng chiếm đất đai, xua đuổi người dân ra khỏi nơi ở, ruộng vườn, công việc làm ăn của họ, tạo nên những hàng lớp dân oan vô sổ kể! Rồi chúng đã cấp phép cho Tàu, rước giặc vào nhà đào bới xới lộn hết đất nước ta, phá tan môi trường sống, gây ô nhiễm không khí, nguồn nước ngầm, sông hồ và biển, gây nạn sụt lún, cát bay lấp nhà, lấp làng mạc, lấp ruộng vườn của dân như ở dọc bờ biển các tỉnh miền Trung, nhất là ở Bình Thuận. Thậm chí chúng đánh dân biểu tình giữ đất, giữ nhà của họ như ở miền Bắc, ở Phan Thiết, Bình Thuận, Ninh Thuận. Chúng cũng đe dọa đến sự phá sản của những người đầu tư du lịch ở các tỉnh này, khi chúng khai thác titan gây ô nhiễm nguồn nước và không khí, như từng có câu: “Titan làm tàn du lịch”! Chúng thu đất du lịch đang xây dựng ở Kê Gà Bình Thuận để làm cảng xuất khẩu titan thô hay quặng bauxite qua Tàu, phá nát đường lộ từ Tây nguyên xuống vì hàng đoàn xe chở quặng nhôm, và những hồ bùn đỏ độc hại đã tràn ra hay thấm vào lòng đất. Ở những nơi khai thác than như Bắc hay Trung Việt, thì không khí bị bụi than gây ô nhiễm nặng nề, gieo bệnh tật cho người dân, đe dọa sự sống của toàn dân do nhiễm độc!

4/ Đại gia rừng, gỗ, lâm sản: Bọn này sau khi phá nát rừng vì khai thác gỗ, phá hoại môi trường, gây sạt lở, lũ lụt, và chiếm cứ những cánh rừng rộng hàng trăm, hàng ngàn cây số vuông, nay vì ác nhân thất đức đã đang trên đường phá sản, nên chúng đã bán các dự án cho giặc Tàu để tự cứu mình và thu gom tiền trốn sang nước khác để thoát tội. Một số kẻ trong nhóm này cũng đang hăm dọa nếu ngân hàng đòi nợ thì sẽ bán rừng, bán dự án cho Tàu, khiến các ngân hàng nhà nước chưa dám hay không dám đòi nợ chúng, điển hình như bọn Hoàng Anh Gia Lai. Điều này càng xác nhận rõ bọn tư sản đỏ, đại gia đỏ toàn là bọn bất nhân không có linh hồn, chúng hầu hết là xuất thân từ bọn vô sản, vô học, thì làm gì có khả năng mà làm giàu bằng công sức, trí tuệ của chúng, ngoài việc bám đuôi bọn quỷ đỏ CS để ăn cướp

Còn phải kể đến bao nhiêu tên đại gia buôn lậu sừng tê, á phiện, buôn bán đồ độc hại của Tàu để giết dân làm giàu, giao dự án nọ kia cho Tàu để có tiền hàng tỷ đô la, bọn này đông không kể hết!



III. Đại gia đỏ là bọn huỷ hoại nền nếp gia phong đạo đức của dân tộc VN

Chúng đi theo CS để được chống lưng, được cấp đất đai, rừng núi, được vay tiền ngân hàng nhà nước mà không cần bảo chứng, hoặc dùng chính đất được cấp mà thế chấp vay mượn nhưng không trả! Đất đáng 3 đồng thì chúng kê lên 30 đồng, được ngân hàng cho vay phân nửa hay 2/3 trị giá ảo, thế là chúng tha hồ vung vít tiêu xài, làm dự án thì ít, mà xài bậy thì nhiều. Cứ thế nhiều lần, nhiều dự án, chúng trở thành đại gia. Bởi vậy, chữ đại gia đồng nghĩa với tội ác, tội đồ của dân Việt!



Ngoài tội cày phá đất nước, bán dự án, bán đất bán rừng cho Tàu cộng, giết dân, bọn đại gia đỏ còn phạm thêm một trọng tội là phá hoại nền đạo lý, văn hóa của dân tộc VN mà cha ông ta truyền lại. Vì bất nhân vô đạo, lại có sẵn tiền rừng bạc biển trong tay, chúng ăn chơi đàng điếm, và tạo nên một “mạng lưới” phục vụ cho chuyện chơi bời trác táng của chúng, bằng việc dẫn dụ một lũ trẻ trai gái vào đường tội lỗi: Những đứa con gái trời cho có chút nhan sắc mà mấy tên đại gia, thiếu gia say mê, đã không ngần ngại bỏ gia đình, chà đạp lương tâm mà bước chân vào làng điếm, những loại điếm hạng sang, điếm cao cấp, tìm tiền bạc nhanh chóng bằng cách bán thân cho những tên lớn đáng tuổi bố, tuổi ông cố nội ngoại của nó để làm giàu, để có tiền hưởng thụ hoang đàng, có dịp đi nước ngoài ăn xài thoải mái, và đem tiền về cho những bố mẹ của chúng xây nhà, mua xe, bằng những đồng tiền máu thịt của muôn dân! Không ở đâu, không thời nào mà có một hệ thống điếm đàng có tổ chức, danh chính ngôn thuận, hoạt động hợp pháp như ở VN thời CS này! Các cuộc thi hoa hậu, Idol… được tổ chức khắp nơi, trong mọi ngành, để tuyển ra những chân dài, những ngôi sao, những hoa khôi mà đa số sẽ rơi vào vòng gái bán dâm cao cấp, chuyên phục vụ cho đại gia, cho thiếu gia con của đại gia, mới nứt mắt ra, không học hành mà đã đàng điếm, ăn chơi, phá phách! Chúng phá nhà của chúng thì mặc thây chúng, nhưng chúng còn phá cả đất nước, phá gia đình nhiều người bằng bả vinh hoa, tiền của như nước, trong khi đất nước khó khăn nghèo khổ! Bọn cầm quyền lẫn đại gia này chính là bọn đàng điếm vô luân số một! Các người lãnh đạo ở các quốc gia khác họ rất kiêng dè giao du với bọn gái mại dâm, hay diễn viên, hoa hậu vì sẽ bị đàm tiếu, lên án như một vài tổng thống, thủ tướng, bộ trưởng của các nước từng bị thân bại danh liệt vì liên quan đến gái gú. Còn VNCS thì sao? Không tên nào có chức có quyền mà thoát khỏi gái gú, chân dài mỏ đỏ, như cha con Phùng Quang Thanh, Nông Đức Mạnh, thậm chí già sắp xuống lỗ còn ôm gái, theo gương tên dâm tặc HCM! Những tấm hình tung lên mạng chụp Nguyễn Xuân Phúc đầu hột vịt toe toét bên diễn viên Lý Nhã Kỳ đáng con của hắn, đang ngả vào người hắn; hay Trương Tấn Sang móm chụp hình chung với Lý Nhã Kỳ, diễn viên trẻ có dáng đẹp của ma quái yêu tinh được sinh ra để phá hoại đời hơn là xây dựng, khác nào cháu ngồi bên ông, trông vô cùng bẩn thỉu và phản cảm! Đó cũng là lời mời gọi những đứa con gái có nhan sắc nhưng mất nết, mất nhân cách ráng mà đi theo con đường bán thân mua danh vọng, và phá đổ cả nền gia phong đạo đức của VN! Lý Nhã Kỳ là một diễn viên có gốc gác mù mờ, có cái họ Tàu chệt, có liên quan gì đến chủ tịch nước, lãnh đạo nước, mọi người tự nghĩ xem? Mà những hình ảnh phản cảm này còn chưng cho cả thế giới xem mới nhục chứ! Nếu bọn bay là những tên vô danh tiểu tốt thì mặc xác nhà bay, nhưng là lãnh đạo một dân tộc, thì ai làm lơ cho bọn bay được, trong khi bọn bay lấy tiền cướp của dân mà chơi bời phóng túng và làm bại hoại nền đạo đức của dân tộc, hỡi những đứa điếm đàng ma cô! Bay dùng Lý Nhã Kỳ phong làm “đại sứ du lịch VN”, hỏi làm gì có chức đại sứ du lịch hỡi bọn vô văn hóa giáo dục! Nước VN xinh đẹp nhờ non sông hoa gấm của tiền nhân để lại, nay du khách đến để chiêm ngắm chứ có phải là “du lịch điếm” đâu?!

Bay đục khoét, ăn hại phá hoại, rồi còn sản sinh ra những đứa con tội lỗi, nhơ nhớp, là những “thiếu gia” sẽ nối tiếp chân cha anh đàng điếm mất nết mà phá tan đất nước này! Một tên thiếu gia tổ chức sinh nhật với một đám trai gái đàng điếm sáng ở Sài Gòn, chiều tối ở Hà Nội thì còn gì là tiền của của đất nước, dân nghèo lấy gì mà sống để đóng thuế nuôi báo cô chúng bay? Cha mẹ chúng bay phải cướp bao nhiêu đất, phá bao nhiêu rừng để có tiền cho bọn bay phung phá như thế? Ôi! Thật là vô phước và nhục biết bao cho 90 triệu đồng bào, dân tộc của tôi! Chúng tôi sẽ không muốn đếm xỉa, đụng chạm đến một cá nhân nào, nếu sự bậy bạ ô nhơ trong đời sống riêng họ, mà không làm ô danh, tai hại cho đất nước! Nhưng dù đại gia đại gian gì, thì bọn bay cũng sẽ gieo ác gặp ác! Một số tên đại gia như Dũng lò vôi ở Bình Dương với cái “Đại nam cuốc tự” thờ tên giặc Tàu HCM hoang dâm, nay cũng đã te tua, sắp đút đầu vào… lò vôi, là nơi xuất thân của hắn! Đại gia Rạng Đông Bình Thuận, ông nội của bọn lãnh đạo tại tỉnh này, cũng mang một khối ung thư gần về địa ngục với tên Hồ râu, vì tội đi với bọn lãnh đạo mà cướp chiếm đất đai, xử ác với dân, cán người chưa chết còn de lại cán cho chết để chỉ cần thí tiền làm đám tang là xong! Tất cả bọn bay sẽ phải đền tội ác mà bọn bay đã làm cho dân cho nước!



III/ Đối xử thế nào với bọn này?

Thiết nghĩ hãy đưa bọn đại gia đỏ này vào danh sách tội đồ phá nước và bán nước, để khi đất nước được giải thoát khỏi CS, chúng sẽ được xét xử đích đáng!

Cũng xin bà con dân Việt, hãy lưu ý tố cáo bọn gian ác này trước Tòa án quốc tế và các tổ chức nhân quyền, để chúng bị hài tội và bị loại ra khỏi các nước tự do, không cho chúng đem những đồng tiền bất chính, máu lửa của chúng vào nước các vị mà hưởng thụ và làm ô uế nước của các vị. Nếu nước nào chứa chấp những kẻ này và những đồng tiền tanh hôi của chúng, quả là thiếu lương tâm, và mất cả uy tín của nước đó trước nhân loại cũng như trước dân tộc là nạn nhân của bọn này, và chắc chắn những đồng tiền ấy sẽ không giúp xây dựng cho nước của quý vị cường thịnh.



Hỡi các tên tội đồ đại gia đỏ! Hãy kịp thời quay đầu cải tà quy chánh, lấy những của tiền bất chính mà trả lại cho dân nước, làm việc nghĩa mà đền bù bớt tội lỗi, nhất là hãy ngưng ngay việc bán dự án, đất đai cho Tàu, tức là bán nước cho giặc để bọn bay tránh được cuộc phán xét công minh của dân tộc, và con cháu bay sẽ không phải khốn nạn, mạt kiếp!

danlambaovn.blogspot.com

15 ĐẠI GIA VIỆT NAM

Trong danh sách 15 người giàu nhất VN 2016, số doanh nhân ngành bất động sản hoặc liên quan đến bất động sản chiếm lượng áp đảo, với 7/15 người.

Tỷ phú bất động sản chiếm ưu thế: 2 người giàu nhất trên sàn chứng khoán VN, và cũng được coi là 2 tỷ phú USD hiện nay là ông Phạm Nhật Vượng (Vingroup) và ông Trịnh Văn Quyết (FLC) đều xuất phát từ bất động sản. Tổng giá trị tài sản của hai ông này lên đến trên 60.000 tỷ đồng.

Một số tỷ phú bất động sản nổi bật trong danh sách 15 người giàu nhất trên sàn chứng khoán VN còn có: bà Phạm Thu Hương, bà Phạm Thúy Hằng (Vingroup), bà Lê Thị Ngọc Diệp (vợ ông Trinh Văn Quyết), ông Đoàn Nguyên Đức (Hoàng Anh Gia Lai), ông Nguyễn Văn Đạt (Phát Đạt). Điều này cho thấy, bất động sản là ngành vẫn rất hấp dẫn ở VN, là lĩnh vực có nhiều người giàu nhất trên sàn chứng khoán

Nam giới chiếm tỷ lệ lớn: Đó là những tên tuổi đã rất nổi tiếng như Phạm Nhật Vượng (Vingroup), Trần Đình Long (Hòa Phát), Nguyễn Đức Tài, Trần Lê Quân (Thế giới Di động), ông Đỗ Hữu Hạ (Hoàng Huy), ông Lê Phước Vũ (Tôn Hoa Sen), ông Đoàn Nguyên Đức (Hoàng Anh Gia Lai), ông Nguyễn Văn Đạt (Phát Đạt)...

Theo Vietnamnet 26-12-2016

Năm 2010, hai tác giả Pháp Philippe Papin và Laurent Passi-cousset có viết một cuốn sách (1) tựa đề là "Vivre avec les Vietnamiens" (có nghĩa là "Sống với người Việt"). Phải công nhận là sau khi đọc qua những trang (dịch), tác giả rất am hiểu về người Việt, có khi còn am hiểu hơn các chính người Việt. Đọc những sách loại này không chỉ có hiệu quả biết người ngoài nghĩ gì về người Việt, mà nó còn giúp chúng chúng ta hiểu về chúng ta hơn. Tác giả dành ra một chương viết về nạn tham nhũng trong học thuật và giáo dục, cụ thể là chuyện mua bán bằng cấp. Đọc rất... nhức nhối.

Ở Việt Nam, trong những câu chuyện "trà dư tửu hậu" thường thường dẫn về chuyện tham nhũng, kể cả chuyện mua chức và mua bằng cấp. Người ta nói cụ thể giá của mỗi loại bằng cử nhân, cao học hay tiến sĩ là bao nhiêu, thậm chí còn có khác biệt giữa miền Nam và miền Bắc. Mấy người từ miền Nam thường trả giá cao hơn (vì mấy người nhận tiền nghĩ rằng dân miền Nam làm ra tiền nhiều hơn). Dĩ nhiên, chỉ là những chuyện [nói theo tiếng Anh là] anecdote, chứ chẳng có chứng cứ có hệ thống nào cả. Mà, trớ trêu một điều là ở Việt Nam thì anecdote phần lớn lại là chuyện thật.

Trong trích đoạn dưới đây, Philippe Papin và Laurent Passicous-set viết khá cụ thể về việc mua bán chức quyền ra sao. Người ta mua luôn cả chức đại biểu Quốc hội, và cũng có trả giá đàng hoàng. Một chức vụ trung bình ở Bộ Ngoại giao là15000 EUR. Còn trang giáo dục thì hai tác giả này cho biết một chức vụ giáo viên trung học cấp tỉnh tốn khoảng 3000 EUR. Riêng cái giá một bằng tiến sĩ kinh tế là 12000 EUR (4000 cho người viết hay dịch mướn, 8000 cho ông thầy hướng dẫn luận án dỏm). Không thấy hai tác giả này nói trong các lĩnh vực khác như tướng tá trong quân đội có nạn mua bán hay không. Nhưng với "phong trào" này thì chắc việc mua bán chức quyền xảy ra ở khắp các ngành và các cấp.

Dĩ nhiên, không phải ai cũng mua bán bằng cấp; trong thực tế, tôi biết vẫn có những người học hành tử tế và họ không tham dự vào các thương vụ giáo dục. Nhưng trong một xã hội mà ngay cả cái đền thiêng giáo dục còn bị đồng tiền chi phối và biến thành một thương trường thì những người sống đàng hoàng cũng bị mang tiếng oan. Đúng như một bạn đọc hôm qua viết cho tôi "Trong thế giới người gù, thì người thẳng lưng bị coi là dị dạng."



Hơn nữa, tham nhũng đã mở rộng ra đến cả việc tuyển chọn công chức : phải chi một khoản lớn mới có được một chân trong bộ máy Nhà nước. Nói cách khác, một số vị trí là hoàn toàn do mua bán. Điều này không phải bí mật Nhà nước : ở Việt Nam ai cũng nói tới hiện tượng này và các báo miền Nam, bao giờ cũng táo bạo hơn, còn đăng những bức biếm hoạ xuất sắc về đề tài này. Một bức trong số đó cho thấy một chánh văn phòng gạt bỏ những hồ sơ xin việc ghi chữ “năng lực và bằng cấp” mà chỉ lấy hồ sơ chứa đầy đô la ; một bức khác vẽ một chiếc ghế ở tít trên cao một cầu thang làm bằng các phong bì chồng lên nhau.

Thông lệ này phổ biến nhanh chóng và từ đầu năm 2009 đến giờ, người ta nói về đề tài này khá thoải mái. Báo chí, lấy cớ ca ngợi các hình phạt do nhà chức trách ban ra, tha hồ kể chi tiết các trường hợp mua quan bán chức. Dần dà, độc giả hiểu ra rằng tính chất mua bán đã hằn sâu trong cả bộ máy Nhà nước, từ trên xuống dưới. Các nhà chức trách không thể không hành động. Hồi mùa thu 2010, một đại biểu quốc hội đã đặt câu hỏi về vấn đề này (nếu không được cho phép thì ông đã không thể liều mạng như vậy). Ngay trước hôm ông phát biểu, nguyên phó trưởng ban Tổ chức Đảng đầy quyền uy đã lên án tính chất mua bán đang gạt bỏ các nhân tài. Hai ngày sau, Bộ trưởng bộ Công thương công khai chỉ trích căn bệnh mua quan bán chức đang “di căn”. Chính quyền chính thức công nhận hiện tượng này. Dưới sức ép dư luận, người ta bắt đầu nghe thấy nói về việc công khai tài sản mà các Bộ trưởng và Chủ tịch Hội đồng nhân dân phải làm trước khi nhậm chức, nhưng trên thực tế họ không bao giờ làm.

Việc mua quan bán chức này không hẳn là mới. Nó tồn tại từ giữa thập niên 1990. Người ta biết chuyện ông bộ trưởng nọ vừa mới được bổ nhiệm đã phải đợi 6 tháng để có đủ tiền trả cho cái ghế của mình trước khi được ngồi vào đó. Gần đây hơn, năm 2007, một nữ chủ doanh nghiệp một thành phố lớn phía Bắc đã đề xuất chi 80 ngàn EUR để được một chân đại biểu quốc hội : ít quá, nếu so với những đề xuất khác, nên bà này đã bị loại từ vòng sơ tuyển do Mặt trận Tổ quốc tổ chức, mà lọt qua vòng này thì coi như được bầu. Trái lại, năm 2009, cũng khoản tiền ấy đã đủ để mua chức phó giám đốc một doanh nghiệp lớn của Nhà nước mà chúng tôi tránh không nói tên. Năm 2010, nghe nói ngay cả Ban chấp hành trung ương Đảng cũng không thoát khỏi hiện tượng này…

Khu vực đại học đặc biệt bại hoại từ năm 2009 khi Nhà nước triển khai đề án đào tạo hơn 2 vạn công chức trở thành tiến sĩ. Năm 2010, giá một luận án kinh tế là 12000 EUR: 4.000 cho sinh viên viết thuê cho tiến sĩ tương lai (nếu cần thì dịch từ một khóa luận Liên xô từ đời nảo đời nào), 8.000 cho ông thầy hướng dẫn luận án rởm, thế là viên công chức nhà ta có được tấm bằng danh giá (dù sẽ chóng mất giá thôi) hanh thông quan lộ. Chúng ta hãy xem số tiền đó khủng khiếp đến mức nào: 8.000 EUR là ba năm dạy học của một giáo sư Việt Nam đổi lấy một con dấu. Để so sánh, có thể tưởng tượng một giáo sư Pháp nhận một vali 100.000 EUR miễn thuế…

Từ năm 2005, tệ mua quan bán chức lan nhanh đến cả những vị trí bình thường. Một nữ hiệu trưởng, một trưởng phòng bưu điện, một nhân viên địa chính, một công an hay một lái xe đều phải trả những khoản tiền lớn mới được nhận vào làm. Một vị trí trung bình ở bộ Ngoại giao, ít bổng lộc, được thương lượng với giá 15.000 EUR, nếu là vị trí có thể được cử sang các sứ quán Việt Nam ở nước ngoài thì còn cao hơn nhiều. Một chân công nhân doanh nghiệp Nhà nước ở Hà Nội có giá từ 600 đến 800 EUR. Một chân giáo viên tỉnh lỵ giá trung bình 3000 EUR.

Chúng ta cùng lấy một thí dụ cụ thể: cô gái tên Phương chấp nhận nói chuyện với chúng tôi vì chúng tôi quen gia đình cô. Năm nay (2010), Phương 23 tuổi, tốt nghiệp marketing và tài chính tháng 6-2009. Cô mong tìm được việc làm trong cơ quan Nhà nước, ổn định hơn, có nhiều phúc lợi xã hội, được tổ chức cho đi nghỉ mát, giờ làm thoải mái hơn, và, cô nói với một sự ngây thơ đáng ngưỡng mộ: “Có nhiều cơ hội kiếm tiền hơn trong tương lai vì ngân hàng quốc doanh kiểm soát tất cả”. Không do dự, tháng 1-2010, cô mua một chân nhân viên thường trong một ngân hàng quốc doanh ở Hà Nội, với khoản tiền còm là 16.000 EUR, cô trả bằng tờ xanh đôla Mỹ. Cô kể chúng tôi nghe điều này với giọng vô cùng tự nhiên, như thể đương nhiên là phải thế.

Khi cô kể chuyện gia đình cô bàn bạc quyết định chuyện mua chỗ làm như thế nào (vì bố mẹ cô mới là người trả tiền chứ cô chẳng có xu nào), chúng tôi hiểu là vấn đề không phải là việc mua chỗ làm ấy, mà là việc đầu tư vào đấy có tốt không, có hiệu quả không, chỗ ấy có đảm bảo không. Nếu bỏ ra 16. 000 EUR, thì bao lâu mới thu lại được? Liệu vài năm sau con bé có bị đuổi vì một lý do trời ơi nào đấy để dành chỗ cho một đứa khác cũng chấp nhận trả tiền không?

Còn về đường đi của đồng tiền, chúng tôi không biết chính xác số tiền trong phong bì được chia chác như thế nào, dù đương nhiên là nó sẽ được chia nhỏ cho tất cả mọi mắt xích trong “đường dây tuyển dụng”, một đường dây dài và lên rất cao. Trái lại, chúng tôi biết đích xác một phó giám đốc chi nhánh quận của một ngân hàng quốc doanh ở Hà Nội kiếm được 40 ngàn EUR hối lộ mỗi năm, chủ yếu là từ các món quà nhỏ anh ta nhận được để dựng hồ sơ vay vốn ưu đãi. Dù Phương không phải là phó giám đốc, nhưng nhẩm nhanh thì cũng thấy số đầu tư ban đầu của cô sẽ chóng hoàn vốn thôi, cùng lắm cũng chỉ 2 năm. Cô chỉ có mỗi việc là làm sao đừng để bị sa thải trong hai năm ấy, nếu không thì mất hết. Nên thể nào cô cũng ngoan với các sếp, rất ngoan. Chu trình tham nhũng tạo ra kỷ luật…

Dù sao, trong khu vực công (khu vực tư có vẻ ít bị ảnh hưởng hơn), thường là một người mang nợ mới được đi làm. Để hoàn vốn, làm sao mà không rơi vào vòng xoáy tham nhũng cho được? Một khi đã mua được chỗ làm rồi thì phải làm sao kiếm lại đủ số tiền ấy, trả cho bố mẹ, và trong nhiều trường hợp (không phải của Phương) thì còn phải trả nợ những người mình đã vay. Khách quan mà nói, làm sao tránh khỏi cám dỗ kiếm tiền bù lại số mình đã bỏ ra bằng cách tuyển cấp phó theo đúng cách ngày xưa mình đã được tuyển ? Bán dịch vụ của mình với giá cao? Phổ biến thông lệ hối lộ để kiếm lại tiền một cách nhanh nhất? Theo hệ thống, nạn hối lộ lây truyền ra khắp nơi, đến tất cả mọi người: vòng tròn đã khép kín.

Đầu tiên là tìm cách lấy lại tiền; sau đó thành nếp rồi thì chuyển sang giai đoạn kiếm lời. Về chủ đề này, chúng tôi cảm thấy có một sự mỉa mai chua chát và đau khổ, rất đau khổ, trong những lời lẽ chán chường của một người bạn bác sĩ: “Suy cho cùng thì đây là một hệ thống tốt để tự gây tê sự liêm khiết của bản thân : giai đoạn lo kiếm đủ tiền bù lại số đã bỏ ra làm ta tỉnh táo mà làm quen dần với giai đoạn sau khi ta sẽ thu lời.” Việc hoàn vốn trở thành bước đệm để đến với nạn hối lộ trên diện rộng hơn. Tuy nhiên, không phải ai mua chỗ làm cũng nằm trong hoàn cảnh này. Một tỉ lệ lớn con em cán bộ và công chức cao cấp ở tỉnh lấy tiền của bố mẹ mà mua chỗ làm ở thành phố ; họ chẳng phải lo kiếm tiền trả lại gì cả, chỉ việc ngoan ngoãn mà phát đạt, mà ăn ở tiện nghi tại căn hộ gia đình đã đầu tư cho.

Lạm dụng quyền lực địa phương, bán chức bán quyền và tham ô lặt vặt hàng ngày: thách thức là to lớn và muôn hình muôn trạng. Việt Nam, một trong những nước thụ hưởng nhiều nhất viện trợ phát triển và hợp tác quốc tế, nằm trong một vùng cực kỳ cạnh tranh, ngay bên cạnh người hàng xóm khổng lồ T, hiểu rằng mình cần vượt qua bằng được thách thức này nếu không muốn làm xấu hình ảnh đất nước. Hơn cả những lời tuyên bố đức hạnh chả mấy người thấy lọt tai, lối thoát chính là ở chỗ phải xây dựng một hệ thống thu thuế hiệu quả và phát triển các giao dịch ngân hàng thay cho giao dịch bằng tiền mặt. Những thử nghiệm đầu tiên đã đem lại kết quả tích cực, thu được nhiều thuế hơn và kết thúc xì-căng-đan biển thủ tiền lương đã kéo dài suốt bao lâu. Một chương trình áp dụng rộng rãi thuế thu nhập đang được triển khai, có thể thấy phía sau các xe taxi ở thành phố Hồ Chí Minh đều có dán tờ tuyên truyền động viên các gia đình khai thuế. Trong lĩnh vực thương mại cũng vậy, việc chuẩn hóa và tự động hóa các thủ tục đã giúp mang lại cho nền kinh tế chính thống một phần những hoạt động trước đây không được khai báo.



Trưa nay 15-52017, Hoàng Bình, một nhà hoạt động xã hội trong phong trào Lao động Việt đã bị CSGT chặn lại cho một đám người mặc cảnh phục và không cảnh phục xông đến lôi xuống xe, bắt trên đường khi đi công việc với linh mục J.B Nguyễn Đình Thục, Quản xứ Song Ngọc, GP Vinh.

Việc bắt bớ diễn ra bằng một đám người không sắc phục lẫn sắc phục với sự đe dọa hành hung những người ngồi trong xe có cả linh mục, đã ngay lập tức gây phản ứng dữ dội trong dân chúng.

Dù giữa trưa ở Diễn An, Diễn Châu, Nghệ An trời rất nắng, nhưng lập tức đã có hàng ngàn người dân và giáo dân khắp nơi đổ về để đòi nhà cầm quyền phải minh bạch trong việc bắt người. Khi cao điểm, theo những người dân ở hiện trường cho biết, con số ước chừng khoảng 10.000 người đã có mặt.

Đám người đã đòi nhà cầm quyền Nghệ An phải trả lời về việc bắt người một cách mờ ám.

Trong quá trình những người dân đang tập trung, có một nhóm 3 người lạ mặt thuộc huyện đoàn và huyện đội Diễn Châu đã trà trộn vào đám đông gây sự nhiễu loạn.

Với tinh thần cảnh giác, bà con giáo dân đã bắt được ba người này và giữ lại, cho uống nước, sữa, rồi sau đó giao lại cho UBND huyện Diễn Châu.

Khi người dân ào ào đổ về Diễn An, Diễn Châu đòi sự minh bạch từ nhà cầm quyền Nghệ An, tất cả cán bộ, cảnh sát đã trốn biệt. Hàng loạt xe tải và xe khách đã tắc nghẽn khá dài do không có người điều tiết giao thông.

Sau đó, đòan người đã kéo nhau về UBND huyện Diễn Châu để yêu cầu nhà cầm quyền giải thích vụ việc bất minh này.

Thế nhưng, cổng của cơ quan công quyền “của dân, do dân, vì dân” đã khóa chặt và phía trong là hàng đoàn, hàng lũ CS Cơ động với các loại vũ khí trang bị tận răng. Nhà cầm quyền dùng loa công suất lớn và còi hụ liên tục kích động và phá rối những đòi hỏi và yêu cầu của người dân.

Trước sự phản đối của người dân ngày càng đông và quyết liệt, nhà cầm quyền đã dùng báo Nghệ An để công bố lệnh bắt và lệnh phê chuẩn của Viện Kiểm sát. Đồng thời công bố việc bắt Hoàng Bình qua báo Nghệ An.

Trước tình hình nhà cầm quyền ra mặt “cùn”, linh mục J.B Nguyễn Đình Thục đành giao các nhân viên nhà nước bị giáo dân bắt cho UBND huyện rồi đề nghị bà con trở về.

Sau khi Linh mục J.B Nguyễn Đình Thục và người dân đã bắt đầu ra về thì nhà cầm quyền đã xua quân ra khỏi UBND, đồng thời huy động hết sức đông đảo Cảnh sát cơ động từ Vinh và từ nhiều nơi đổ về Diễn Châu với đủ các loại thiết bị, xe phá sóng, xe bọc lưới thép chống bạo động… ra thi thố và dọa nạt.

Con số được ước tính đến hàng nhiều ngàn cảnh sát và khoảng 200 chiếc xe chuyên dụng được huy động.

Nhiều người dân đã bị đánh đập dã man.

Đến 18h, người dân, trong đó có hàng ngàn giáo dân đã giải tán ra về và hẹn sẽ tiếp tục hành động để đòi sự minh bạch từ nhà cầm quyền Nghệ An.

Sau việc phát lệnh truy nã Bạch Hồng Quyền, một nhà hoạt động đã cùng với Hoàng Bình đã từng giúp đỡ các nạn nhân của Formosa thời gian qua, việc nhà cầm quyền bắt giữ Hoàng Bình, là một hành động đi ngược lại với những quyền lợi của người dân đang bị thảm họa biển miền Trung đe dọa.

Rõ ràng, để lấp liếm và che đậy việc Formosa đầu độc biển Miền Trung, nhà cầm quyền Nghệ An đã đàn áp chính những người dân đau khổ của mình.

Người dân ra về nhưng hết sức căm phẫn và ấm ức trước những hành động và thái độ của nhà cầm quyền Nghệ An hôm nay.

Việc nhà cầm quyền Nghệ An bắt người cách thiếu minh bạch, diễu võ giương oai dọa nạt người dân hôm nay, chỉ là những thanh củi dưới đáy nồi của sự kinh tởm và tức giận của người dân mà thôi.

Đó cũng là hành động tự thú và lột mặt nạ của nhà cầm quyền trước đồng bào đau khổ ở Nghệ An.

15/5/2017

J.B Nguyễn Hữu Vinh

http://www.rfavietnam.com/node/3880





Bài tường tình này xem như một lời cảnh báo sau những gì chúng tôi tận mắt chứng kiến cách mà người ta xử lý hải sản, gồm tôm, cá, cua, ghẹ, mực, nghêu… và cả rong biển, mực biển. Dường như sự nguy hiểm của các loại thực phẩm liên quan đến hải sản đều bắt nguồn từ hai phía gồm môi trường biển hiện tại và trách nhiệm của người bán hải sản. Trong đó, vấn đề trách nhiệm của người bán hải sản cần đặt lên hàng đầu và cần phải điều chỉnh kịp thời nếu như họ không muốn gián tiếp giết chết đồng loại của mình.

Cách xử lý của người chế biến và bán hải sản ra sao?

Một người không muốn nêu tên, từng là nhà buôn các loại hải sản ở miền Trung Việt Nam chia sẻ: “Cái người Việt Nam mình bây giờ chịu cảnh chết chậm, bởi con cá nó mới nhiễm độc, nó chưa chết thì mình đánh lưới về ăn. Biển độc vài chục năm mà mới có một năm thì làm sao mà hết độc. Con cá nó đánh về thì mình mua ăn chứ thực ra nói không độc là không đúng… Chính quyền nói là hết độc nhưng chính quyền nói thì làm sao mình tin được! Người mình dù sao cũng thành dân nhược tiểu rồi, cứ ăn từ từ rồi ngấm từ từ, đến khi đổ bệnh chết thì cứ nghĩ mình bị bệnh khác chết chứ đâu có nghĩ là mình bị nhiễm độc.

Người này chia sẻ thêm là hiện nay, hầu như vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm của các loại hải sản hoàn toàn không có. Nếu may mắn lắm thì các cơ sở sản xuất có sự quản lý của ngành vệ sinh an toàn thực phẩm và hơn hết là cơ sở đó có nhiều người lao động, xuất hàng cho nước ngoài mới hi vọng đảm bảo khâu vệ sinh, an toàn thực phẩm. Còn lại, hầu như người Việt nói chung và chiếm số đông là ít quan tâm đến vệ sinh an toàn thực phẩm. Chuyện ruồi nhặng bâu vào thực phẩm, ướp lạnh quá lâu, để bị hôi thối rồi dùng chất hóa học tẩy là chuyện rất bình thường của các cơ sở chế biến thực phẩm nói chung và hải sản nói riêng.

Đặc biệt, khi mà cơn gió thị trường nặng mùi Trung Quốc kéo qua Việt Nam thì mọi chuyện trở nên đảo lộn. Người này đưa ra nhận xét trên và giải thích thêm là bởi hầu hết từ nông dân cho đến ngư dân, thương nhân Việt Nam khi bước vào sới đấu với dòng hàng hóa từ Trung Quốc đều phải chấp nhận một luật chơi chung, đó là giá cực rẻ, màu mè cực bắt mắt và vệ sinh hay chất lượng thì có các loại hóa chất hỗ trợ. Muốn có mùi thơm thì dùng hóa chất, muốn ngọt, ngon thì dùng đường hóa học, muốn sạch thì dùng thuốc tẩy, cứ như vậy mà sản xuất, mua bán…

Với kinh nghiệm buôn hàng hải sản lâu năm và từng tận mắt chứng kiến các loại cá để ruồi nhặng bâu đen đúa trước khi xay thành chả cá, người này khẳng định hầu hết các loại chả cá trên thị trường đều không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Và người này chua chát nói thêm là hình như cái bao tử của số đông người Việt đã quen chịu đựng với tất cả các loại thực phẩm nguy hiểm nên dường như ít thấy người nào bị ngộ độc vì chả cá, mà có khi ngộ độc rồi cũng không biết mình ngộ độc vì thứ gì.

Đó mới chỉ riêng chả cá, món phổ thông, dễ xài nhất VN. Hiện tại, vấn đề an toàn vệ sinh cho cây rong biển cũng đáng bàn, đặc biệt là ở huyện đảo Lý Sơn, khu du lịch được cho là còn nguyên sơ và an toàn về môi trường biển. Hầu như các điểm thu gom và xử lý rong biển đều có vấn đề. Điều này chúng tôi từng chứng kiến 1 người đàn ông đi nhặt rong biển, tập trung vào 1 chỗ bên cạnh đống rác, sau đó mang về nhà phơi trên đường bê tông, xe cộ qua lại cán lên hàng trăm bận tạo thành một bánh rong biển mỏng dính. Khi lấy rong trở về, người ta phải dùng xẻng nạo từng mảng và rửa qua nước lạnh, sau đó xử lý bằng hóa chất tẩy trắng tinh, và phơi khô một lần nữa bán ra thị trường.

Lý giải cho việc phơi dưới đường bê tông để xe cán qua lại rồi mới tẩy trắng thay vì rửa sạch rồi phơi ngay từ đầu, một người chuyên cung cấp rong biển, không muốn nêu tên, nói rằng nếu để nguyên rong biển mà không chần qua bánh xe khi phơi thì hàm lượng mùi gây tanh và màu đen không thể nhả ra khỏi thân rong, người ta buộc phải mượn bánh xe và nhiệt độ của đường bê tông để làm cho rong vừa khô vừa vỡ những gì có màu đen, sau đó mới tẩy được, mới có loại rong biển trắng tinh, mới cạnh tranh nổi với các loại rong biển nhập từ Trung Quốc.

Lại thêm chuyện vì cạnh tranh với Trung Quôc! Và có vẻ như người làm rong biển rất hồn nhiên trong chuyện xử lý trắng cây rong, họ cũng không hay biết chất mà họ đang dùng tẩy rong là chất độc hại.



Độc từ biển

Chuyện độc từ biển thì có vẻ như ai cũng biết, nhưng nếu nói rằng những món gỏi rong biển quen thuộc ở các làng du lịch trong bữa cơm trưa, cơm tối đều có thể là những thứ độc hại thì ai cũng ngạc nhiên. Nhưng có một sự thật là hầu hết rong biển đều có vấn đề, bởi cho đến thời điểm hiện tại, ít có ai dám khẳng định rong biển được lấy từ nguồn nước sạch, từ vị trí biển không nhiễm độc.

Ông Một, ngư dân ở Quảng Ngãi, chia sẻ: “Làm răng nó đủ an toàn được, vì cống xả Formosa thì nó xả thẳng ra biển mà, Nhật 30 năm sau nó còn vớt cá bỏ, mình mới một năm thì làm sao hết độc? Riêng cây rong biển thì không bao giờ hết độc, bởi các ống xả thành phố đều đưa ra sông, biển, mà rong biển là loại hấp thụ chất bẩn nhanh nhất, cây rong biển phơi khô trên mặt đường rồi sau đó đem xử lý hóa học thì không thể nói là sạch được, an toàn được. Rau trồng thì đất mình cũng nhiễm độc, các loại phân bón hóa học và thuốc trừ sâu đều nhiễm vào đất và đất của mình thì nhiễm kim loại hết. Nói chung thì khó mà có cây rau sạch được. Nhật họ qua Việt Nam thuê đất trồng rau ở Lâm Đồng cũng phải xử lý đất cho sạch rồi mới dám trồng. Chỉ có người Việt Nam là sống trên những nơi gần cống rãnh, môi trường ô nhiễm vẫn thấy vui vẻ hạnh phúc thôi…!.

Ông Một cho biết thời gian biển miền Trung bị nhiễm độc, ngoài các loài tôm, cá, mực, cua, ghẹ… bị chết, rong biển cũng chết hàng loạt và tự đứt gốc trôi nổi trên mặt biển. Dòng hải lưu và hướng gió mùa khô chuyển từ Bắc vào Nam, rong biển cũng trôi nổi theo chiều này, thường thì rong biển ở Hà Tĩnh sẽ xuất hiện ở bờ biển Huế và rong biển ở Huế lại trôi nổi ở Quảng Nam, Quảng Ngãi. Điều này sẽ gây ra ngộ nhận về nguồn gốc rong biển và không ít rong biển từ vùng biển nhiễm độc đang trôi nổi trên thị trường.

Có thể nói rằng hiện tại, vấn đề hải sản nhiễm độc trôi nổi trên thị trường đang là câu chuyện đau đầu của người Việt Nam, cùng với vấn đề này là thực phẩm không có nguồn gốc rõ ràng, thực phẩm Trung Quốc theo đường tiểu ngạch và các loại thực phẩm, hải sản trong nước được xử lý một cách thiếu vệ sinh an toàn thực phẩm. Nói cho cùng, chợ và cửa hàng vốn là nơi cung cấp nguồn thực phẩm, lương thực cho con người. Nhưng với tình trạng con người thiếu trách nhiệm trong vệ sinh an toàn thực phẩm như hiện tại, mỗi cái chợ đều trở thành nơi phát tán độc hại và với đà này, khoảng cách giữa chợ và nghĩa địa đang ngày càng thêm xích lại gần hơn! 


Vừa rồi Phó Thủ tướng Trương Hòa Bình khuyến cáo ngư dân 4 tỉnh miền Trung không nên đánh bắt hải sản ở tầng đáy ở khu vực 20 hải lý trở vào bờ, giải thích rằng vì ảnh hưởng ô nhiễm môi trường do Formosa gây ra. Một số nhà khoa học nói rằng họ không đồng ý về tính an toàn của khoảng cách 20 hải lý mà Phó Thủ tướng VN đưa ra, vì những cuộc nghiên cứu khoa học cho thấy chất độc trong nước thải của Formo-sa có thể ảnh hưởng tới 70 hải lý.



Hải sản còn độc

Từ tháng 9 năm ngoái, Bộ Y tế Việt Nam đã đưa ra khuyến cáo, nói rằng những sinh vật tầng đáy như ghẹ, tôm, ốc mực, bạch tuộc, cua đá trong phạm vi 20 hải lý trở về bờ vẫn chứa phenol, không đủ điều kiện an toàn thực phẩm.

Hôm 17-5 vừa qua, Phó Thủ tướng Trương Hòa Bình nhắc lại khuyến cáo này tại cuộc họp của Ban chỉ đạo khắc phục sự cố, ổn định đời sống, sản xuất kinh doanh cho bốn tỉnh bị ảnh hưởng, là các tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế.

Tiến sỹ Nguyễn Tác An, Phó Chủ tịch Hội Khoa học kỹ thuật biển Việt Nam, nguyên Viện trưởng Viện Hải dương học Nha Trang nói rằng: theo số liệu chính thức của giới chuyên gia khoa học nghiên cứu thì những chất độc trong nước thải của Formosa có thể kéo 70 hải lý. Theo quan điểm của ông, con số 20 hải lý được đưa ra là dựa vào đặc tính nghề cá của Việt Nam:

Để nói 20 hải lý đã đủ rộng để bao quát chất độc tầng đáy hay chưa là rất khó. Nhưng nghề cá thủ công ven bờ của Việt Nam người ta không ra quá 20 hải lý, tức là khoảng 40 cây số, người ta không ra xa được. Công cụ khai thác cũng chỉ tới độ sâu 50-100m thôi.

Trong khi đó, giáo sư Lê Huy Bá, nguyên trưởng Viện Khoa học - Công nghệ và Quản lý Môi trường, Đại học Công nghiệp TP. HCM lại cho rằng con số 20 hải lý chỉ mang tính chất tương đối, các vùng biển khác nhau có thể yêu cầu con số an toàn khác nhau. Nhưng theo ông, khoảng cách an toàn nhất là:

Khoảng 25 hải lý là người dân nên tránh hải sản tầng đáy. 20 hải lý cũng được nhưng không phải là con số an toàn tuyệt đối. Rộng hay hẹp phụ thuộc vào địa hình từng nơi, rồi phụ thuộc vào song triều, hải lưu, hệ thực vật,…

Làm sao tránh cá tầng đáy?

Năm ngoái, ông Nguyễn Ngọc Oai, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản (Bộ NN&PTNT) từng nói với báo chí rằng hải sản ven bờ ở tầng nổi là an toàn do đặc tính sinh học hay di chuyển.

Tuy nhiên nhiều ý kiến lo ngại hải sản tầng đáy có thể di chuyển lên tầng nổi và người dân có thể nhầm lẫn dẫn đến nguy hiểm khi ăn phải.

Giáo sư Lê Huy Bá nhận định:

Tầng đáy và tầng mặt có sự phân định không rõ. Sinh vật tầng đáy nhưng ngoi lên tầng mặt là thành ở tầng mặt thôi. Thường những con cá lớn, ăn tạp và khả năng chịu áp suất lớn sống ở tầng đáy. Nhưng nói như vậy cũng chỉ mang tính tương đối thôi chứ không phân biệt được hết.

Trong khi đó ông Nguyễn Tác An lại cho rằng chuyện nhầm lẫn khó xảy ra vì sinh vật tầng đáy thường chỉ cố định ở tầng đáy:

Sinh vật nổi là loài di cư tức là sống ở ngoài khơi hoặc ở vùng khác đến theo thức ăn nổi. Còn sinh vật đáy là sinh vật ăn đáy và thường định cư ở đó. Nếu nói sinh vật tầng đáy có thể lên tầng nổi là không đúng với khái niệm phân biệt trong nghề cá.

Viện nghiên cứu hải sản trước đó cũng lập ra danh sách 154 loại hải sản thường gặp sống ở 4 tỉnh Bắc Trung Bộ này. Tuy nhiên rất nhiều ý kiến bình luận trên mạng nói rằng làm sao người dân có thể nhớ hết được danh sách dài ngoằng như vậy. Một số khác nói rằng danh sách bao phủ gần như toàn bộ các loài hải sản ngư dân thường bắt được. Như vậy người dân còn gì để ăn.

Trước đó tiến sĩ Nguyễn Tác An cũng từng nói với báo Người Lao động các chất độc từ nước thải của Formosa sẽ kết tủa, lắng xuống đáy và tồn tại ở đấy đến khi có dịp gì đó sẽ lại bùng lên. Những chất độc này tồn tại rất lâu, nguy hiểm, không đơn giản vài tháng vài năm là hết.

Trong cuộc trao đổi ngắn với đài RFA chiều 18/5, tiến sĩ Nguyễn Tác An phân tích thêm rằng để nói chính xác sẽ mất bao nhiêu thời gian các chất độc tầng đáy tiêu tan là rất khó vì còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố:

Nó phụ thuộc vào các chất độc bị thải ra, điều kiện động lực học ở đó và khả năng tự làm sạch của vùng biển đó. Nhưng thông thường các nước như Nhật Bản chẳng hạn họ bị ô nhiễm công nghiệp 60 năm nay họ vẫn chưa giải quyết xong.

Ông nói rằng có thể một đời người cũng không đủ thời gian để hệ sinh thái tầng đáy có thể khôi phục. Tuy nhiên, Việt Nam thuộc vùng biển nhiệt đới, lại có hệ thống cường lực chạy rất mạnh tạo ra khả năng tự làm sạch rất lớn vì nhiệt độ rất nóng, khác với các nước ở ôn đới, hàn đới. Ông đánh giá:

Những sự cố sinh thái này giống như chén nước mình đã đổ ra đất rồi, đến bao giờ mới lấy lại được. Nhưng vì thiên nhiên có cơ chế tái phục hồi, song đòi hỏi thời gian lâu. Vùng biển Việt Nam có nhiều yếu tố thuận lợi cho quá trình phục hồi nhưng cũng không thể chỉ vài năm là được. Ít nhất cũng phải chục năm, không thì 20-30 năm và thậm chí có thể lâu hơn nữa.

Tiến sĩ Nguyễn Tác An cho rằng cần khuyến cáo người dân cẩn thận khi sử dụng hải sản hay sinh hoạt trên biển những khi nguồn động lực ở tầng đáy thay đổi như mưa bão chẳng hạn. Các hiện tượng này có thể làm khuấy động các chất độc ở tầng đáy lên tầng nổi.

Thảm họa môi trường Formosa xảy ra hồi tháng 4 năm ngoái làm cá, hải sản chết hàng loạt nổi trắng bờ biển 4 tỉnh Bắc trung bộ, khiến hàng trăm ngàn người dân mất sinh kế.

Các nhà khoa học phân tích rằng hiện tượng cá chết chỉ là phần nổi của tảng băng, điều nguy hiểm hơn là hệ sinh thái tầng đáy bị hỏng. Trong khi đó, đến 90% môi trường biển là sinh vật đáy.



BIỂN MIỀN TRUNG KHÔNG AN TOÀN, CHÍNH PHỦ CSVN YÊU CẦU KHÔNG KHAI THÁC HẢI SẢN TẦNG ĐÁY

Người Quan Sát 18-05-2017

Cali Today News

Hơn một năm kể từ ngày Tập đoàn Gang thép Hưng Nghiệp Formo-sa xả thải hủy hoại môi trường, biển miền Trung vẫn chưa an toàn. Mới đây, trong một cuộc họp của Ban chỉ đạo khắc phục sự cố, ổn định đời sống của nạn nhân bị ảnh hưởng bởi Tập đoàn Formosa, ông phó Thủ tướng CSVN Trương Hòa Bình đã yêu cầu 4 tỉnh: Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên-Huế không được đánh bắt hải sản sinh sống ở tầng đáy.

Tại cuộc họp, ông Trương Hòa Bình yêu cầu lãnh đạo của 4 tỉnh nói trên phải vận động ngư dân không được đánh bắt những loại sinh vật sinh sống ở tầng đáy ở khu vực 20 hải lý trở vào bờ, cho đến khi có những kết luận từ Bộ Y tế bảo đảm hải sản đã an toàn và có thể ăn được.

Việc yêu cầu người dân không được đánh bắt hải sản tầng đáy từ miệng ông phó Thủ tướng đã thừa nhận rằng, hơn một năm kể từ khi xảy ra thảm họa môi trường biển miền Trung vẫn chưa an toàn. Điều này trái ngược với tất cả những gì mà các phương tiện truyền thông, các cơ quan báo chí của nhà cầm quyền CSVN rêu rao bao lâu nay.

Hỗ trợ đắc lực cho nhà cầm quyền trong việc tuyên truyền biển miền Trung đã sạch, hải sản đã an toàn và ngư dân vui vẻ ra khơi, các khu du lịch đã nườm nượp đón khách là Đài Truyền hình Việt Nam (VTV). Trong hàng loạt phóng sự VTV liên tục tuyên truyền sai sự thật, trái với những gì đang xảy ra ở miền Trung.

Cũng chính phó Thủ tướng Trương Hòa Bình, vào tháng 12/2016 trong một lần tiếp Đức Tổng giám mục giáo phận Sài Gòn ông Bùi Văn Đọc nhân dịp Lễ Giáng Sinh ông đã thông báo rằng biển miền Trung đã sạch. Vậy nhưng, 5 tháng sau khi nói ra những lời đó ông lại yêu cầu ngư dân không được đánh bắt hải sản tầng đáy.

Điều gì đã xảy ra? Phải chăng từ tháng 12/2016 cho đến nay Formosa lại xả thêm chất độc để hủy hoại môi trường biển, hay môi trường vẫn nhiễm độc kể từ tháng 4/2016?

Thật khó có thể tin lời những người Cộng sản, đúng như cố Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã nói: “Đừng nghe những gì Cộng sản nói, hãy nhìn những gì Cộng sản làm”. Rất nhiều lãnh đạo CSVN, ngoài ông Trương Hòa Bình ra vẫn lên báo để tuyên truyền rằng, biển miền Trung có thể tự tái tạo, tự làm sạch. Họ còn cho bộ máy tuyên truyền sản xuất ra những luận điệu dối trá chỉ nhằm phỉnh gạt người dân. Ngay cả những ngày lễ lớn, các vùng biển ở miền Trung vẫn không có khách. Hàng quán, khách sạn ế ẩm. Thiệt hại vô cùng lớn.

Trong khi lãnh đạo chính quyền luôn miệng nói biển miền Trung đã sạch, hải sản đã phục hồi thì ông phó Giáo sư Tiến sỹ khoa học Nguyễn Tác An, người hiện nay là phó Chủ tịch Hội Khoa học kỹ thuật biển Việt Nam từng khẳng định rằng, sau khi Tập đoàn Gang thép Hưng Nghiệp Formosa xả thải, trong vòng từ 60 đến 70 năm nữa chưa chắc biển ở đấy đã được phục hồi.

Câu hỏi mà người dân đặt ra là, ai sẽ chịu trách nhiệm cho việc khuyến khích người dân đi tắm biển, ăn uống khi hải sản ở đó không sạch và an toàn?



Nguoi Quan Sat




S 268 Trang


tải về 1.02 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương