LỊch sử phật giáO ẤN ĐỘ


TIẾT II. TƯ TƯỞNG BỘ PHÁI



tải về 2.77 Mb.
trang9/17
Chuyển đổi dữ liệu29.11.2017
Kích2.77 Mb.
#34799
1   ...   5   6   7   8   9   10   11   12   ...   17

TIẾT II. TƯ TƯỞNG BỘ PHÁI.


- Thực chất là có bao nhiêu Bộ Phái?

Về đại thể, thì mỗi Bộ phái đều dựa vào kiến giải của Bộ phái mình, do vậy nên có sự phân phái. Tương truyền có cả thảy mười tám Bộ phái. Thêm nữa, tất cả đều lấy Ðại Chúng Bộ và Thượng Tọa Bộ làm căn bản, vì vậy mới thành hai mươi Bộ. Nhưng theo thư liệu hiện còn, thì Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ và Kinh Lượng Bộ thuộc hệ Thượng Tọa Bộ, tư liệu về hai Bộ này là di sản vô cùng phong phú và cực kỳ quí. Bởi hai Bộ trên hiện có rất nhiều luận điển, nhờ những luận điển đó chúng ta mới cơ sở để nghiên cứu. Tư tưởng của các Bộ phái khác đều dựa vào những luận điển của Hữu bộ mới có được khái niệm để tự thuật một cách gián tiếp về Bộ phái mình. Ðặc biệt nhất là Ðại Chúng Bộ. Bộ này tuy trước sau được chia thành chín bộ, nhưng luận thư của chín Bộ này cơ hồ như không bị thất tán.

- Nói về giới luật, như chúng ta biết, trong các Bộ phái Phật giáo, có Bộ rất coi trọng giới luật, có Bộ thì đối với giới luật chẳng có gì phải tranh luận. Với các Bộ phái coi trọng giới luật, vẫn có vấn đề ý kiến bất đồng. Ðó là vì các Bộ phái giải thích luật căn bản theo kiến giải của Bộ phái mình, nhân đó hình thành luật tạng mang tính Bộ phái. Với các Bộ phái không tranh luận gì về giới luật, tuy vậy, ý kiến của mỗi Bộ cũng có bất nhất, dù tất cả đều sử dụng luật tụng của Bộ mình làm căn bản cho những sinh hoạt của Tăng đoàn.

Vấn đề ở đây là, hai mươi Bộ trong truyền thuyết, nhưng không có kinh luận của hai mươi Bộ phái lưu lại đến ngày nay. Cũng không có Luật tạng của hai mươi Bộ phái còn lưu hậu. Nếu phân tích kỹ, chưa hẳn chỉ có hai mươi Bộ phái. Và như vậy, con số hai mươi Bộ, đó chỉ là thuyết phổ thông của Phật giáo Bắc truyền.

---o0o---

- Phân thành Năm Bộ Luật.

Theo sự phân chia Luật tạng, thì thông thường đều cho rằng “Luật Phân Ngũ Bộ”. Truyền thuyết về “Luật Phân Ngũ Bộ”. Truyền thuyết về “Luật Phân Ngũ Bộ” cũng gồm ba loại:

1. “Ðại Tập Kinh” được truyền bởi: Ðàm Ma Cúc Ða, Tát Bà Ðế Bà, Ca Diếp Tỳ, Di Sa Tắc, Bà Tha Phú La.

2. Sư Tư của Tát Bà Ða Bộ được truyền bởi: Ðàm Vô Ðức, Ma Ha Tăng Kỳ, Di Sa Tắc, Ca Diếp (Di), Ðộc Tử.

3. “Tăng Kỳ Luật Tư Ký”, “Xá Lợi Phất Vấn Kinh”, “Ðại Tỳ Kheo Tam Thiên Uy Nghi”, “Phật Bản Hạnh Tập Kinh” v.v... được truyền bởi: Ðàm Vô Ðức, Di Sa Tắc, Ca Diếp Di, Tát Bà Ða, Ma Ha Tăng Kỳ.

Trong ba truyền thuyết trên, cũng có ít nhiều sai khác, nhưng về đại thể thì giống nhau. Theo ý kiến của pháp sư Ấn Thuận, thì thuyết thứ ba là thuyết rất có nhiều khả năng cho thấy được ý của cổ nhân. Sáu bộ luật tạng hiện vẫn còn truyền, sách này đã giới thiệu ở chương ba, tiết bốn.

---o0o---

- Bộ phái được phân chia từ thời nào?

Nghiên cứu về việc phân chia các Bộ phái xảy ra vào thời nào truyền thuyết cũng không nhất trí. Trong số các học giả cận đại, có bác sĩ Vọng Nguyệt Tín Hạnh, viết trong cuốn “Phật Giáo Niên Ðại Biểu” của mình, ông đưa ra giả định là có bao nhiêu Bộ phái thuộc Thượng Tọa Bộ là như thế này: Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ: sau Phật diệt độ ba trăm bốn mươi lăm năm (345 - trước Công nguyên 141 năm).

---o0o---

- Ðộc Tử Bộ: Sau Phật diệt 385 năm (trước Công nguyên 101 năm).

- Pháp Thượng Bộ, Hiền Trụ Bộ, Chánh Lượng Bộ, kế tiếp nhau phân xuất từ Ðộc Tử Bộ, Hóa Ðịa Bộ được phân xuất từ Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ, trong khi Pháp Tạng Bộ lại phân xuất từ Hóa Ðịa Bộ. Các Bộ trên có niên đại rất gần với Ðộc Tử Bộ.

---o0o---

- Ẩm Quang Bộ: Xuất hiện sau Phật Niết bàn 425 (trước Công nguyên 41 năm).

Trên đây là các Bộ phái được phân chia căn bản là từ Thượng Tọa Bộ, thuộc về thời đại vua A Dục. Những ghi chép trên là của Nam truyền đây là thời gian vua A Dục lên ngôi sau Phật nhập diệt 218 năm (trước Công nguyên 268 năm). Trên thực tế, sự phân phái của Ðại Chúng Bộ diễn ra trước Thượng Tọa Bộ một trăm năm. Nói cách khác, Thượng Tọa Bộ bị kích thích bởi tư tưởng của Ðại Chúng Bộ mới xảy ra việc phân phái. Việc phân phái của Thượng Tọa Bộ, theo luận Dị Bộ Tông Luân của Bắc truyền là sau Ðại Chúng Bộ xấp xỉ một trăm năm.

---o0o---

- Hai mươi Bộ Phái.

Theo ghi chép của luận Dị Bộ Tòng Lâm, thì có thảy hai mươi Bộ phái. Thịnh hành nhất trên thực tế chỉ có Ðại Chúng Bộ, Nam truyền thì có Thượng Tọa Bộ, Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ, Chánh Lượng Bộ, Kinh Lượng Bộ những Bộ này được truyền trên khắp lục địa Ấn Ðộ, cộng lại có năm Bộ. Trong năm Bộ này, chỉ có ba Bộ là có hệ tư tưởng đáng kể nhất, đó là Ðại Chúng Bộ, Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ và Kinh Lượng Bộ. Tuy vậy, nhưng hệ tư tưởng của Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ có phần rời rạc, rối rắm hơn cả.

Về danh mục mà nói thì có hai mươi Bộ Phái, nhưng ở đây căn cứ theo luận Dị Bộ Tông Luân 67 để giới thiệu các Bộ như sau:

---o0o---


I. CHÍN BỘ THUỘC HỆ ÐẠI CHÚNG BỘ.

1. Ðại Chúng Bộ (Mahasanghikàh):

Ðây là Bộ căn bản của hệ Ðại Chúng, chữ Mahasanghikàh dịch ra âm Hán là Ma Ha Tăng Kỳ. Tư tưởng của Bộ này sẽ trình bày rõ ở tiết sau.



2. Nhất Thuyết Bộ (Ekavyàvahàrikah):

Bộ này y vào tông nghĩa được lập thành mà có tên, vì thế nên kinh Văn Thù Sở Vấn 68 gọi Bộ này là Chấp Nhất Ngữ Ngôn Bộ”. Tông Luân Luận Thuật Ký 69 của Khuy Cơ, nói chủ trương của Bộ này là “Pháp thế gian và xuất thế gian đều không có thực thể, chỉ có giả danh”. Vin vào chủ trương này các học giả cận đại cho rằng “Vô Tướng Giai Không Luận” của Bát Nhã Ðại Thừa, cùng với “Chư Pháp Thực Tướng Luận” do Mã Minh, Long Thọ đề xướng có điểm nhất trí với nhau.

---o0o---

3. Thuyết Xuất Thế Bộ (Lokottaravàdinah):

Bộ này cũng dựa vào chỗ lập tông nghĩa mà có tên. “Thập Bát Bộ Luận” gọi Bộ này là Xuất Thế Gian Thuyết Bộ, còn “Văn Thù Sư Lợi Vấn Kinh” thì gọi Bộ này Xuất Thế Gian Ngôn Ngữ Bộ. Bộ này chủ trương pháp thế gian ấy là do điên đảo mà sinh phiền não, do phiền não sinh nghiệp, do nghiệp mà sinh quả báo, quả báo đó là khổ; pháp xuất thế gian do Ðạo mà sinh, Ðạo quả được sinh là nhờ tu đạo. Ðạo quả tức Niết bàn. Như vậy cho thấy hệ phái này đối với Tứ Thánh Ðế có sự nhận thức phê phán Khổ đế và Tập đế là vọng chứ chẳng thực, chỉ có Ðạo đế và Diệt đế mới là pháp chân thực. Nhận thức này đối với giả, thực, chơn, vọng của Ðại thừa còn có khoảng cách (nhân vì nhận thức này chỉ tương đối, trong khi Ðại thừa là tuyệt đối), nhưng ngài Khuy Cơ và Pháp Tạng v.v... cho rằng nhận thức như vậy là “phần thông” với giáo nghĩa Ðại thừa.

---o0o---

4. Kê Dẫn Bộ (Kaukkatutikah):

“Bộ Chấp Dị Luận” gọi Bộ này là Khôi Sơn Trụ Bộ, trong khi “Thập Bát Bộ Luận” gọi Bộ này là Quật Cư Bộ, còn “Văn Thù Sư Lợi Vấn Kinh” dịch ra âm Hán ngữ là Cao Câu Lê Ha Bộ, và “Tông Luân Luận Thuật Ký” thì gọi Bộ này là Kiều Củ Ni Bộ. Bộ này lấy hai tạng Kinh và Luật làm phương tiện giáo, lấy Luận tạng (A Tỳ Ðạt Ma) làm chân thực giáo. Sở dĩ Bộ này chủ trương “tùy nghi phúc thân” (có ba y hay không có ba y đều do đức Phật hứa khả), “tùy nghi ẩm thực” (ăn đúng thời hay ăn phi thời cũng đều do đức Phật cho phép), và “tùy nghi trụ xứ” (kiết giới hoặc không kiết giới đều không phải do đức Phật so đo hơn thiệt). Nhưng việc cần kíp phải là sớm loại trừ phiền não, đó mới là ý của đức Phật. Sinh hoạt của Bộ phái này là không quan tâm đến giáo điều, tự do nhưng nghiêm túc, tinh tấn dụng công trong tu trì, tích cực sửa cái sai của người. Chủ trương này đương thời tại Ấn Ðộ được xác nhận là trào lưu mới có tính tiến bộ và cách mệnh. Như vậy, quả như người tu hành không tinh tấn dụng công, mà chỉ nêu cao ba điểm - Tùy nghi phúc thân - Tùy nghi ẩm thực - Tùy nghi trụ xứ, do Bộ phái này chủ trương, có lẽ Phật giáo cuối cùng sẽ bị tiêu vong!

---o0o---

5. Ða Văn Bộ (Bàhusrutìyàh):

“Bộ Chấp Dị Luận” gọi Bộ này là “Ða Văn Ðắc Bộ” hàm nghĩa là bác học. Vị sư tổ của Bộ này là ngài La hán Tự Bì Y, tên gọi này trùng tên với nhân vật trung tâm trong Áo Nghĩa Thư, đó là Yajnõa - Valkya, có người dùng tư tưởng của Bộ này để tham khảo loại hình triết học của Áo Nghĩa Thư. Trong “Bộ Chấp Dị Luận Sớ” nói là: “Luận Thành Thực ra đời từ Bộ này, do đó, Thành Thực Luận có tham dự ý thú của Ðại thừa”. Nhưng theo sự giới thiệu của “Dị Bộ Tòng Luân Luận”, thì luận này không phát hiện thấy có áo nghĩa Ðại thừa nào trong Bộ phái này.

---o0o---

6. Thuyết Giả Bộ (Prajnõaptìvàdinàh):

Không tìm thấy tên của Bộ này trong “Văn Thù Sư Lợi Vấn Kinh” (Kathavatthu Datthakatha) do ngài Phật Âm (Buddhagghsa - còn dịch là Giáo Âm) trước tác cũng không thấy đề cập đến tên của Bộ này. “Thập Bát Bộ Luận”70 gọi Bộ này là Thi Thiết Luận Bộ. Còn “Bộ Chấp Dị Luận”, thì gọi Bộ này với tên Phân Biệt Thuyết Bộ, hoặc Phân Biệt Bộ. Ðây là Bộ lấy luận Thi Thiết Túc làm trung tâm tư tưởng. Ðối với “pháp” của “hiện tại”, Bộ này cho rằng hiện thực thế giới một mặt là “giả”, nhưng mặt khác lại là “chân”, tư tưởng chân và giả này đến thời của “Ðại Thừa Khởi Tín Luận” nó trở thành thế giới quan chơn vọng lưỡng diện của Ðại thừa. “Duy Thức Thuật Ký” của Khuy Cơ thì cho rằng: “Nay Thuyết Giả Bộ, nói về “Hữu phần thức”, thể của nó thường hằng bất đoạn, chu biến khắp tam giới, làm nhân cho tam hữu”. Quả như Bộ này thực sự có nói đến “Hữu phần thức”, và như vậy có thể nói tư tưởng về A Lại Da thức của Ðại thừa được triển khai là từ “Hữu phần thức” này đây.

---o0o---

7. Chế Ða Sơn Bộ (Caitysailàh).

8. Bắc Sơn Trụ Bộ (Uttarasailàh).

9. Tây Sơn Trụ Bộ (Aprasailàh).

Ba bộ (7, 8, 9) này được phân xuất từ Ðại Chúng Bộ vào thời kỳ sau cùng. Theo Tông Luân Luận Thuật Ký, thì sau Phật nhập diệt tròn hai trăm năm, có ngoại đạo tên là Ðại Thiên xin xuất gia với Ðại Chúng Bộ, và rồi ông này cùng với tăng thân của Ðại Chúng Bộ một lần nữa lại nói về Ngũ Sự. Nhân đó gây nên cuộc tranh luận trái nghịch nhau đưa đến việc phân chia thành ba Bộ. Vì lập lại vấn đề Ngũ Sự mà đi đến phân chia, nhưng sau việc này Ðại Thiên liền về phương nam hoằng hóa trong vòng mười năm, các học giả Ðại Chúng Bộ vin vào “Ðại Thiên Ngũ Sự” mà tranh luận nên có khả năng vì tư tưởng và trụ xứ bị cách ly, nhân đấy mới phân chia thành một số Bộ phái. Theo Bộ Chấp Dị Luận, phân chia lần này thành hai Bộ là Chi Ðề Sơn (tức Chế Ða Sơn) Bộ và Bắc Sơn Trụ Bộ. Trong khi Văn Thù Sư Lợi Vấn Kinh thì cho rằng lần phân chia này được chia thành hai Bộ là Ðông Sơn Bộ và Bắc Sơn Bộ. Còn ngài Phật Âm viết trong bộ “Luận Sự Chú”, thì lần phân chia này chia thành bốn Bộ là: Ðông Sơn Bộ, Tây Sơn Bộ, Vương Sơn Bộ và Nghĩa Thành Sơn Bộ, tất cả đều thuộc về Án Ðạt La phái. Ngài Huyền Trang viết trong Ðại Ðường Tây Vực Ký là ở núi phía đông và núi phía tây của thành lớn Án Ðạt La có hai ngôi cổ tự xưa kia thuộc về Ðại Chúng Bộ.

Vậy Án Ðạt La là xứ nào? Vấn đề này cần khảo sát về vị trí núi Chi Ðề “Quốc Dịch Ðại Tạng Kinh” của Nhật Bản, quyển ba ở phần luận Bộ có phụ đính chép: Án Ðạt La nằm tại ranh giới giữa sông Cát Tư Ðặt Na (Kistna R) của thành phố Biệt Khắc Sĩ Vi Ðà (Bexvada) nhìn qua núi Chi Ðề. Xứ Án Ðạt La ở đây là chỉ sông Ca Ðạt Nghĩa Lý (Godavari R) thuộc nam Ấn Ðộ, nó bao quát cả địa khu phía bắc sông Cát Tự Ðặt Na. Tại đây người dân địa phương đã có nền văn hóa và tín ngưỡng mang tính đặc thù, Phật giáo Ðại Chúng Bộ bị huân nhiễm nền văn hóa, tín ngưỡng của dân địa phương nên lại phân chia lần nữa, rất có khả năng như vậy. Dạ Xoa La Sát của phái Thấp Bà thuộc Bà La Môn giáo, đều là sản vật của dân tộc ở nam Ấn Ðộ. Trong các tượng thần của phái Thấp Bà có cảnh phu thê ôm nhau giao hợp, và mãi tận ngày nay Ấn Ðộ giáo vẫn còn sùng bái cơ quan sinh dục của kẻ nam người nữ. Ðến Mật giáo Ðại thừa mới xuất hiện tình hình lấy chuyện nam nữ tính giao làm pháp môn tu trì. Sau này phái Án Ðạt La của Ðại Chúng Bộ “tan biến” vào Ðại thừa Phật giáo. Sự xuất hiện của Ðại thừa trong thời sơ kỳ là tại nam Ấn Ðộ. Mật giáo Ðại thừa cũng nói là do “Khai nam thiên trúc thiết tháp” mà có.

---o0o---


II. MƯỜI MỘT BỘ THUỘC THƯỢNG TỌA BỘ

Sự phân phái sớm nhất của Thượng Tọa Bộ, đó là sự ra đời của Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ. Về lý thuyết thì Thượng Tọa Bộ là Bộ căn bản, nhưng vì kiến giải bất đồng nên Hữu Bộ mới ly khai khỏi cựu xứ, chuyển đến dưới chân núi Tuyết, thành lập Tuyết Sơn Bộ, vì thế, liên kết Tuyết Sơn Bộ với mười một Bộ của Thượng Tọa Bộ mới đủ danh mục mười hai Bộ, xin giới thiệu mười một Bộ có tư liệu như sau:



1. Tuyết Sơn Bộ (Haimavatàh):

“Thập Bát Bộ Luận”71 gọi Bộ này là “Tiên Thượng Tọa Bộ”, trong khi “Bộ Chấp Dị Luận” thì gọi Bộ này là “Thượng Tọa Ðệ Tử Bộ” còn “Dị Bộ Tông Luân Luận” gọi Bộ này với tên “Bản Thượng Tọa Bộ”. Tông nghĩa của Tuyết Sơn Bộ đa phần tương phản với Nhất Thiết Hữu Bộ, nhưng lại tiếp cận và nghiêng về Ðại Chúng Bộ, quan tâm đến Ðại Thiên Ngũ Sự, tức theo như cách của Ðại Chúng Bộ. Lại nữa, Bộ này chủ trương không có “trung hữu” nên cùng nhất trí với Ðại Chúng Bộ; Nhất Thiết Hữu Bộ tin là hữu tình chúng sinh ở cõi “dục sắc” giới nhất định có “trung hữu”. Nhân chủ trương như vừa nêu, nên Ðại Sử được truyền bởi Ðại Chúng Bộ và Phân Biệt Thuyết Bộ, cho rằng Tuyết Sơn Bộ là Bộ phái sau cùng của Ðại Chúng Bộ. Theo pháp sư Ấn Thuận thì nên liệt Tuyết Sơn Bộ vào Hữu Bộ.

---o0o---

2. Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ (Sarvàstivàdàh):

Ðây là Bộ mà hệ tư tưởng rất nghiêm chỉnh và quảng bác. Xin giới thiệu Bộ này ở một tiết riêng.

---o0o---

3. Ðộc Tử Bộ (Vàsìpurìyàh):

“Dị Chấp Bộ Luận” gọi Bộ này là “Khả Trú Ðệ Tử Bộ”, trong khi Duy Thức Thuật Ký” gọi Bộ bày với tên “Bá Thư Tử Bộ”. Ðây là Bộ kế thừa tư tưởng “Xá Lợi Phất A Tỳ Ðàm”, tuy tư tưởng trong “Xá Lợi Phất A Tỳ Ðàm” còn có chỗ cần bổ sung thêm mới giải thích được, và cũng do sở kiến bất đồng nên lại phân chia. Ðộc Tử Bộ dù được phân xuất từ Thượng Tọa Bộ, nhưng chịu ảnh hưởng rất đậm giáo nghĩa của Ðại Chúng Bộ, do vậy nên có một số học giả cho rằng ngài Xá Lợi Phất là người có tư tưởng Ðại thừa; lại cũng do Ðộc Tử Bộ lấy “Như Lai nhất đại giáo pháp” (một đời thuyết giảng giáo pháp của đức Phật) chia làm năm tạng, đó là: Quá khứ, hiện tại, vị lai (cả ba đều là pháp hữu vi), vô vi (vô vi pháp), và bất khả thuyết (tức chỉ cái Ngã phi thức phi ly uẩn), “Bất khả thuyết tạng” trong năm tạng vừa nêu của Ðộc Tử Bộ, nó phảng phất giống “Như Lai Tạng” của Ðại thừa. Ðộc Tử Bộ lấy “Bất khả thuyết tạng” - tức phi tức phi ly uẩn ngã 72 - làm trung tâm của bản thể luận nhằm bác bỏ “tức uẩn ngã” của phàm phu, và “ly uẩn ngã” làm bản thể của các pháp. Nhân đấy, mà chỉ riêng “bất khả thuyết tạng” của Ðộc Tử Bộ là tương tự tư tưởng A Lại Da thức của Ðại thừa. Nhưng Bộ này lại cho rằng có một “cái ngã” làm bản thể cho tất cả các pháp. Do vậy, trong Hoa Nghiêm Huyền Ðàm quyển tám, quốc sư Thanh Lương bình rằng: “phụ Phật pháp ngoại đạo” (ngoại đạo nương Phật pháp). Kỳ thực thì tư tưởng “phi tức phi ly uẩn ngã” vẫn chưa bắt kịp lĩnh vực Như Lai Tạng và A Lại Da thức, nó chỉ tiên phong mở đường cho tư tưởng Duy thức của Ðại thừa mà thôi.

---o0o---

4. Pháp Thượng Bộ (Dharmottarìyàh):

“Văn Thù Sư Lợi Vấn Kinh: Gọi Bộ này là Pháp Thắng Bộ. Còn “ Thập Bát Bộ Luận” thì dịch tên Bộ này ra âm Hán ngữ là Ðạt Ma Uất Ða Lê Bộ.

---o0o---

5. Hiền Trụ Bộ (Bhadrayànìyàh):

“Văn Thù Sư Lợi Vấn Kinh” gọi Bộ này với tên là Hiền Bộ. Còn “Thập Bát Bộ Luận” thì dịch Bộ này ra âm Hán ngữ là Bạt Ða La Da Ni Bộ, và “Bộ Chấp Dị Luận” gọi Bộ này là Hiền Thừa Bộ.

---o0o---

6. Chánh Lượng Bộ (Sammitiyàh):

Bộ phái này rất thịnh hành trong số bốn Bộ phái được lưu xuất từ Ðộc Tử Bộ. “Văn Thù Sư Lợi Vấn Kinh” gọi Bộ này là Nhất Thiết Sở Quí Bộ. “Thập Bát Bộ Luận” thì dịch âm là Tam Di Ðể Bộ, và “Bộ Chấp Dị Luận” gọi Bộ này là Chánh Lượng Ðệ Tử Bộ. Trong “Tông Luân Luận Thuật Ký: ngài Khuy Cơ nói là: “Chỗ lập tông của Bộ này với pháp nghĩa thậm thâm, sửa mọi sai sót không cho cong queo, nên xưng là Chánh Lượng, dựa vào chỗ lập pháp nghĩa, lấy đó làm sáng danh của Bộ”.

Năm 432 sau Công nguyên, ngài Phật Âm từ Ấn Ðộ đến Tích Lan để tuyển soạn bộ Luận Sự Chú bằng văn tự Ba Lị, thì thấy Chánh Lượng Bộ đã lưu hành tại Tích Lan. Ðại Ðường Tây Vực Ký của Huyền Trang cũng cho biết khi ông đến lưu học tại Ấn Ðộ 73, thì thời ấy Chánh Lượng Bộ vẫn còn lưu hành ở trung Ấn, nam Ấn và tây Ấn, đông Ấn cũng có nhưng không thịnh bằng ba khu vực kia. Ít lâu sau, trong Nam Hải Ký Qui Nội Pháp Truyện của Nghĩa Tịnh 74 cũng có nói đến việc Chánh Lượng Bộ vẫn còn Tam tạng với ba mươi vạn bài tụng, và thêm rằng thời ấy Chánh Lượng Bộ lưu hành rất thịnh ở các địa phương như La Ðồ, Tín Ðộ, thuộc tây Ấn Ðộ. Tại Ma Kiệt Ðà và các châu nam hải cũng còn một bộ phận nhỏ của Chánh Lượng truyền tại đấy. Ðáng tiếc là tư liệu hiện còn nói về mối liên hệ giữa bốn Bộ thuộc Ðộc Tử Bộ là quá ít. Không rõ ai là người biên soạn giáo nghĩa của Chánh Lượng Bộ, và ai đã dịch”Tam Di Ðể Bộ Luận”75 - gồm ba quyển ra Hán văn. Chánh Lượng Bộ cũng luận về hữu ngã, và tương đồng với Ðộc Tử Bộ. Chỉ có điều Chánh Lượng Bộ là phái cuối cùng nối tiếp tư tưởng của Ðại Chúng Bộ. Ðó là lấy tư tưởng về “sắc pháp tạm trụ” như đại địa, mạng căn v.v... rồi có thêm sự phân tích, đem sinh diệt quan về sắc pháp chia thành hai loại:

1. Tâm tâm sở, thanh quang v.v... cho vào loại sát na diệt;

2. Thân biểu sắc nghiệp, bất tương ưng hành, thân sơn tân, v.v... cho vào loại nhất kỳ diệt. “Sinh diệt quan” về sắc pháp của Chánh Lượng Bộ nếu sánh với triết học tây phương, thì “sinh diệt quan” tựa giống như “thực chứng luận hiện thực” hoặc “Kinh nghiệm luận”.

7. Mật Lâm Sơn Bộ (Sannàgarihàh):

“Văn Thù Sư Lợi Vấn Kinh” gọi Bộ này là Nãi Sơn Bộ, Thập Bát Bộ Luận 76 là Lục Thành Bộ, và Bộ Chấp Dị Luận gọi Bộ này với tên là Mật Lâm Trụ Bộ.

Pháp Thượng, HIền Trụ, Chánh Lượng, Mật Lâm Sơn Bộ, tư liệu về bốn Bộ này hiện còn rất ít và thiếu. Dị Bộ Tông Luân Luận cho rằng, đối với một bài kệ mà cả bốn bộ vừa nêu có sự giải thích không đồng nhất, đó là lúc Ðộc Tử Bộ đã phân thành bốn Bộ, bài kệ như thế này: “Ðã giải thoát mà vẫn đọa, đọa ấy là do quay lại tham, ai được vui an vui, tùy an vui đạt đến cực vui”. (Dĩ giải thoát cánh đọa, đọa do tham phục hoàn, hoạch an hỷ sở lạc, tùy lạc hành chí lạc). Ðể hiểu việc giải thích bài kệ trên một cách khác nhau, xin tham khảo Tông Luân Luận Thuật Ký 77. Tuy nhiên, giáo nghĩa của Ðộc Tử Bộ hiện còn cũng không thấy có bài tụng vừa nêu. Ngay cả “Xá Lợi Phất A Tỳ Ðàm” cũng không thấy có bài tụng trên.

---o0o---

8. Hóa Ðịa Bộ (Mahìsàsakàh):

Ðây là Bộ truyền “Tứ phần luật” của Di Sa Tắc Bộ. Dị Bộ Tông Luân Luận của Bắc truyền cho rằng Hóa Ðịa Bộ được phân xuất từ Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ. Còn “Ðại Sử” của Nam truyền thì cho rằng, Hóa Ðịa Bộ là một hệ của Phân Biệt Thuyết thuộc Thượng Tọa Bộ. Hệ này cùng với Ẩm Quang Bộ, Pháp Tạng Bộ và Ðồng Diệp Bộ, cả ba đều cùng một hệ. “Văn Thù Sư Lợi Vấn Kinh” gọi Bộ này là Ðại Bất Khả Khí Bộ, và Thập Bát Bộ Luận thì gọi Bộ này với tên Di Sa Bộ, trong khi Bộ Chấp Dị Luận gọi Bộ này Chánh Ðịa Bộ. Ngoài ra Hóa Ðịa Bộ còn có các tên khác như: Giáo Ðịa, Di Hi Xá Bà Ấp, Ma Hê Xa Ba Ca, Di Hi Xã Bà Ha, tất cả danh xưng này được dùng để chỉ cho Chánh Ðịa Bộ. “Xuất Tam Tạng Ký Tập” quyển ba 78 nói: “Các vị đệ tử Phật thọ trì mười hai bộ kinh nhưng không quan tâm xem đó là địa tướng, thủy tướng, hỏa tướng, phong tướng, hư không tướng hay thức tướng, vì vậy cho nên gọi là Di Sa Tắc Bộ. Tư tưởng của Bộ Di Sa Tắc đồng nghĩa với tông gốc là Thượng Tọa Bộ; nhưng hơi giống với Ðại Chúng Bộ, tông sau rốt thì hoàn toàn dị nghĩa với Thượng Tọa Bộ, vì nó kế thừa Nhất Thiết Hữu Bộ. Theo Thành Duy Thức Luận quyển ba nói là, “Cùng sinh tử uẩn thức” của Hóa Ðịa Bộ tương đương với thức A Lại Da thứ tám. Còn Vô Tánh Nhiếp Luận quyển hai lại nói, Hóa Ðịa Bộ nói có ba uẩn:

1. Nhất niệm khoảnh uẩn (pháp sinh diệt xảy ra trong từng sát na).

2. Nhất kỳ sinh uẩn (pháp hằng tùy chuyển ngay cả khi chết).

3. Cùng sinh tử uẩn (pháp hằng tùy chuyển ngay cả lúc nhập vào định Kim Cang Dụ). Nhờ đó mới biết Cùng sinh tử uẩn thức nó tương tợ như thức thứ tám A Lại Da của Ðại thừa. Bản thể luận của Bộ này lập ra thuyết Chín vô vi. Chín vô vi là nhờ tiếp thụ tư tưởng chín vô vi của Ðại Chúng Bộ soi rọi mà lập thành. Trong chín vô vi có Thiện pháp chân như vô vi, Bát thiện pháp chân như vô vi, và Vô ký pháp chân vô vi, là khác với Ðại Chúng Bộ; tư tưởng thiện, bất thiện, vô ký, ba tính chân như này tương tợ tư tưởng Nhất thiết như như của Ðại thừa; ba tính chân như này cộng với Bất động vô vi là bốn khoảnh đều khác nhau với Ðại Chúng Bộ. Biết rằng do sự quá độ của Ðại Chúng Bộ mới tiến đến Duy thức Ðại thừa. Nó làm cầu nối để chỉnh lý tư tưởng về sáu thứ vô vi. Dị Bộ Tông Luân Luận 79 cho rằng, Hóa Ðịa Bộ chủ trương: “Phật với hàng nhị thừa, giai đồng nhất đạo, đồng nhất giải thoát”. Chữ “đồng” ở đây có ý tợ như thuyết bản thể chân trí và vô sai biệt. Hóa Ðịa Bộ còn có chủ trương: “trong tăng có Phật, cho nên cúng tăng cũng có kết quả lớn, không phải cúng Phật nào khác”. Ðến tông sau rốt của Bộ này lại cho rằng cúng dường Tốt Ðổ Ba (Phật tháp), công đức đạt được rất ít. Ðiều này khiến không thể không nghĩ đến Hóa Ðịa Bộ đã có tư tưởng tiền thân của Ðại thừa khi cho rằng “chúng ta tức là Phật” (con người đều có thể là nhân địa của Phật).

---o0o---



9. Pháp Tạng Bộ (Dharmaguptàh)

Văn Thù Sư Lợi Vấn Kinh gọi Bộ này là Pháp Hộ Bộ, Thập Bát Bộ Luận thì dịch tên bộ này ra âm Hán ngữ là Ðàm Vô Ðức Bộ, Tam Luận Huyền Nghãi của Gia Tường thì lấy Pháp Hộ làm tên người, vì Pháp Hộ là đệ tử của Mục Liên. Mục Liên ở đây không phải là ngài đại Mục Kiền Liên thần thông đệ nhất vào thời đức Phật còn tại thế, mà là ngài Mục Kiền Liên Tử Ðế Tu sống dưới thời vua A Dục. Ngài là người được truyền xưng là vị chủ trì cho lần kết tập thứ ba. Ưu Bà Quật Ða (Upagupta) của Bắc truyền cũng là vị này, và Ðàm Vô Ðức là đệ tử của Upuguta. Theo Tông Luân Luận Thuật Ký và Nghĩa Lâm - Chương của Khuy Cơ, thì Bộ này có “Ngũ tạng thuyết” là: Kinh, Luật, Ðối pháp (A Tỳ Ðạt Ma), Minh Chú, Bồ tát; Bồ tát tạng của Pháp Tạng Bộ là lấy Tạp Tạng của Ðại Chúng Bộ mà cải biên thành. Kỳ dư bốn tạng còn lại đa phần giống Ðại Chúng Bộ. Pháp Hộ Bộ trọng Minh Chú tạng (Mantra) và Bồ tát tạng (Bodhisattva Pitaka), đặc biệt điều đó mở ra manh mối của Ðại thừa Mật giáo sau này. Nhật Bản đông mật cho rằng Ðạt Ma Cúc Ða là biệt danh của Long Trí Bồ tát; nhưng với Phạn ngữ, thị Ðạt Ma Cúc Ða cùng Pháp Tạng Bộ Chủ Dharma Gupta (Pháp Tạng) là tương đồng. Mật tông của ngài Long Trí, hoặc chẳng phải đó là Pháp Tạng Bộ Chủ, nhưng cũng không phải là không có ngọn nguồn. Tứ Phần Luật của bản Hán dịch được lưu xuất từ Bộ này. Pháp Tạng Bộ thừa kế và hấp thụ tư tưởng của Ðại Chúng Bộ rất nhiều. Cũng vì thế mà “Thông Lộ Ký” của Nhật Bản, ngang nhiên đưa pháp Tạng Bộ vào thành một hệ của Ðại Chúng Bộ. Suy cứu tường tận, thì Pháp Tạng Bộ thuộc hệ Phân Biệt Thuyết của Thượng Tọa Bộ.

---o0o---

10. Ẩm Quang Bộ (Kàsyapìyàh):

Văn Thù Sư Lợi Vấn Kinh gọi Bộ này là Ca Diếp Tỉ Bộ, còn Thập Bát Bộ Luận thì gọi Bộ này với tên là Ưu Lê Sa Bộ, trong khi Bộ Chấp Dị Luận gọi Bộ này là Thiện Tạng Bộ, hoăc Ẩm Quang Ðệ Tử Bộ. Ngoài ra Bộ này còn có các tên gọi như: Ca Diếp Duy Bộ, Ca Diếp Di Bộ v.v... Tóm lại, đấy là lấy tên của Bộ chủ để đăt tên Bộ. Theo “Quốc Dịch Ðại Tạng Kinh” của Nhật Bản, luận bộ thứ năm mươi hai viết về lịch sử phân phái và lịch sử kết tập, thì Ẩm Quang Bộ có khả năng do ngài Ca Diếp Duy dưới thời vua A Dục được phái đến địa phương Tuyết Sơn để hoằng hóa, nhân đó mà hưng khởi thành một phái. Pháp sư Ấn Thuận viết trong cuốn “Phật giáo Ấn Ðộ”, ở chương sáu, tiết ba, trang 118, nói là Ẩm Quang Bộ, Hóa Ðịa Bộ, Pháp Tạng Bộ, lúc hành hóa tại lục địa Ấn Ðộ, đối với Thánh điển các Bộ này có nhiều “cảii tác”. Các Bộ vừa nêu cùng với Ða Văn Bộ, Thuyết Giả Bộ của Ðại Chúng Bộ có cùng tác phong; hoặc các bộ này có dung nạp yếu tố Vệ Ðà rồi tôn lên và cho là do Phật thuyết; hoặc là các Bộ trên suy ngưỡng ngài Ðại Mục Kiền Liên thần thông đệ nhất ở thời đức Phật còn tại thế, rồi lấy ngài làm chứng thực cho tính khả tín của Minh chú của Bộ phái mình, hoặc các Bộ trên làm vậy (tức cải tác) là nhằm để phá ngoại đạo, và để tranh luận trong nội bộ nên có sự tuyển tập riêng.

---o0o---

11. Kinh Lượng Bộ (Sautràntikàh):

Bộ Chấp Dị Luận gọi Bộ này là Thuyết Ðộ Bộ, hoặc Thuyết Kinh Bộ, còn Thập Bát Bộ Luận gọi Bộ này là Tăng Ca Lan Ða, hoặc Tu Ða La Luận, trong khi Chánh Lượng Bộ thì truyền xưng Bộ này là Sư Trưởng Bộ, duy có điều trong truyền bá, các Bộ đều cho rằng Kinh Lượng Bộ được phân xuất từ Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ, Thuyết Bộ Ðộ tên tiếng Phạn là Saimkhantika (Chuyển di) và Vàda (có nghĩa là thuyết). Do đó, nên Ðại Sử của Nam truyền cho rằng Kinh Lượng Bộ được lưu xuất từ Thuyết Chuyển Bộ. Thực thì Thuyết Kinh hay Thuyết Chuyển là hai cách gọi mang tính bản mạt (gốc - ngọn) của Kinh Lượng Bộ. Kinh Lượng Bộ được lưu xuất từ Hữu Bộ, nhưng chịu ảnh hưởng của Ðại Chúng Bộ, do đó, đối với tư tưởng Hữu Bộ, Kinh Lượng Bộ có lập trường phê phán và tham cứu.

Sau này tư tưởng Duy thức của Ðại thừa phần nhiều được lưu xuất từ Kinh Bộ. Chẳng hạn như thuyết tâm sắc hổ huân của chủng tử, theo Kinh Lượng Bộ, vì là “chủng tử tằng phú”80 nên phải nói ba đời. “Ðạo lý ba đời” của Duy thức tuy đọc thấy trong Luận Du Già Sư Ðịa quyển 51 81, nhưng luận sư Cưu Ma La Cúc Ða của Kinh Lượng Bộ đã là tiên triệu của tư tưởng này. Lại nữa, như thuyết “Tế Ý Thức của Kinh Lượng Bộ cho rằng “Diệt định tế tâm bất diệt” (nhập vào định diệt tận nhưng tế tâm không diệt). “Chấp vô tưởng định tế t tâm bất diệt”. Ðấy chính là tư tưởng tiền thân của căn bản thức thứ tám là A Lại Da thức. Mặc dù vậy, nhưng Kinh Lượng Bộ vẫn thuộc về hệ Tiểu thừa. Thuyết sắc tâm hỗ huân của Kinh Lượng Bộ thuộc nhị nguyên luận, trong khi Duy thức gia chủ trương (vạn pháp bất ly thức) (vạn pháp không thể không liên hệ đến thức), và đây là nhất nguyên luận. Do “tế tâm thức” của Cưu Ma La Cúc Ða mới tiến đến thắng nghĩa ngã (thắng nghĩa ngã bổ đặc già la) của Thất Lợi La Ða. “Chân thực ngã” vi tế và không thể thi thiết được tướng trạng của nó. Ðại khái, có thể hiểu tế tâm thức, thắng nghĩa ngã cũng là chấp ngã chấp pháp. Vì vậy Kinh Lượng Bộ vẫn là Tiểu thừa. Nhưng cũng nhờ đó mà tiến thêm một bước, đó là thuộc tướng vô ngã của Ðại thừa. Cho nên “thắng nghĩa ngã” có cái nghĩa là thường trụ bất biến. Ðấy là tư tưởng tiền thân của “chơn thường duy tâm” của Ðại thừa.

---o0o---


CHƯƠNG VI. GIÁO NGHĨA CỦA ÐẠI CHÚNG BỘ VÀ HỮU BỘ

TIẾT I. HAI BỘ PHÁI CĂN BẢN


- Tính chất đặc biệt của hai Bộ.

Dưới thời vua A Dục, Phật giáo truyền từ Ấn Ðộ hướng về nam Ấn Ðộ để phát triển, đấy là hướng phát triển của Ðại Chúng Bộ, và lấy nhân vật Ðại Thiên làm trung tâm. Từ trung Ấn Ðộ hướng về tây Ấn và bắc Ấn Ðộ để phát triển, thì đó là “chân thực ngã”, “tế tâm thức”, “thắng nghĩa ngã” đồng dạng hướng phát triển của Thượng Tọa Bộ. Có khả năng Thượng Tọa Bộ lấy ngài Mạt Lan Ðề làm nhân vật trung tâm. Bấy giờ Ðại Chúng Bộ ở phương nam từ một “vị” (mùi vị) phân thành ba, thậm chí Ðại Chúng Bộ từ từ mất hút vào Ðại thừa Phật giáo vào thời trung thời, sở dĩ vậy là do thế lực vương triều phía nam hướng về phía bắc mà tiến phát; trong khi đó Phật giáo Thượng Tọa Bộ ở tây bắc Ấn Ðộ chỉ thuần “nhất vị”, nhưng lại chịu sự kích động mãnh liệt của tư trào tư tưởng mới, nên nội bộ phát sinh phân biệt. Sau những lần phân biệt, chỉ có Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ là bộ phái sau cùng cố bảo trì tư tưởng căn bản của Thượng Tọa Bộ.

 Sự phát triển của Ðại Chúng Bộ luôn coi trọng tinh thần căn bản của đức Phật, nhưng luôn phải thích nghi với yêu cầu cơ bản đó là tự do tư tưởng và phù hợp với nếp sinh hoạt thực tế của xã hội nhân sinh. Do đó, một mặt họ lý tưởng hóa xu hướng giải thoát theo quan niệm của đức Phật, mặt khác họ nhân gian hóa theo yêu cầu hiện thực của mọi sinh hoạt đời thường. Tương phản với Ðại Chúng Bộ, Thượng Tọa Bộ một mực bảo trì kinh nghĩa nguyên thỉ. Yêu cầu cơ bản của Thượng Tọa Bộ là, đối với những sớ giải chỉnh lý kinh, luật phải sao cho một mặt bảo trì quan niệm của đức Phật dù là nhân gian hóa; mặt khác đối với những sinh hoạt mang tiếng hiện thực có xu hướng “học cứu hóa” (tức học thuật và nghiên cứu).

Những khác biệt vừa nêu, khiến Ðại Chúng Bộ sau rốt trở thành Ðại Thừa Phật giáo và rất thịnh hành. Ðiển tịch của Ðại Chúng Bộ lưu lại, hiện chỉ có mỗi một bộ đó là bộ “Ðại Sự Kinh”. Có thuyết cho rằng Ðại Chúng Bộ về sau được truyền bởi Thuyết Xuất Thế Bộ; tuy nhiên luận điểm của Bộ này một quyển cũng không còn.

Cần hiểu rằng tư tưởng của Ðại Chúng Bộ vẫn còn hơi hướng của Hữu Bộ và các Bộ khác, trong đó nhiều nhất là điển tịch của hệ Thượng Tọa. Ngay cả Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ cũng lấy “Phát Trí Luận” của Thượng Tọa Bộ làm đầu mối cho bảy bộ luận của họ. Lần kết tập thứ tư dưới thời gian vua Ca Nị Sắc Ca có xuất hiện một bộ “Ðại Tỳ Bà Sa Luận” với hai trăm quyển, nhưng đấy cũng chỉ là sự gom góp từ những luận thư của Hữu Bộ mà đại thành.

Ðối với kinh nghĩa, Hữu Bộ có sự sớ thích và điều lý. Cũng thế, đối với luật nghi, Hữu Bộ nỗ lực phát huy, cũng có những việc Hữu Bộ đạt được thành tích vượt quá giới hạn của một bộ phái: đầu tiên là ở Ma Thâu La thuộc tây bắc Ấn Ðộ, có luật Thập Tụng gồm sáu mươi quyển của Hữu Bộ, luật này được giải thích bởi Luận Tát Bà Ða, tiếp đến là luật Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ (lược xưng là Hữu Bộ), với năm mươi quyển, xuất hiện tại nước Ca Thấp Di La cũng thuộc tây bắc Ấn Ðộ. Những luật thư của Hữu Bộ được Nghĩa Tịnh của Tung Quốc dịch ra Hán văn gồm mười tám chủng loại, với một trăm chín mươi tám (198) quyển. Cũng có một bộ phận của “Hữu Bộ Luật” được dịch ra Tạng văn và truyền thụ ở Tây Tạng.

Chính các nhân việc nghiên cứu, học tập quá nồng nhiệt của các học giả Hữu Bộ đã làm cho Phật giáo tách khỏi đời sống nhân gian, và việc tu đạo của họ trái chiều với thực tiễn đời thường. Theo họ, học Phật là để biết Phật dạy những gì; muốn vậy thì cần phải xuất gia, suốt đời ở trong tự viện, để nghiên cứu, suy ngẫm một cách thấu đáo tường tận những luận thư, thánh điển. Ðấy là điều không dễ để người đời tiếp cận Phật giáo, trong khi đó các học giả Phật giáo với chủ trương này chỉ nhằm nhu cầu tu giải thoát tự ngã cho chính mình. Nhân đó, mà sau này họ bị học giả Phật giáo với chủ trương này chỉ nhằm cầu tu giải thoát cho chính mình. Nhân đó, mà sau này họ bị học giả Phật giáo Ðại thừa gọi biếm họ là đối tượng Tiểu thừa chỉ biết cầu giải thoát cho riêng mình.

---o0o---



- Hiện Tượng Luận.

Hiện tượng luận là sự quan sát những hoạt động của vạn hữu. Ðại Chúng Bộ chủ trương “hiện tại hữu thể, quá khứ, vị lai vô thể”, trong khi Hữu Bộ chủ trương “tam thế thực hữu, pháp thể hằng hữu”. Như nói tam thế là gồm: quá khứ, hiện tại, vị lai. Ðồng dạng với chủ trương này là sự biến dịch của vạn hữu tùy vào ba vị trí: quá khứ, hiện tại và vị lai mà quan sát. Ðại Chúng Bộ chỉ thừa nhận hiện tại là thực hữu, còn quá khứ thì đã qua rồi, và vị lai thì chưa xuất hiện, nhân đó cho rằng quá khứ và vị lai là do được suy định từ pháp hiện tại mà có. Với một sát na hiện tiền trước mắt, gọi đó là pháp hiện tại, điều này cho thấy tính tồn tại chủ quan ở hiện tại. Quá khứ, vị lai là pháp khách quan, nhưng không thể ly khai nhận thức chủ quan để tồn tại. Vì thế mà nói “quá khứ, vị lai là vô thể, chỉ hiện tại mới hữu thể”. Ðấy là nền tảng của tư tưởng “duyên khởi quan”. Tư tưởng này cho rằng việc tồn tại của tam thế là không có thực tánh độc lập, vì là pháp hiện tại vĩnh viễn sẽ trở thành quá khứ, nhưng cũng là tiến đến tương lai, tuy chỉ tạm trú trong quan niệm ở sát na hiện tại. Do đó, nên gọi là “sắc pháp tạm trú”.

Như Hữu Bộ được gọi là Hữu Bộ, theo Bộ Chấp Dị Luận Sớ thì: “thuyết của Bộ này cho rằng tất cả đều có, nên nhân đó mà gọi tên”. Chủ yếu là do chủ trương “tam thế thực hữu, pháp thể hằng hữu”. Có người cho rằng Hữu Bộ do chịu ảnh hưởng phương pháp tư duy triết học của giới ngoại đạo để nhằm hoàn thành hệ giáo lý. Có người nói”hữu” của Hữu Bộ là “hữu” của Thực tại luận. Có người lấy “Thực hữu” “hằng hữu” của Hữu Bộ và cho rằng đó là “vật chất (có khả năng) bất diệt” và “thế lực hằng tồn”. Có người lại cho rằng “hữu” của Hữu Bộ là nền để khai triển giáo nghĩa nguyên thỉ ấy là “chư hành vô thường”. Nhưng vô thường, vô ngã phải thông qua biểu hiện cụ thể hoặc lâu dài. Quan niệm “thực hữu” này tương tự với khuynh hướng triết học thực tồn (Existenti al philosophy) của thời nay. Vì “tam thế” là nội dung của một sát na hiện tại. Quan niệm này được người ta ví von: “hiện tại mà quá khứ là nhi nữ, và tương lai là phụ mẫu”, tuy dù một sát na hiện tại không phải là quá khứ. Cũng chẳng phải tương lai, nhưng hiện tại là sự kế tục của quá khứ và khởi đầu của vị lai. Vì vậy nên mới “tam thế thực hữu” tất cả mọi hiện tượng, mọi sự việc đều chịu sự biến hóa sinh diệt trong một sát na, sát na trước khác sát na sau; vô số “sự tượng” tại mỗi nhất sát na là không giống nhau, như vậy chỉ một pháp (sự tượng) cũng đủ để kiến lập vô số pháp thể, mỗi mỗi vô số pháp thể không pháp thể nào là không kinh qua quá khứ, hiện tại và vị lai của tam thế. Tam thế chỉ là thực hữu, khi mỗi mỗi “pháp thể” tất nhiên phải là “hằng hữu”. Nhưng một khi pháp thể làm cho “sắc” (sự tượng = hiện tượng) có khả năng trở thành tự tướng của chính nó, mà như vậy thì tự tướng ấy phải luôn luôn lúc nào cũng xuất hiện ở hiện tại để tự làm đầy đủ cho riêng mình. Vì thế pháp thể hằng hữu là chỉ cho giá trị tự tướng của mỗi nhất sát na theo thứ lớp, chứ không phải là “thường hữu” theo thứ tự thời gian. Pháp đã là vô thường thì tất nhiên cũng vô ngã.

Như vậy đủ thấy lập luận của Ðại Chúng Bộ đặt nền tảng trên duyên khởi quan, Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ lấy vô thường, vô ngã làm nền tảng để phát triển, tuy lý niệm được khai xuất có bất đồng, nhưng cơ bản ban đầu đều khởi từ di giáo của đức Phật.

---o0o---

- Bản Thể Luận.

Truy cứu về hiện tượng luận căn bản là vì bản thể luận. Bản thể luận của Ðại Chúng Bộ là”Vô vi pháp luận”. Lấy tất cả các pháp chia thành hai loại là: hữu vi pháp và vô vi pháp, điều này Ðại Chúng Bộ và Thượng Tọa Bộ đều nhất trí, nhưng nội dung thành lập của mỗi bộ có phần khác nhau. Vô vi của Thượng Tọa Bộ đều hoàn toàn bị rơi vào trạng thái hư vô, mang tính tiêu cực hoặc phủ định; trong khi Ðại Chúng Bộ thì cho rằng “vô vi” có năng lực sinh khởi vạn pháp (vì vậy nó là tiền thân của duyên khởi như vô vi của Hóa Ðịa Bộ), nó qui định phép tắc và cơ sở của hữu vi pháp, nó mang tính tích cực hoặc khẳng định.



Ðể làm rõ thêm chủ trương của Ðại Chúng Bộ và Thượng Tọa Bộ, cũng như sự sai biệt của các hệ phái với vô vi pháp như thế nào; xin liệt kê thành biểu đồ sau:

 
Biểu đồ trên giúp chúng ta hiểu: bản thể luận của vô vi pháp đối với hệ Thượng Tọa Bộ có vẻ chơn chất nhưng hơi bảo thủ, và mang hình thái Tiểu thừa; trong khi chủ đích chín vô vi pháp của Ðại Chúng Bộ phát triển xu hướng lý tưởng mang hình thái Ðại thừa. Còn với bốn phái thuộc hệ Phân Biệt Thuyết, thì cả bốn phái này đều chịu ảnh hưởng tư tưởng Ðại Chúng Bộ mà hình thành, sở dĩ Hóa Ðại Bộ tiến thêm một bước, đó là kiến lập “ba tánh chơn như” và “bất động” (xem Hóa Ðịa Bộ ở tiết trước); Pháp Tạng, Ẩm Quang, Ðồng Diệp, ba bộ này hoàn toàn tiếp thụ và giống với Ðại Chúng Bộ; Án Ðạt La phái là phái sau rốt của Ðại Chúng Bộ nên chưa tiếp thụ “thánh đạo” và “hư không” của Ðại Chúng Bộ, nhưng lại giống với Xá Lợi Phất Tỳ Ðàm, đó là cải biến và tăng bổ “quyết trạch” và “pháp trụ”. Xá Lợi Phất Tỳ Ðàm là thuộc về Thượng Tọa Bộ, nhưng những gì hiện còn lại không hợp với tư tưởng của Ðộc Tử Bộ, mà lại gần với hệ Phân Biệt Thuyết. Vô vi - bản thể nó vốn là một; Ðại Chúng Bộ do phải thích ứng với yêu cầu thực tế nên phân ra chín tên gọi, thứ lớp của chín tên là: trạch diệt, phi trạch diệt, hư không, không vô biên xứ, thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ, phi tưởng phi phi tưởng xứ, duyên khởi chi tánh, thánh đạo chi tánh.

Ðại Chúng Bộ lấy pháp duyên khởi làm nguyên lý sinh khởi của vạn pháp, và quán thông vạn pháp do giác ngộ pháp duyên khởi mà đạt đến Niết bàn, đồng thời chỉ ra cảnh giới lý tưởng của Niết bàn; thánh đạo, ấy là phép tắc nhờ đó đạt đến cảnh giới này. Ðây là tinh thần của chín vô vi pháp hiện vẫn còn.

---o0o---



- Tâm Tính Luận và Hữu Tính luận.

Ðược gọi là Tâm tính, tức là nói đến bản chất, bản tính của tâm. Tâm ở đây không phải là tâm phân biệt, hay nhục đoàn tâm (tim bằng máu thịt) trong đời sống thường ngày, đối với bản tính của Tâm, Ðại Chúng Bộ chủ trương “tâm tịnh thuyết” của “Tông luân luận Phát Nhận” (do Tiểu Sơn Hiến Kinh biên soạn vào năm Minh Trị thứ 24). Trong đó nói: “tâm, tính vốn tịnh, do bị khách trần tùy phiền não khiến cho nhiễm ô, làm tâm trở nên bất tịnh”. Chủ thể của hữu tình chúng sanh là tâm, bản tính của tâm bản lai (xưa nay) là tịnh, nhưng do bị phiền não có tính khách quan làm cho nhiễm ô, nhân đấy tâm trở thành bất tịnh nên gọi là phàm phu. Thuyết “tâm tính bản tịnh” của Ðại Chúng Bộ đứng trên lập trường Ðại thừa, và đây là điểm bất đồng giữa Tướng tông và Tánh tông; nhưng thuyết “tâm tính bản tịnh” lại là tiền thân của tư tưởng “chân như duyên khởi” về sau này, có khả năng tư tưởng tâm tánh bản tịnh hoàn toàn thuộc tánh không luận khi cho rằng tất cả chúng sinh đều có tính Phật. Ngoài ra, Ðại Chúng Bộ còn có thuyết “tâm tự duyên”. Luận Dị Chấp Tông Luận 82nói: “các hàng Dự lưu, tâm và tâm sở pháp của họ có thể liễu triệt được tự tánh”. Dự lưu là thánh quả đầu tiên của các thánh quả thuộc Tiểu thừa. Pháp mà tâm, tâm sở của hàng Dự lưu duyên đến được có khả năng liễu triệt (biết thấu đáo mọi ngánh mé của pháp) bản tính của tự tâm. Ðây là điểm nhất trí với “thuyết tâm tịnh” của Ðại Chúng Bộ. Thánh giả là người về lại với tâm bản tịnh của mình. vì tâm có khả năng tự duyên vào bản tính của chính nó. Ðây cũng là điều gây tác dụng đến tâm Bồ tát của Ðại thừa về sau này. Ðại Chúng Bộ còn có thuyết “tùy miên” và “chủng tử”. Bộ này lấy tùy miên, và “triền” mà chia phân ra; cho rằng tùy miên là chủng tử của tùy phiền não, trong khi “triền” là sự hiện hành của phiền não. Chủng tử được coi là nhân tố tiềm phục, còn hiện hành là sự thực được phát sinh. Chỉ riêng tư tưởng về chủng tử đã là uyên nguyên của Duy thức học của Ðại thừa sau này.

Với Hữu Bộ có sự tương phản với Ðại Chúng Bộ, Hữu Bộ cho rằng: tâm tính của nó xưa nay (bản lai) là bất tịnh, và rằng tâm không thể tự duyên, đồng thời cũng coi tùy miên chính là phiền não. Luận Thành Duy thức quyển ba 83, nói: “Trong A Cấp Ma (A Hàm) của Ðại Chúng Bộ cũng mật ý đề cập đến tên gọi của căn bản thức, vì đó là thức mà những thức như nhãn thức, nhĩ thức v.v... lấy đó làm sở y”. Nói cách khác, căn bản thức là sở y của sáu thức: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt thân và ý thức. Căn bản thức của Ðại Chúng Bộ với “phi tức phi ly uẩn ngã” của “bổ đặc già la”84 của Ðộc Tử Bộ tương tợ giống nhau. Trong khi Hóa Ðịa Bộ nhân vào căn bản thức mà lập thành “cùng sinh tử uẩn thức”. “Quả báo thức” của Chánh Lượng Bộ, “Tế ý thức” của Kinh Lượng Bộ, hoặc “nhất vị uẩn” (chỉ Tế ý thức) tác dụng của nó như nhau, thức này làm sở y của nghiệp và nghiệp dẫn sinh tử lưu chuyển. Khi đến Phật giáo Ðại thừa, căn bản thức liền trở thành tư tưởng A Lại Da thức. Thức A Lại Da của Ðại thừa, kỳ thực nó xuất xứ từ bộ phái Phật giáo. Căn bản thức của Ðại Chúng Bộ sớm được nhen nhúm trong Thánh điển nguyên thỉ, vì mới chỉ nói đến công năng của đệ lục ý thức.

Hữu Bộ xem hữu tình chúng sinh là nền tảng của nguyên tắc vô thường, vô ngã, và cho rằng hữu tình là sự giả hợp của năm uẩn. Ðây là thực tại luận mang tính máy móc. Hữu Bộ quan sát sự sinh tử của hữu tình chúng sinh mà đưa ra thuyết tứ hữu: sinh hữu, bản hữu, tử hữu và trung hữu. Trong đó “trung hữu” là linh thể sẽ đầu thai sau khi đã chết, vì quan niệm linh thể là một thứ vật chất (sắc pháp) vi tế. Quan niệm trung hữu của Hữu Bộ không là sự tiếp thụ của hệ Phân Biệt Thuyết thuộc Thượng Tọa Bộ.

Hữu tình là vô ngã, nhưng trong sinh tử luân hồi mỗi hữu tình có nghiệp lực riêng. Chính vì thế mà Hữu Bộ đặc biệt chú trọng đến thuyết “nghiệp” trong các phân tích của họ. Nghiệp trong Thánh điển A Hàm, nó là một thứ “ý chí” như nói: “nghiệp thị tứ” (nghiệp của tư duy, suy nghĩ). Ðến Hữu Bộ lại đem nghiệp chia làm hai: là Tư nghiệp và Tư dĩ nghiệp. Tư nghiệp là chỉ cho ý nghiệp, Tư dĩ nghiệp chỉ thân nghiệp và ngữ nghiệp. Lại chia thân và ngữ nghiệp ra thành hai là: biểu nghiệp và vô biểu nghiệp. “Thể” của thân biểu nghiệp là “hình sắc”, “thể” của ngữ biểu nghiệp là”thanh ngôn”; vô biểu nghiệp là dư thế của nghiệp. Dư thế của nghiệp là sự còn lại đối với hành vi hay quán tính, hoặc sức ảnh hưởng của tâm, nên ý nghiệp không phải lập thêm vô biểu nghiệp.

Ban đầu là nghiệp, rồi được phân thành hai, lại phối hiệp với ba nghiệp mà thành năm nghiệp. Như biểu đồ dưới đây.



Biểu đồ trên cho thấy Hữu Bộ đặc biệt coi trọng việc phân tích ngoại biểu nghiệp. Do biểu nghiệp mà hình thành vô biểu nghiệp, rồi do sự tương tục của vô biểu nghiệp dẫn đến chiêu cảm quả báo khổ, lạc trong tương lai. Mục đích lập vô biểu nghiệp của Hữu Bộ là để bổ trợ biểu nghiệp (sắc pháp) chưa tròn trách nhiệm; ngay ý tưởng trong tâm chúng ta, khi nó chưa được biểu hiện qua hành vi của thân, của ngữ, thì bất luận ý tưởng ấy là gì nó cũng không ảnh hưởng gì nhiều đến tâm tánh của chúng ta. Lối thiên trọng ngoại biểu nghiệp kiểu như thế này, và coi nhẹ quan niệm tư nghiệp, đây là điều không phù hợp với quan điểm “nghiệp thị tư” của Phật giáo nguyên thỉ. Ðồng thời, cũng không có cách nào để tiếp thông với Bồ tát của Ðại thừa Phật giáo, vốn lấy ý nghiệp làm trọng.

---o0o---

- Tu Ðạo và Quả Vị Luận

Mục đích duy nhất tối cao của Phật giáo là mong sao tất cả chúng sinh đều được giải thoát; phương pháp chính yếu để yêu cầu giải thoát ấy là tu đạo; trọng tâm để tu đạo là: Giới - Ðịnh - Huệ; dùng tam vô lậu học Giới - Ðịnh - Huệ có tính hỗ tương vi dụng; đây là điều mà các phái đều kiến giải một cách nhất trí. Chỉ riêng Ðại Chúng Bộ là nghiêng hẳn về “huệ”. Do đó, mới có thuyết “huệ vi gia hạnh”; trong khi hệ Phân Biệt Thuyết lại thiên trọng về giới luật; và Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ thì thiên về thiền định, nên có câu: “ý không vô nguyện, nhị tam ma địa, câu dung đắc nhập, chánh tánh ly sinh tư duy”. Tu định là phương pháp căn bản của đạo giải thoát, và đấy là bản sắc của cả nội, ngoại đạo ở Ấn Ðộ thuộc các phái bảo thủ. Ðịnh phải tiến từ từ theo thứ lớp; vì thế nên Hữu Bộ và hệ Ðộc Tử Bộ đối với phép tu dể chứng nhập kiến đạo vị, có chủ trương “Tứ thánh đế hiện tiệm quán”; Ðại Chúng Bộ và hệ Phân Biệt Thuyết thì chủ trương “Tứ thánh đế nhất thời hiện quán”. Sở dĩ gọi là “hiện tiệm quán”, đó là lấy trong mười lăm tâm hoặc mười sáu tâm rồi theo thứ lớp đi vào kiến đạo vị, chứng đắc quả Dự lưu; còn “nhất thời hiện quán” là đi thẳng vào không vô ngã tánh của Tứ đế cộng tướng, ấy là do quán sát thấy tất cả các pháp vô thường nên là khổ, khổ cho nên không có ngã và ngã sở. Diệt đế là chứng nhập không tịnh vô sinh - ở đây kiến đạo vi.

Sở dĩ gọi là theo thứ lớp mười lăm tâm, hoặc mười sáu tâm, ấy là lần lượt tu theo Tứ đế quán, từ Gia hạnh vị trở về trước tiến tu theo Bát Chánh Ðạo, còn tu theo thứ lớp mười lăm tâm, mười sáu tâm tức đi vào Kiến đạo vị (danh tướng của mười sáu tâm giải thích có phần dài dòng, xin vui lòng tra cứu Phật Ðại Từ Ðiển của Ðinh Phúc Bảo, ở đây chỉ xin sơ lược).

Thánh quả Tiểu thừa được chia thành hai là hữu học và vô học 85. Từ sơ quả đến tam quả là “người hữu học”, tứ quả thuộc “người vô học”. Tứ quả được phân làm tám bậc: Sơ quả hướng, Sơ quả. Nhị quả hướng, Nhị quả. Tam quả hướng, Tam quả, Tứ quả hướng, Tứ quả. Gọi chung là “Tứ song bát bối”. Vì tâm thứ mười sáu là Kiến Ðạo vị, từ Sơ quả Dự lưu đến bốn quả hướng vị A la hán, đều thuộc Tu Ðạo vị, còn bốn quả A la hán thuộc Vô học đạo vị, như nói: “Cái ngã sinh (tử) đã hết, phạm hạnh đã lập xong, việc cần làm đã làm xong, không còn kiếp lai sinh, biết đúng chắc như thế”. Ðấy là chứng nhập cảnh giới tịch diệt Niết bàn.

Ðối với bốn La hán quả mà xét, thì Ðại Chúng Bộ có thuyết Ðại Thiên Ngũ Sự, cũng do thuyết này mà Ðại Chúng Bộ và Hữu Bộ tranh luận mãi không dứt. Xin đọc phần trước ở chương bốn.

Ngoài ra, Ðại Chúng Bộ chủ trương ba quả trước vẫn còn “hữu thoái” (tức là trở lại đường sinh tử). Chỉ có Tứ quả là “vô thoái” (không còn trở lại đường sinh tử). Trong khi Hữu Bộ chủ trương Sơ quả ắt bất thoái. Ðại Chúng Bộ cho rằng “chư Dự lưu giả, tạo nhất thiết ác, duy trừ vô gián” (các hàng Dự lưu, hãy còn tạo các điều ác, trừ tội vô gián là không tạo). Tội vô gián là năm thứ ác nghiệp lớn như: giết cha, giết mẹ, giết A la hán, phá hòa hợp tăng, và làm thân Phật chảy máu). Còn theo Hữu Bộ, nhất đán mà chứng đắc A la hán thì không còn tạo ác nghiệp. Kinh Tạp A Hàm quyển ba mươi chín và bốn mươi bảy có đoạn chép, La hán “hữu thoái” ấy là kiến giải chính xác, đó là nhân có ba vị La hán bị thoái thất, nhưng sau đó chứng đắc trở lại. Các vị này lo sợ nếu không tái chứng đắc mà lỡ phải mệnh chung thì biết sao đây! Nên cái vị này bèn nghĩ, hay là ta tự sát ngay khi còn ở quả vị La hán, và cho rằng như vậy mới vào Niết bàn; đức Phật không tán đồng việc làm này. Tứ quả mà vẫn”hữu thoái”, nên vì thế Ðại Chúng Bộ cho rằng hàng Dự lưu vẫn còn tạo nghiệp ác, và phủ định điều mà theo Hữu Bộ, Sơ quả “không còn bị đọa vào đường ác”. Ðương nhiên quan niệm như vậy cũng có đạo lý của nó; Ðây là điều mà Hữu Bộ cũng chấp nhận, tức “các A la hán, hãy còn thọ nghiệp”. Chính vì nhất trí như thế nên tư tưởng của Ðại Chúng Bộ và Hữu Bộ không gây phương hại cho nhau.

Luận về quả vị, theo Ðại Chúng Bộ thì có ba; đó là A la hán, quả Bồ tát và quả vị Phật. Ðồng thời lấy quả vị Phật làm mục đích tối hậu cho việc tu hành. Hữu Bộ thì lấy La hán làm mục đích, chủ trương “Phật và nhị thừa, đều giải thoát giống nhau, vì tam thừa Thánh đạo, mỗi thừa đều có sai khác”. Bồ tát là nhân hạnh của Phật - tức vị Phật chưa thành Phật. Ðại Chúng Bộ thì chủ trương, Bồ tát thuộc hạng người “siêu nhân gian tính”, “tất cả các vị Bồ tát đều nhập vào thai mẹ, nhưng không thọ Yết Lạt Lam 86 (Thai chất) làm tự thể, vì tất cả Bồ tát khi vào thai mẹ không khởi dục tưởng không khởi nhuế tưởng, không khởi hại tưởng; vì muốn chiêu ích chúng sinh mà Bồ tát nhập thai, các Ngài tự nguyện đi vào đường hiểm, nên các Ngài tùy ý mà đến mà đi”. Trong khi Hữu Bộ lại cho là”nên coi Bồ tát giống như dị sinh (phàm phu), bởi các Ngài chưa đoạn hết kiết sử”. Và vì vậy nên Bồ tát vẫn là nhân gian tính.

Ngay như đức Phật, Ðại Chúng Bộ cũng đứng trên mặt lý tưởng mà lập luận một cách quá lời như: “Phật chỉ dùng một thứ tiếng thuyết được tất cả pháp, những gì được Thế Tôn thuyết giảng, không có điều gì là không hợp với chân lý. Sắc thân của đức Như Lai thực không giới hạn, và thọ mệnh của chư Phật cũng không có giới hạn”. “Chư Phật Thế Tôn là đấng tận trí, đấng vô sinh trí, là đấng hằng thường tùy chuyển (dù là) Bát Niết bàn”. Theo Ðại Chúng Bộ, nhục thân của Phật là vô lậu, do đó nên và vô biên tế (không có hạn định). Bởi đức Phật luôn ở trong trạng thái định, Ngài là đấng toàn trí toàn năng, “tâm Ngài chỉ trong một sát na biết rõ tất cả pháp; Ngài là bậc hỏi đáp đều đúng và không phải suy nghĩ; lời nói Phật, không lời nào là không chuyển pháp luân. Những tư tưởng kiểu như thế này của Ðại Chúng Bộ là uyên nguyên của Thánh điển ở thời tảo kỳ (thời kỳ đầu), tức tư tưởng của Bản sinh, Nhân duyên và Thí dụ v.v.... trong đó Bản sinh là sâu đậm nhất. Về mặt này, Hữu Bộ đứng trên lập luận mang tính nhân gian, và cho rằng: “chẳng phải lời nói nào của Như Lai cũng đều là lời chuyển pháp luân”, “không phải đức Phật chỉ nói một thứ tiếng là có khả năng diễn đạt tất cả các pháp”, “đức Thích Tôn cũng có những lời nói không phải là chân lý”, “các kinh do Phật thuyết giảng, chẳng phải kinh nào cũng liễu nghĩa, chính đức Phật cũng công nhận có những kinh không liễu nghĩa”. Theo Hữu Bộ, thì thân Phật là hữu lậu, dù Ngài có khả năng khiến chúng sinh khởi vô lậu pháp, trí của Phật trong một niệm cũng không thể biết tất cả (biến tri); uy lực của Phật cũng có hạn định. Những câu chữ trong ngoặc kép ở trên, phần lớn tham khảo và trích từ bộ luận Dị Bộ Tông Luân. Quí vị có thể đọc thêm. Thực ra, sự dị kiến giữa Hữu Bộ và Ðại Chúng Bộ không gây phương hại đến việc điều hòa. Các bậc thánh của nhân gian, hoặc ngay cả đức Phật cũng không nên tự thuật về họ có tính trái ngược với nhân gian; ngay như cảnh giới siêu nhân gian tính bất khả tư nghì cũng thế. Nên lấy quan niệm về thần thông trong kinh nghiệm tôn giáo để tiếp nhận các bậc thánh. Nói chung, tư tưởng của Ðại Chúng Bộ, mỗi mỗi đều tiếp thông Phật giáo nguyên thỉ, và dự báo thời gian cho Ðại Thừa Phật giáo; trong Thượng Tọa Bộ, tư tưởng Ðại thừa ít nhiều cũng chịu ảnh hưởng.

---o0o---



tải về 2.77 Mb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   ...   5   6   7   8   9   10   11   12   ...   17




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương