20
chuyển để thu thập thông tin thêm như các kết quả xét nghiệm, các biện pháp
điều trị, các diễn biến trong thời gian người bệnh nằm tại đó (điều này không
dễ và rất mất thời gian, ngay bên Mỹ). Khi trình bệnh, phần diễn biến khi người
bệnh nằm viện tại đó được để ngay đầu, kèm theo lý do chuyển viện. Thí dụ:
“BN nhập viện tại BV. A 12 ngày trước đây vì suy tim mất bù cấp, có biến chứng suy thận
cấp và tụt huyết áp. Ngày 5, 6, 8 sau khi nhập viện tại BV. A, người bệnh được chạy thận
qua đường ĐM đùi. Ngày thứ 10, người bệnh bị sốt 39° và được chẩn đoán là viêm phổi
mắc phải khi nằm viện. Người bệnh được điều trị với vancomycin và piperacilline-
tazobactam trong khi chờ đợi kết quả cấy đàm và máu. Hai ngày trước, lượng xuất
nước tiểu được cải thiện, lên 60 cc/giờ với truyền furosemide nhỏ giọt, creatinin xuống.
Người bệnh hết sốt và hô hấp ổn. Người bệnh được chuyển viện theo yêu cầu người nhà
vì muốn gần nhà.”
(Chú ý: hệ thống y tế Mỹ phân bố theo vùng và không có tuyến như Việt Nam,
người bệnh có quyền vào BV nào theo ý hay điều kiện tài chính của họ)
Kế tiếp là nhận xét về cách làm của BV nơi chuyển với sự tôn trọng, kèm theo
những gì cần bổ sung. Nếu có nghi ngờ về chẩn đoán và điều trị trước đó, hãy
đề nghị đánh giá lại. Thí dụ:
“ Ệm đồng ý những gì BV. Ă đã làm, nhưng nên làm thêm điện tâm đồ và xin kết
quả cấy đàm và máu. Cần tối ưu hóa các thuốc trợ tim mạch và đổi qua kháng
sinh uống nếu kết quả cấy âm tính. Ngoài ra khi tình hình bệnh ổn, cho người
bệnh tập phục hồi chức năng.”
Một thói quen khá phổ biến ở các BV Mỹ (có lẽ giống bên Việt Nam) là họ hay
lập lại các xét nghiệm mà BV trước đó đã làm, dù đó là xét nghiệm đắt tiền. Lý
do đưa ra là cần làm lại để có hồ sơ tại chổ cũng như không mất thì giờ chờ kết
quả từ nơi khác gởi đến. Tác giả C. Packer gọi đó là
hospital myopia (tật nhìn gần
của bệnh viện). Thói quen này làm lãng phí lên đến 750 tỉ đô-la hằng năm bên
Mỹ.
Chia sẻ với bạn bè của bạn: