1.3. Một số khó khăn, vướng mắc trong các quy định pháp luật về áp dụng các biện pháp xử lý hành chính
- Pháp lệnh số 09/2014/UBTVQH13 ngày 20/01/2014 về trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân:
+ Thời hạn để Tòa án thụ lý và xem xét, giải quyết, ra quyết định đối với các hồ sơ đề nghị áp dụng các biện pháp XLHC được quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 26 Pháp lệnh số 09/2014/UBTVQH13 là quá ngắn vì trên thực tế số lượng hồ sơ rất nhiều, đặc biệt là khi phải xác minh một vấn đề gì đó liên quan đến hồ sơ thì không đủ thời gian.216
+ Khoản 2 Điều 12 Pháp lệnh số 09/2014/UBTVQH13 quy định “Trường hợp cần thiết, Thẩm phán có thể tham vấn ý kiến của chuyên gia y tế, tâm lý, giáo dục, xã hội học và đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người bị đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính cư trú để làm rõ tình trạng sức khỏe, tâm lý, điều kiện sống, học tập của họ”. Tuy nhiên “trường hợp cần thiết” trong điều khoản này đang được hiểu và áp dụng theo nhiều cách khác nhau, cần có hướng dẫn cụ thể.
+ Điểm b khoản 2 Điều 20 Pháp lệnh số 09/2014/UBTVQH13 quy định “…Trường hợp có yêu cầu thay đổi Thẩm phán thì Thẩm phán phải xem xét; nếu có căn cứ thì tạm dừng phiên họp và báo cáo Chánh án Tòa án xem xét, quyết định…”. Tuy nhiên chưa có quy định trường hợp nếu yêu cầu thay đổi không có căn cứ thì ai là người được quyền quyết định (Thẩm phán hay Chánh án Tòa án).
+ Trình tự, thủ tục tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân quy định tại Pháp lệnh số 09/2014/UBTVQH13 còn phức tạp, gây nhiều khó khăn trong quá trình áp dụng.217
- Nghị định số 111/2013/NĐ-CP ngày 30/9/2013 về quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã phường, thị trấn:
+ Một số quy định tại Nghị định số 111/2013/NĐ-CP chưa được hướng dẫn, cụ thể:
-
Theo quy định tại Điểm a, c Khoản 1 Điều 43 Nghị định số 111/2013/NĐ-CP thì Bộ Tư pháp có trách nhiệm “Xây dựng, ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cơ quan có thẩm quyền ban hành các văn bản về biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; Hướng dẫn áp dụng pháp luật về biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn theo yêu cầu của các Bộ, cơ quan ngang bộ, địa phương”. 218
-
Bộ Công an chưa có văn bản quy định chi tiết hướng dẫn Công an cấp xã, công chức văn hóa – xã hội, các cơ quan, tổ chức chính trị - xã hội cùng cấp giúp UBND cấp xã trong việc thu thập tài liệu, lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; Xây dựng tài liệu hướng dẫn áp dụng pháp luật về thi hành biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn… theo quy định tại Điểm a, c, d Khoản 2 Điều 43 Nghị định số 111/2013/NĐ-CP.219
-
Chưa có văn bản liên ngành của Bộ Y tế, Bộ Lao động thương binh và Xã hội, Bộ Công an quy định về thẩm quyền, thủ tục và quy trình xác định tình trạng nghiện ma túy theo quy định tại Khoản 2 Điều 11 Nghị định số 111/2013/NĐ-CP. 220
+ Việc quy định đối tượng áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn tại điểm đ khoản 2 Điều 4 Nghị định 111/2013/NĐ-CP là không khả thi do quy định thời gian của 02 lần vi phạm quá ngắn, rất khó có đối tượng áp dụng biện pháp này.221
+ Chưa có thông tư quy định về quản lý, sử dụng kinh phí cho công tác quản lý đối tượng bị áp dụng BPXLHC giáo dục tại tại xã, phường, thị trấn.222
+ Theo quy định tại khoản 3 Điều 18 Nghị định số 111/2013/NĐ-CP, người bị đề nghị áp dụng biện pháp GDTXPTT phải được mời tham dự buổi họp tư vấn, xem xét về việc áp dụng biện pháp GDTXPTT, nếu vắng mặt phải có ý kiến bằng văn bản. Tuy nhiên chưa có quy định về trường hợp nếu người bị áp dụng biện pháp GDTXPTT vắng mặt mà không gửi ý kiến đến thì giải quyết thế nào, gây khó khăn cho việc áp dụng.223
+ Các loại mẫu biểu về công tác lập hồ sơ theo Nghị định số 111/2013/NĐ-CP chưa thống nhất nên việc lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp GDTXPTT gặp nhiều khó khăn.224
+ Quy định về số lần vi phạm bị XPVPHC trong thời hạn quy định 06 tháng là điều kiện áp dụng biện pháp GDTXPTT, đưa vào TGD, CSGDBB có sự không thống nhất giữa Nghị định số 81/2013/NĐ-CP, Nghị định số 111/2013/NĐ-CP và Luật XLVPHC225. Các Điều 90, 92 và 94 Luật XLVPHC quy định điều kiện áp dụng biện pháp GDTXPTT, đưa vào TGD, CSGDBB là “02 lần trở lên trong 06 tháng” có hành vi vi phạm và bị XPVPHC; Khoản 1, 2 Điều 16 Nghị định số 81/2013/NĐ-CP quy định: “ít nhất hai lần bị XPVPHC về các hành vi vi phạm đó trong 06 tháng”; Điểm c, đ khoản 2 Điều 4 Nghị định số 111/2013/NĐ-CP quy định: “trong 06 tháng đã ít nhất hai lần bị XPVPHC về hành vi…”. Quy định tại các văn bản trên đang khiến các địa phương lúng túng, chưa có sự thống nhất cả về nhận thức và phối hợp thực hiện.
+ Thời gian quản lý tại xã, phường, thị trấn theo quy định của Nghị định 111/2013/NĐ-CP từ 3 đến 06 tháng là không đủ để theo dõi, giáo dục, cảm hóa, giúp đỡ các đối tượng sửa chữa sai lầm, khắc phục các nguyên nhân và điều kiện dẫn đến vi phạm pháp luật.226
- Nghị định số 221/2013/NĐ-CP ngày 30/12/2013 của Chính phủ quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc:
+ Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Nghị định số 221/2013/NĐ-CP: người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên có nơi cư trú ổn định, đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn do nghiện ma túy mà vẫn còn nghiện thì bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Tuy nhiên trên thực tế, việc quản lý các đối tượng nghiện ma túy tại xã, phường, thị trấn là rất khó khăn, vì vậy nhiều đối tượng nghiện ma túy mặc dù đang chấp hành Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn vẫn tiếp tục có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nhưng do chưa hết thời hạn chấp hành Quyết định giáo dục tại xã, phường, thị trấn nên không thể lập hồ sơ để đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc dẫn tới tình trạng trộm cắp, cướp giật gây mất an ninh trật tự tại một số địa bàn.227
+ Quy định thời hiệu lập hồ sơ là 03 tháng kể từ ngày cá nhân thực hiện hành vi sử dụng ma túy trái phép lần cuối bị phát hiện và lập biên bản được quy định tại Điều 4 Nghị định số 221/2013/NĐ-CP chưa phù hợp với thực tiễn vì có những trường hợp người nghiện sử dụng ma túy trái phép bị phát hiện và lập biên bản 2-3 lần nhưng chưa bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn. Kể từ lần phát hiện cuối cùng họ mới bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn từ 3- 6 tháng. Sau đó, họ vẫn tiếp tục tái nghiện nhưng không bị bắt quả tang và lập biên bản được, muốn lập hồ sơ đưa đối tượng này vào cơ sở cai nghiện không thực hiện được vì không đảm bảo thời hiệu.228
+ Theo quy định tại khoản 1 Điều 8 Nghị định 221/2013/NĐ-CP: “Khi phát hiện người sử dụng ma túy trái phép, Công an cấp xã nơi người đó có hành vi vi phạm pháp luật lập biên bản về hành vi sử dụng ma túy trái phép của người đó…Trường hợp cá nhân, tổ chức phát hiện người sử dụng ma túy trái phép thì báo cho cơ quan Công an cấp xã nơi người có hành vi vi phạm để lập biên bản”. Tuy nhiên, hiện nay chưa có quy định cụ thể về mẫu Biên bản theo quy định nói trên, do đó đa số các cơ quan lập hồ sơ cho rằng biên bản nói trên là biên bản bắt quả tang dẫn tới khó khăn trong việc xây dựng tài liệu lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.229
+ Điểm b khoản 1 Điều 8 Nghị định số 221/2013/NĐ-CP quy định “trường hợp người vi phạm có nơi cư trú không thuộc xã, phường, thị trấn nơi xảy ra vi phạm thì bàn giao người và biên bản vi phạm cho cơ quan công an cấp xã nơi người vi phạm cư trú để tiến hành lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp ĐVCSCNBB”. Tuy nhiên chưa có quy định nào hướng dẫn hình thức chuyển, trách nhiệm các bên trong việc chuyển, gây khó khăn cho việc thực hiện, nhất là trường hợp tỉnh, thành phố nơi người vi phạm cư trú ở khác với nơi người đó thực hiện hành vi vi phạm.230
+ Điểm c khoản 1 Điều 8 Nghị định số 221/2013/NĐ-CP quy định “trường hợp chưa xác định được nơi cư trú ổn định của người vi phạm, thì tiến hành xác định nơi cư trú ổn định của người đó. Trong thời gian 15 ngày làm việc, nếu xác định được nơi cư trú ổn định thì thực hiện theo Điểm a hoặc Điểm b Khoản 1 Điều này; nếu không xác định được nơi cư trú ổn định thì lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quy định tại Khoản 2 Điều 9 Nghị định này”. Tuy nhiên chưa có hướng dẫn cụ thể trong 15 ngày xác định nơi cư trú của đối tượng vi phạm thì tổ chức nào chịu trách nhiệm quản lý đối tượng vi phạm.231
+ Điều 9 Nghị định số 221/2013/NĐ-CP quy định hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào CSCNBB đối với người nghiện có nơi cư trú ổn định có đến 8 loại giấy tờ. Đây là quy định quá khó đối với cấp xã khi tiến hành thủ tục lập hồ sơ đưa người nghiện vào CSCNBB trong khi người nghiện luôn có tâm lý né tránh việc phải đi cai nghiện bắt buộc.232
+ Việc quy định trong thành phần hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với người nghiện ma túy có nơi cư trú ổn định bao gồm “biên bản về hành vi sử dụng ma túy trái phép” tại điểm c khoản 1 Điều 9 Nghị định số 221/2013/NĐ-CP không phù hợp với quy định tại điểm a khoản 1 Điều 103 Luật XLVPHC.233
+ Điểm b khoản 1 Điều 9 Nghị định số 221/2013/NĐ-CP quy định hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc phải có “Phiếu trả lời kết quả của người có thẩm quyền về tình trạng nghiện ma túy hiện tại của người bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc”. Tuy nhiên, theo quy định chuyên môn của ngành y tế, việc xác định tình trạng nghiện kéo dài trong thời gian 05 ngày. Đối với người nghiện lên triệu chứng cai khi không dùng thuốc từ 3 – 5 ngày thì việc giữ đối tượng nghiện trong thời gian nêu trên để xác định tình trạng nghiện (giữ ở đâu, ai giữ) hiện chưa có văn bản hướng dẫn thi hành.234
+ Điểm e khoản 1 Điều 9 Nghị định số 221/2013/NĐ-CP quy định hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc phải có “giấy xác nhận hết thời gian cai nghiện ma túy tại gia đình hoặc cai nghiện ma túy tại cộng đồng…”. Trong thực tế khi lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc hầu hết đều thiếu loại giấy tờ này vì số lượng người nghiện ma túy đã được cai nghiện tại gia đình hoặc cộng đồng rất ít.235
+ Khoản 2 điều 12 Nghị định số 221/2013/NĐ-CP quy định “Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc…”, quy định như vậy chưa rõ ràng, khó thực hiện (05 ngày/01 hồ sơ hay 05 ngày/nhiều hồ sơ) vì trên thực tế việc thẩm định hồ sơ đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, cũng như đưa vào cơ sở giáo dục số lượng hồ sơ do UBND cấp xã, cơ quan công an chuyển đến phòng Tư pháp đề nghị thẩm định với số lượng hồ sơ nhiều (5,10,15 hồ sơ/đợt), thì thời gian quy định như trên không thể thực hiện được.236
+ Điều 57 Luật XLVPHC và Điều 12 Nghị định 221/2013/NĐ-CP đều quy định việc “đánh bút lục” trong hồ sơ. Tuy nhiên hiện nay chưa có hướng dẫn cụ thể như thế nào là “đánh bút lục”.
+ Trình tự, thủ tục lập hồ sơ người nghiện ma túy để chuyển sang Tòa án nhân dan cấp huyện xem xét, quyết định áp dụng BPXLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc còn rườm rà và có quá nhiều biểu mẫu phức tạp. Cụ thể: Muốn lập hồ sơ đưa một người nghiện ma túy đã bị xử phạt vi phạm hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, cấp xã phải áp dụng cùng lúc 02 biện pháp là: biện pháp GDTXPTT và cai nghiện tự nguyện hoặc bắt buộc tại gia đình và cộng đồng; đối với người sau cai nghiện vừa trở về từ các Trung tâm bị phát tái nghiện cũng phải lập hồ sơ lại như ban đầu. Trình tự thủ tục lập hồ sơ phải qua nhiều cơ quan khác nhau nên mất nhiều thời gian, do đó nhiều trường hợp các hồ sơ nộp lên TAND không được thụ lý do quá thời hạn quy định hoặc các đối tượng lợi dụng cơ hội để bỏ trốn khỏi địa phương.237
+ Chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể trường hợp trong thời gian người cai nghiện ma túy đang bị áp dụng biện pháp GDTXPTT theo Nghị định số 111/213/NĐ-CP mà phát hiện tiếp tục sử dụng trái phép chất ma túy thì có bị áp dụng biện pháp ĐVCSCMBB theo Nghị định số 221/2013/NĐ-CP không?238
- Chưa có văn bản quy định cụ thể việc lưu giữ đối tượng sử dụng ma túy trong khoảng thời gian cần thiết để xác định tình trạng nghiện của họ.239
- Chế độ áp dụng, thi hành biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng và cơ sở giáo dục bắt buộc:
+ Chưa có văn bản hướng dẫn việc quản lý, sử dụng kinh phí đưa đối tượng vào TGD, CSGDBB.240
+ Chưa có văn bản hướng dẫn trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các BPXLHC đưa vào TGD, đưa vào CSGDBB, đưa vào CSCNBB tại Tòa án nhân dân nên ít địa phương lập hồ sơ đề nghị áp dụng các BPXLHC nêu trên. Do vậy số lượng vi phạm chưa được áp dụng các biện pháp XLHC tồn đọng ngày càng nhiều.241 Bên cạnh đó các cơ quan chức năng gặp khó khăn trong việc giải quyết trường hợp hết thời hiệu áp dụng các BPXLHC đối với các đối tượng vi phạm.242
+ Chưa có quy định cụ thể việc tạm giữ hành chính đối tượng bị áp dụng biện pháp đưa vào TGD, đưa vào CSGDBB ngay sau khi Tòa án quyết định áp dụng các biện pháp này nên các đối tượng thường bỏ trốn.243
+ Hồ sơ đưa vào TGD, đưa vào CSGDBB chưa phản ánh hết tình trạng đã từng sử dụng ma túy của đối tượng nên việc nắm bắt tình hình sức khỏe, tâm lý để có sự phân loại đối tượng ngay từ đầu nhằm quản lý, giáo dục cho phù hợp gặp nhiều khó khăn. 244
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |