NƠi nào có Ý chí, NƠI ĐÓ CÓ con đƯờNG



tải về 336.6 Kb.
trang3/6
Chuyển đổi dữ liệu05.08.2016
Kích336.6 Kb.
#13094
1   2   3   4   5   6
HELEN KELLER “Bạn có thể làm được mọi thứ nếu bạn có niềm tin vững chắc ở bản thân, một ý chí mạnh mẽ, một trái tim vĩ đại, và một vài thần tượng để bạn noi theo.”
- Tyrone “Mugsy” Bogues
Thành công sau một chặng đường dài

- “Nhà văn không thể biết trước thành công có đến với mình hay không. Họ chỉ biết nỗ lực hết mình và chuẩn bị chào đón thành công bằng việc viết, viết, và viết nhiều hơn nữa.” Lại một lời từ chối nữa trong vô số lời từ chối của các nhà xuất bản. Khi thì nó nhảy bổ ra từ thùng thư, lúc thì lại êm ái, lịch sự rót vào tai Noreen Ayres từ ống nghe của chiếc điện thoại, lần khác nó chậm rãi bò vào nhà cô bằng đường máy fax. Chỉ một vài tác giả không gặp những thất vọng loại này, còn thì rất, rất nhiều người buộc phải đầu hàng và buông bút. Nhưng Noreen không nằm trong số họ. Ba mươi lăm năm viết và gởi, cuối cùng cô đã chứng minh được rằng tất cả những lời từ chối cô nhận được chỉ là một bản nháp được viết đi viết lại nhiều lần trước khi thành bản chính với nội dung ngược lại. Noreen mơ trở thành nhà văn từ năm mười bốn tuổi. Một giáo viên nhận ra khả năng của cô và động viên cô học lên đại học. Với Noreen lúc ấy, vào đại học là một ý nghĩ lạ lẫm bởi trong gia đình cô, chưa có ai học hết trung học, nói chi đến đại học. Cha mẹ cô cũng chưa bao giờ quan tâm đến chuyện học hành của con cái. Chính cô giáo của Noreen đã thắp lên ngọn lửa đó trong cô. Noreen rời gia đình vào năm mười bảy tuổi và tự bươn chải để có tiền học đại học. Ở đại học, các giáo sư của cô cũng nhận ra một điều gì đó đặc biệt trong các bài viết của Noreen. Nhưng mọi việc chỉ dừng lại ở đó vì chưa kịp có tác phẩm nào thì cô đã lập gia đình và có con. Đó là những chuỗi ngày dài nhất của đời cô: bảy năm liền trong vai trò làm mẹ và tám năm kế tiếp cô theo học hàm thụ sau đại học nhằm kiếm một tấm bằng thạc sĩ để có thể đi dạy. Trong thời gian đi dạy và làm thư ký, cô dành hết thời gian rảnh rỗi để làm thơ và viết truyện ngắn. Năm tháng qua nhanh trong khi cô chỉ mới đi được những bước đi nhỏ bé vào lĩnh vực viết văn. Rồi cô làm người sửa mo-rat cho các nhà xuất bản. Sáu năm nữa trôi qua, cô vẫn viết, được một vài giải thưởng và nhiều lời khích lệ nhưng thành công dường như không muốn đến với cô, không ai chịu xuất bản sách của cô. Thời giờ mải miết trôi và Noreen biết rằng cô không còn nhiều thời gian. Khá lâu sau cuộc ly hôn với người chồng đầu tiên, ở tuổi ba mươi tám, cô kết hôn với Tom Glagola, một nhà văn nhiều khát vọng. Họ hứa với nhau hai điều: một là sẽ mãi mãi bên nhau, và hai là quyết tâm trở thành những nhà văn nổi tiếng. Cả hai đều đang phải làm việc toàn thời gian để duy trì cuộc sống nên họ chỉ có thể viết khi nào tranh thủ được chút thời gian. Lại sáu năm nữa trôi qua và họ vẫn chưa có tác phẩm nào được xuất bản. Cảm thấy tuyệt vọng, Noreen cùng chồng đi đến một quyết định táo bạo: nghỉ việc để toàn tâm toàn ý sáng tác. Để trang trải chi phí sinh hoạt, họ phải mang cầm cố ngôi nhà của mình. Họ tự nhủ, thậm chí nếu họ vẫn không thành công trước tuổi sáu mươi lăm, họ cũng mãn nguyện vì đã cố gắng hết mình. Noreen viết rất đều tay và công bố các truyện ngắn của mình ở bất kỳ nơi nào có thể. Một năm rưỡi qua đi và không một mẩu truyện nào được xuất bản. Cô bắt đầu nản và tự hỏi rằng mình đang cố gắng vì cái gì. Ở những thời điểm quyết định như thế này, con người ta phải chọn lựa: hoặc từ bỏ giấc mơ, hoặc đi tiếp bằng tất cả nghị lực và ý chí. Noreen đã quyết định tiếp tục. Bà tham gia hội nhà văn. Lấy những lời nhận xét và khuyến khích của các thành viên trong hội làm động lực, Noreen chuyển sang viết tiểu thuyết trinh thám. Tác phẩm đầu tiên bà gửi đến ba mươi ba nhà xuất bản và bà nhận được … ba mươi ba lời từ chối cùng những lời khen về phong cách viết, chứ không phải về nội dung tình tiết của truyện. Quyết tâm biến thất bại thành cơ hội, Noreen tham gia các khóa học về nghiên cứu tội phạm, giám định hình sự, đọc các vụ án trên báo chí và phỏng vấn các chuyên gia trong những lĩnh vực đó. Một ngày kia bà gặp một vụ án mạng đáng chú ý. Đó là vụ án về một nhân viên mẫn cán của một cửa hiệu tạp hóa bị giết chết một cách dã man trong một vụ cướp. Bị kích thích và hấp dẫn bởi những tình tiết bên trong vụ án, Noreen bắt tay vào viết. Noreen mang một trăm trang bản thảo đầu tiên đến một hội nghị văn học có giới xuất bản tham dự. Trước cuộc thảo luận, Noreen chuẩn bị rất kỹ, nghiên cứu kỹ về lĩnh vực mà từng nhà xuất bản quan tâm, lưu ý cả về mức độ thành công của họ. Tại hội nghị, bà đưa bản thảo cho đối tượng lựa chọn đầu tiên của mình: Nhà xuất bản William Morris. Và, lần này thì không một lời từ chối nào được thốt ra. Đại diện nhà xuất bản chỉ hỏi bà một câu đơn giản: “Bà muốn ứng trước bao nhiêu?”. Thông thường giá bản thảo của một nhà văn chưa có tác phẩm xuất bản lần nào là vào khoảng 5.000 - 7.000 đô la. Noreen không biết điều đó, bà đưa ra một cái giá mà bà nghĩ có thể giúp bà toàn tâm toàn ý viết trong vòng hai năm: “150.000 đô la”. Thật bất ngờ, người đại diện đề nghị 120.000 đô la và đặt hàng bà hai cuốn, một thỏa thuận không thể tin được dành cho một nhà văn mới. Cuối cùng Noreen cũng đã trở thành một nhà văn có sách được xuất bản và được biết đến rộng rãi khi bước vào tuổi năm mươi hai. Cuốn sách đầu tiên của bà, A World the Color of Salt, xuất bản năm 1992, được nhiều nhà phê bình văn học khen tặng và nhận được nhiều lời ca ngợi từ độc giả. Carcass Trade là cuốn sách thứ hai của bà, được xuất bản năm 1994. Và cuốn thứ ba, The Juan Doe Murders, vừa được bà hoàn thành cách đây không lâu. Dù Noreen đã cầm bút và viết trong hơn ba thập kỷ trước khi sách của bà được xuất bản, nhưng cuối cùng bà đã đạt được ước mơ của mình. Không ai có thể tiên đoán được Noreen sẽ viết về những gì trong tương lai, nhưng chắc chắn bà sẽ không có trang sách nào dành cho sự hối tiếc. NOREEN AYRES “Cuộc sống luôn đầy những thử thách. Nếu không có thử thách, làm sao ta biết và nhận ra sức mạnh tuyệt vời đang ẩn chứa trong ta?”
Hai vận động viên “ngoại hạng”

- "Mọi người đều cho rằng tôi không thể làm được gì, nhưng cha mẹ tôi không nghĩ thế, họ tin ở tôi, và chúng tôi đã chứng minh cho mọi người thấy rằng họ đã nhầm khi nghĩ như thế.” Đó là một câu chuyện khó tin, nhưng có thật: một người liệt toàn thân ngồi xe lăn nhưng có thể thi đấu đủ các môn, từ marathon đến ba môn phối hợp, và thậm chí cả những cuộc tranh tài thể thao khắc nghiệt vốn chỉ dành cho những vận động viên có sức khỏe siêu hạng. Anh luôn về đích và bỏ lại phía sau hơn một nửa số vận động viên khác trong cuộc đua. Chỉ bấy nhiêu thôi cũng đủ làm cho đám đông khán giả thán phục đến lặng người. Rick Hoyt đã từng cán đích 631 lần như thế trong suốt 20 năm qua, và hầu như anh luôn nằm trong nhóm năm mươi phần trăm những người về đầu, chưa kể đôi lần anh đoạt chức vô địch. Tuy nhiên, anh không bao giờ về đích một mình vì lúc nào cũng vậy, sát bên anh là người đồng đội chí cốt, Dick Hoyt, cha anh. Mọi người nói rằng những gì Dick làm được thật phi thường. Người ta thường nhìn thấy hình ảnh một người đàn ông trung niên vừa chạy vừa đẩy một người khác ngồi trong xe lăn, hoặc gò lưng đạp xe kéo theo một chiếc xe lăn lên dốc xuống đồi, hay vừa bơi vừa kéo một người khuyết tật cùng chinh phục 3 km đường đua xanh và còn nhiều chuyện hơn thế nữa. Gia đình Hoyt đã quen thuộc với những hình ảnh đó. Và, họ có thể biến những cái không thể thành có thể. Khi Rick chào đời năm 1962, các bác sĩ nói với Dick và Judy, cha mẹ anh, rằng đứa bé sẽ chẳng mang lại điều gì tốt đẹp cho họ ngoài sự đau buồn và khuyên họ nên gởi Rick vào trại trẻ mồ côi. Bị liệt toàn thân do bại não, Rick chỉ có thể sống đời sống thực vật. Có lẽ con trai họ không bao giờ có thể hòa nhập được với cộng đồng. Gia đình Hoyt bỏ ngoài tai lời khuyên của bác sĩ và đem con trai họ về North Reading, bang Massachusetts. Dick và Judy quyết định nuôi dưỡng con trai họ như mọi đứa trẻ bình thường khác. Vào thời đó, các chuyên gia không biết nhiều về chứng bại não và do đó họ cũng không chắc chắn lắm về tình trạng của Rick. Việc phải sống cùng với trẻ tàn tật là điều hầu như nằm ngoài mong đợi của hầu hết các bậc phụ huynh. Nhưng gia đình Hoyt là một ngoại lệ. Họ muốn chứng tỏ “tình trạng khuyết tật” thuần túy chỉ là một thử thách cần phải chinh phục, chứ không phải là những rào cản không thể vượt qua. Cách giao tiếp duy nhất với mọi người mà Rick có thể thực hiện là gật đầu để biểu lộ sự đồng tình hoặc lắc đầu chỉ sự phản đối. Các chuyên gia y tế bảo rằng anh không thể nói được. Gia đình Hoyt lại có niềm tin ngược lại và họ đã tặng 5.000 đô la cho trường Đại học Tufts để nghiên cứu thiết bị hỗ trợ giao tiếp dành cho người không có khả năng nói bình thường. Khi Rick 12 tuổi, thiết bị này đã sẵn sàng đưa vào thử nghiệm. Các kỹ sư của Đại học Tufts và cả gia đình Hoyt hồi hộp vây quanh Rick chờ đợi những câu nói đầu tiên của cậu. Rick dùng đầu để điều khiển công tắc điện và cuối cùng cũng lắp ghép được thành câu: “Giống con gấu quá!” . “Chúng tôi cùng bật cười trong hạnh phúc”, Dick nói, “bởi vì điều đó đã xác nhận những gì chúng tôi hằng tin tưởng - Rick có tư duy lành mạnh và tích cực - và cả óc khôi hài nữa.”
Vì Rick sớm bộc lộ sự yêu thích thể thao, cả gia đình thường đưa cậu đi câu cá, đua thuyền, và thậm chí là leo núi bằng cách mang cậu sau lưng. Mọi người trong gia đình được dịp nhận biết khuynh hướng thích mạo hiểm, thử thách ở cậu, đồng thời thấy rõ một con người bình thường với một đầu óc bình thường, có những nhu cầu như mọi người khác - cả những niềm hy vọng và ao ước được mọi người tôn trọng - trong thân thể hầu như không cử động được của Rick. Thiết bị giao tiếp hỗ tương đóng vai trò then chốt giúp Rick bày tỏ ý tưởng cá nhân và những quan tâm của cậu cùng những thắc mắc thể hiện một tư chất thông minh. Tuy nhiên các trường học không dám nhận Rick bởi cậu không thể tự bước đi, không thể tự ăn uống hoặc mở miệng nói chuyện. Năm 14 tuổi, do khả năng ‘nói’ thông qua thiết bị hỗ trợ ngày càng phát triển và đạo luật mới nhằm đảm bảo cho mọi trẻ em đều được đến trường, cuối cùng Rick cũng được vào trung học, nơi có những trang thiết bị hỗ trợ đặc biệt có thể giúp cậu tự xoay xở trong mọi sinh hoạt. Chính trong quãng thời gian này, Rick cảm thấy yêu thích môn điền kinh. Vào năm 1977, khi Rick được 15 tuổi, tình cờ cậu nghe nói về cuộc thi marathon năm dặm sắp được tổ chức để quyên góp cho một sinh viên bị tai nạn xe hơi. Rick thổ lộ với cha ý muốn tham gia để giúp đỡ cậu sinh viên nọ. Thoạt tiên cha cậu rất bất ngờ với đề nghị của con mình. “Tôi nghĩ, mình đã bốn mươi tuổi và thỉnh thoảng mới chạy bộ chút ít nên không thể nói tôi là một vận động viên điền kinh nghiệp dư được. Điều làm tôi lo nhất là làm sao tôi có thể vừa chạy vừa đẩy Rick trên chiếc xe lăn của nó. Nhưng tôi biết đây là cơ hội có ý nghĩa vô cùng lớn đối với con trai tôi nên tôi bảo Rick: “Được rồi, chúng ta sẽ đăng ký!”. Sau khi cuộc đua kết thúc, Dick ê ẩm cả người và hầu như không thể nhấc nổi tay chân trong suốt hai tuần liền sau đó. Nhưng vào một đêm nọ, trong khi Dick đang xoa bóp những chỗ bị đau bằng thuốc Epsom thì Rick về đến nhà, cậu đưa ra một thông điệp làm thay đổi cả cuộc đời Dick: “Cha à, khi chạy cùng cha, con cảm thấy như mình không phải là người tàn tật gì cả”. Sau cùng thì Rick cũng đã tìm thấy điều có thể cho cậu cảm giác tự do bay bổng không gì sánh bằng. Lúc đó, Dick biết mình phải làm gì. Nếu Rick muốn trở thành vận động viên điền kinh và được thi đấu, Dick sẽ chắp đôi tay và đôi chân của mình để giúp con trai đạt được ước mơ. Nhưng để làm được như thế, Dick cần phải thiết kế lại một chiếc xe đẩy nhẹ hơn nhiều để giảm bớt sức nặng cho ông trên đường chạy. Hai năm sau đó, chiếc xe mới được hoàn tất vào tháng chín năm 1979, lúc Rick và cha mình đăng ký tham gia một giải đấu marathon chính thức lần đầu tiên, một cuộc đua năm dặm ở Springfield, Massachusetts. Họ về đích thứ 150 trong tổng số 300 vận động viên. Sau đó, họ thi đấu ở nhiều thành phố khác nhau vào mỗi cuối tuần. Một trong những cuộc đua đó là giải Marathon Boston, một giải đấu nổi tiếng thế giới với đường đua tiêu chuẩn, dài 42,175km. Rick và cha cậu đăng ký ở nhóm vận động viên ngồi xe lăn, nơi có những vận động viên nhiều kinh nghiệm thi đấu trước đó. Đơn đăng ký của Rick bị từ chối bởi Rick không thể đua một mình. Nhưng cả gia đình Hoyt không chịu bỏ cuộc. Họ âm thầm tham dự cuộc đua, họ thay phiên nhau chạy sau xe của Rick để đẩy cậu. Chẳng có nhà tài trợ hay thành viên nào trong ban tổ chức biết đến sự có mặt của họ, nhưng khán giả dọc đường đua trong thành phố thì ai cũng biết, và họ đã nhiệt liệt reo hò cổ vũ gia đình Hoyt cho tới khi họ về đến đích. Trong số 7.400 vận động viên tham gia, gia đình nhà Hoyt nằm trong nhóm chín mươi phần trăm những người về đầu. Đây là một trong những cuộc đua marathon đầu tiên ở Boston mà họ tham gia và về đến đích. Trong suốt những năm này, Rick cũng chứng tỏ mình còn hơn cả một vận động viên “đặc biệt”. Cậu lấy bằng tốt nghiệp của Đại học Boston và trở thành người khuyết tật bại não đầu tiên tốt nghiệp đại học. Năm 1984, Dick trở thành một vận động viên điền kinh nổi tiếng và được mời tham dự các cuộc thi ba môn phối hợp (bơi, đạp xe, chạy bộ). Đó vốn là cuộc thi dành cho những người có sức khỏe tốt và dẻo dai nhưng ban tổ chức muốn Dick tham gia, và chỉ mình ông mà thôi, không có Rick. Ông từ chối. Năm kế tiếp, họ lại đưa ra lời mời tương tự, nhưng một lần nữa ông lại từ chối nếu không có con trai của mình cùng tham gia. Dick nói với các nhà tổ chức, “Rick chính là lý do tôi tham gia các cuộc thi này; tôi không muốn thi đấu một mình. Rick là động lực thúc đẩy tôi. Hơn nữa, nếu không có Rick, tôi không biết phải làm gì với hai cánh tay của mình”. Sau cùng, ban tổ chức đồng ý để Rick tham gia nếu Dick có thể trang bị một thiết bị thi đấu an toàn cho cả hai. Dick cũng chẳng thèm bận tâm khi con trai mình không biết bơi, cũng chẳng biết đạp xe kể từ năm lên sáu tuổi. Sau những gì mà con trai ông đạt được, những khó khăn ấy chừng như chẳng đáng kể gì.
Dick bắt đầu huấn luyện và thiết kế một thiết bị có thể giúp ông kéo Rick theo dưới nước cũng như trên bộ. Chiếc xe đạp nặng 29 kg, Rick 44 kg, và Dick 84 kg - tổng cộng 157 kg, cả khối lượng này sẽ lên đèo xuống dốc, vượt qua những rào cản thể chất và tinh thần một cách không ngừng nghỉ. Rick và Dick đã hoàn tất cuộc thi ba môn phối hợp lần đó và cả những lần khác mà họ từng tham dự, với thành tích nằm trong số năm mươi phần trăm những người về đầu. Trong suốt quá trình thi đấu, Dick nghiệm ra rằng “Không có gì không thể vượt qua nếu mọi người biết làm việc cùng nhau”. Dick đã nghĩ đúng. Hai cha con họ đã cùng nhau trải qua những cuộc đua nổi tiếng chỉ dành cho những người có sức khỏe tốt. Những cuộc đua mà mọi người chỉ riêng nghĩ làm sao để sống còn đã là một niềm hạnh phúc lớn - bơi một mạch 3,8 km, đạp xe 179 km và chạy 42 km đường trường. Rick đi học cả tuần, còn Dick thì tự luyện tập. Mỗi ngày ông bơi khoảng 3 km, chạy 13 km, và đạp xe từ 50 - 60 km cùng chiếc xe lăn thi đấu trong đó có khối bê tông 45 kg. Dick và con trai mình đã cùng thi đấu và về đích bốn cuộc thi ba môn phối hợp như thế. Họ cũng từng đạp xe từ Los Angeles tới Boston, với quãng đường 6.000 km trong suốt 45 ngày không nghỉ. Sau khi hoàn tất cuộc đua marathon Boston lần thứ 15, cuộc đua mà họ đã bị từ chối vào năm 1981 khi lần đầu tiên đăng ký tham gia, họ đã được tôn vinh như những Anh hùng của nước Mỹ nhân kỷ niệm lần thứ 100 môn marathon. Dick vẫn khăng khăng rằng chính con trai mình mới là vận động viên điền kinh, chứ không phải ông. “Tôi không biết phải giải thích thế nào, nhưng mỗi khi đứng đằng sau chiếc xe lăn của con trai, tôi cảm thấy lâng lâng khó tả. Rick là cỗ máy hoạt động của cả hai chúng tôi. Tôi cho Rick mượn thân thể mình, nhưng chính tinh thần của Rick mới là động cơ thúc đẩy chúng tôi tiến về phía trước.” Rick và Dick đã thi đấu cùng nhau suốt 20 năm và có thể nói, thứ hạng trong mỗi cuộc đua không quan trọng đối với họ. Nhưng vào những khoảnh khắc họ bước vào vạch xuất phát, mỗi cuộc đua đã là một chiến thắng vĩ đại đối với họ. DICK HOYT - RICK HOYT “Tôi xác quyết rằng tôi chỉ là một con người bình thường với những khả năng dưới mức trung bình.Tôi không có chút nghi ngờ nào rằng bất kỳ người nào cũng có thể làm được những điều tôi đã làm nếu họ không ngừng ươm mầm hy vọng và niềm tin.” - Mahatma Gandhi
Những căn nhà hạnh phúc

- “Chính ước nguyện xóa đi hình ảnh những căn nhà tồi tàn đã thôi thúc chúng tôi vượt qua muôn vàn khó khăn, trở ngại trên đường đời. Và, với sự phù trợ của Thượng Đế, chúng tôi chắc chắn sẽ đạt được mục tiêu nhà ở cho mười triệu người, lần lượt mỗi lần từng căn một.” Nếu giấc mơ Mỹ có nghĩa là tạo dựng một gia tài khổng lồ từ hai bàn tay trắng thì câu chuyện của Millard Fuller quả là một minh chứng điển hình. Nhưng giấc mơ của Millard chẳng bao lâu sau trở thành cơn ác mộng và anh đã quyết tâm sửa đổi nó. Trước khi bước vào tuổi ba mươi, Millard đã có trong tay một triệu đô la cùng tham vọng kiếm được mười triệu đô la nữa, bởi anh đã sở hữu đầy đủ mọi kỹ năng và nguồn lực để thực hiện tham vọng đó. Anh có một biệt thự sang trọng, một nhà nghỉ bên hồ, hai ngàn héc-ta đất, vài chiếc thuyền cao tốc và nhiều xe hơi đắt tiền. Anh có vợ và hai con cùng những cơn đau thắt ngực và một thời gian biểu dày đặc với công việc. Đế chế kinh doanh của Millard ngày càng lớn mạnh nhưng cuộc sống hôn nhân của anh thì ngày càng bế tắc. Âu đó cũng là chuyện thường thấy ở những người luôn bị cuốn hút vào giàu sang và quyền lực. Nhưng Millard, một trong một triệu triệu phú của thế giới đã dám làm một cuộc thay đổi. Mọi việc bắt đầu vào ngày Millard bị một cơn đau tim bất ngờ ập đến khi đang ở văn phòng. Đó không phải là cơn đột quỵ do tắc nghẽn mạch máu hay xơ cứng động mạch vành mà là do sự đau buồn và lòng ân hận bất ngờ tràn ngập tâm can và làm tim anh như ngừng đập. Đó là khi Linda, vợ anh, gọi điện nói rằng cô không còn ý nghĩ rằng mình đang có một người chồng, rằng cô không biết mình có còn yêu anh nữa không, và cô sẽ đi New York gặp một mục sư nào đó để giãi bày hoàn cảnh của mình. Millard choáng váng. Anh đã dành cho cô tất cả mọi thứ trên đời mà tiền bạc có thể mua được. Sao cô ấy có thể không yêu anh cơ chứ? “Tuần lễ sau đó là chuỗi ngày cô độc nhất và đau khổ nhất cuộc đời tôi”, Millard nhớ lại. Anh bắt đầu nhận ra rằng sự thành công trong kinh doanh của anh buộc anh phải trả giá bằng tất cả những gì anh thực sự quan tâm trong đời. Điều này càng được khẳng định khi anh xem một bộ phim với lời giới thiệu “Một cuộc đời được sắp đặt trước chỉ là một sự chịu đựng”. Một cuộc sống định sẵn? Vâng, đó chính xác là tình cảnh hiện tại của Millard và gia đình anh. Và anh đã không gắn nó vào một mục đích có ý nghĩa nào. Millard gọi điện cho Linda và khẩn khoản xin cô cho anh được gặp. Linda miễn cưỡng đồng ý. Thế là Millard đáp máy bay đi ngay đến New York. Những ngày sau đó chỉ toàn nước mắt cùng sự thổn thức của hai con tim đau khổ. Rồi họ cam kết làm lại từ đầu với những gì thực sự có ý nghĩa cho cuộc sống gia đình. “Cả hai chúng tôi dường như cảm nhận được sự hiện diện của Thượng Đế khi chúng tôi bàn chuyện tương lai. Chúng tôi cảm thấy mình như đang được ơn trên soi sáng và dẫn dắt tới một cách sống mới”, Millard nói. Và để bắt đầu, Millard và Linda quyết định trước tiên phải từ bỏ những thứ đã tạo ra bức tường ngăn cách giữa họ và Thượng Đế – tức chuyện kinh doanh và mọi của cải vật chất. Họ đã bán tất cả - công ty, nhà cửa, xe cộ, thuyền bè và hiến tặng cho nhà thờ, trường học và các quỹ từ thiện. Bạn bè cho rằng Millard phát rồ, còn anh thì lại cảm thấy mình chưa bao giờ sáng suốt hơn thế. Millard cảm thấy thư thái hơn, nhưng tiếp theo phải làm gì đây? Câu trả lời đến với Millard khi anh cùng đi với Clarence Jordan, một nhà thần học Thiên Chúa giáo, đến thăm một cộng đồng giáo dân do Clarence tập hợp và đặt tên là Koinonia. Đó là một ngôi làng nhỏ gần thị trấn Americus thuộc bang Georgia, cách Atlanta 140 dặm về hướng nam. Clarence chỉ cho Millard thấy hàng loạt những căn nhà tạm bợ, tồi tàn dọc theo những con đường bẩn thỉu của vùng đồng quê. Đó là nơi trú ngụ của hàng trăm gia đình nghèo khó, thiếu thốn cả vật chất lẫn tinh thần – một trong hàng trăm nghìn cảnh tượng đang tồn tại trên khắp đất Mỹ và nhiều quốc gia khác trên thế giới, vì 25% dân số thế giới, tương đương 1,5 tỷ người, hiện đang sống dưới mức nghèo khổ, thậm chí không chốn nương thân. Thế là Millard, Clarence và các cộng sự bắt tay dựng nhà cho những người cơ nhỡ. Buồn thay, khi căn nhà đầu tiên đang trong quá trình xây dựng thì Clarence đột ngột qua đời vì một cơn đau tim. Tuy nhiên, việc xây dựng nhà cho dân nghèo làng Koinonia vẫn được tiến hành liên tục trong bốn năm rưỡi sau đó. Xúc động trước ảnh hưởng mạnh mẽ của những căn nhà đơn sơ nhưng tươm tất đối với các gia đình nghèo khó ở Koinonia, Millard muốn kiểm chứng hiệu quả của hoạt động thiện nguyện này bên ngoài ranh giới bang Georgia. Thế là Millard cùng vợ đi Zaire, Trung Phi, phối hợp với Hội thánh Tin Lành địa phương thực hiện nhiều dự án xây nhà cho người nghèo tại quốc gia này trong ba năm liên tục. Cuối cùng, tin rằng tư tưởng chủ đạo trong việc làm của họ có thể phát huy tác dụng khắp mọi nơi trên thế giới, họ trở về Georgia năm 1976 và quyết định thành lập Tổ chức Habitat for Humanity International (tạm dịch: Tổ chức Nhân đạo Quốc tế về Nhà ở). Nếu Millard từng quyết tâm kiếm được 10 triệu đô la thì giờ đây ông chỉ muốn xây nhà cho 10 triệu người đang gặp khó khăn về nhà ở. Cả Millard và Linda đều tâm niệm rằng “ai cũng cần một mái ấm, dù đơn sơ, để gối đầu ngả lưng khi đêm về”. Và họ xem đó là lý tưởng của đời mình. Họ tin rằng xây nhà bán trả góp không lấy lãi cho người nghèo là thể hiện sự thành tâm và lòng bác ái bằng hành động cụ thể – đó mới là chân đạo. Tôn chỉ của Tổ chức Nhân đạo Quốc tế về Nhà ở chỉ đơn giản là thế. Thoạt đầu nhiều người cho rằng điều đó là phi thực tế, thậm chí là điên rồ khi biết đó là một tổ chức phi lợi nhuận, chỉ xây nhà bán với giá vốn. Những người khác thì cho rằng đó không phải là tư duy kiểu Mỹ và sẽ không mang lại kết quả gì. Nhưng Habitat đã hoạt động tốt. Nó đã giúp vô số người có thu nhập khiêm tốn, nhà cửa tồi tàn có cơ hội sở hữu một căn nhà mới đàng hoàng hơn và phù hợp với khả năng tài chính của họ.
Việc xây những căn nhà mới của Habitat hầu như chỉ nhờ vào các tình nguyện viên, mà đa phần họ không có kinh nghiệm gì về xây dựng. Riêng tiền bạc và vật tư xây dựng thì được nhiều tổ chức xã hội, công ty và nhà thờ quyên tặng. Nhiều người ở mọi tầng lớp xã hội đã góp công góp sức vào công việc nhân đạo này bất cứ khi nào họ có thể. Habitat cũng không hẳn là một tổ chức từ thiện bởi các gia đình được nhận nhà cũng chung tay với Habitat xây dựng căn nhà của chính họ và cả nhà của những người hàng xóm. Khi người mua thanh toán tiền nhà, những đồng tiền đó lại được sử dụng để tiếp tục xây nên những căn nhà mới. Tại sao nhiều người, nhiều tổ chức sẵn sàng đóng góp cho Habitat? Đó là vì những kết quả thu được thật rõ ràng. Nhu cầu thì vô tận mà sức lực của con người thường có giới hạn, vì thế khó mà tạo ra được sự khác biệt lớn lao nào nếu không có sự đồng lòng hợp sức. Ở Habitat, những người tình nguyện và những người chủ nhà tương lai cùng làm việc kề vai sát cánh bên nhau. Khi một căn nhà được xây xong, mọi người cùng chia sẻ với chủ nhà niềm sung sướng và tự hào khi ngắm nhìn thành quả chung của họ. Mục tiêu của Habitat là thay thế những khu nhà tồi tàn bằng những căn nhà mới tươm tất hơn, đồng thời giải quyết nhu cầu nhà ở cho người vô gia cư khắp mọi nơi. “Tôi nhận ra rằng sự táo bạo trong các mục tiêu của chúng tôi đã làm lay động lòng người. Cứ mỗi năm trôi qua, chúng tôi lại kinh ngạc trước những điều kỳ diệu mới được tạo ra từ sự táo bạo ấy”, Millard nói. Thông qua kế hoạch của Millard, Habitat đã xây được hơn 60.000 căn nhà trên khắp thế giới, giúp hơn 300.000 người có nhà ở ổn định, tươm tất và phù hợp với thu nhập khiêm tốn của họ. Đến nay, Habitat đã có hơn 1.400 chi nhánh khắp 50 bang nước Mỹ và trên 250 văn phòng đại diện ở nước ngoài. Họ cũng điều phối khoảng 800 dự án xây dựng ở 51 quốc gia trên thế giới. Habitat không chỉ dựng nên những căn nhà, mà họ đã xây dựng nên những gia đình, những cộng đồng và cả niềm hy vọng lớn lao. Millard giải thích rằng: “Có an cư thì mới lạc nghiệp. Chính những căn nhà có thể chống chọi với cuồng phong, mưa lũ, động đất nhẹ đã giúp xã hội giành lại những con người lương thiện khỏi tay bọn buôn bán ma túy và làm thay đổi triệt để cái nghèo”. Habitat cũng giúp mọi cá nhân thuộc mọi ngành nghề, giai cấp, địa vị xã hội, tôn giáo,… xích lại gần nhau. Hầu như người dân Mỹ nào cũng đã từng thấy hình ảnh Tổng thống Jimmy Carter và Đệ nhất Phu nhân Rosalynn Carter trong trang phục áo liền quần của công nhân, đóng đinh, cưa gỗ dưới cái nắng gay gắt giữa trời. Millard nhận được sự ủng hộ của họ đơn giản bằng việc thỉnh ý họ. “Tôi đã đệ trình Tổng thống 15 thỉnh nguyện với hy vọng chỉ một hay hai trong số đó được đồng ý đã là quá tốt”, Millard kể lại. “Nhưng, trong sự vui mừng khôn tả của chúng tôi, Tổng thống đồng ý tất cả!” Gia đình Tổng thống Carter chỉ là một trong số những tấm gương nổi bật nhất về những người tham gia vào các hoạt động thiện nguyện của Habitat bằng sự ủng hộ tích cực cả nhân tài và vật lực trong quá trình xây đắp những mái ấm, mang đến hạnh phúc cho những người nghèo khó, cơ nhỡ. Vào cuối thế kỷ 20, Habitat đã trở thành nhà xây dựng lớn nhất thế giới, xét trên tiêu chí số lượng công trình xây dựng hoàn thành. Từng viên gạch, từng bay hồ không chỉ tạo ra những căn nhà mang dấu ấn Habitat, mà còn xây nên những cuộc đời mới. Tất cả bắt nguồn từ sự từ bỏ của cải vật chất của một đôi vợ chồng trẻ để đổi lấy những giá trị tốt đẹp hơn. Giờ đây, Millard và Linda tin rằng họ là hai trong số những người giàu có nhất trên đời. MILLARD FULLER “Khát vọng chính là nguồn động lực có sức mạnh vô biên, tiềm tàng bên trong mỗi con người, giúp con người không bao giờ từ bỏ ước mơ, không bao giờ khuất phục trước hoàn cảnh.” - Keith Harrell


tải về 336.6 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2   3   4   5   6




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương