4)
Thực hiện mô hình công nghiệp hóa kết hợp giữa cơ chế thị trường và chủ
nghĩa xã hội, gắn chặt công nghiệp hóa với cải cách và mở cửa - Kinh nghiệm
Trung Quốc
CuuDuongThanCong.com
https://fb.com/tailieudientucntt
cuu duong than cong . com
Sau thất bại của mô hình CNH theo mô hình “Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng” của
những năm 1950, đến năm 1978 Trung Quốc đã thực hiện những cải cách kinh tế theo
hướng tập trung khai thác thế mạnh nền kinh tế nông nghiệp của mình với việc chuyển
thứ tự ưu tiên phát triển từ “công nghiệp nặng - công nghiệp nhẹ - nông nghiệp” sang
“nông nghiệp - công nghiệp nhẹ - công nghiệp nặng”, nhờ đó kinh tế có sự tăng trưởng
cao. Trung Quốc đã thực hiện chính sách khoán sản phẩm nông nghiệp đến hộ nông
dân, thúc đẩy cải tạo kỹ thuật, từng bước tăng đầu tư để tăng cường cơ sở vật chất -
kỹ thuật cho nông nghiệp... nhằm khuyến khích phát triển nông nghiệp, sớm đưa nông
nghiệp lên sản xuất lớn hiện đại, phù hợp với đặc điểm nông thôn Trung Quốc. Những
cải cách kinh tế của Trung Quốc với nội dung phát triển hướng vào nông nghiệp đã tạo
cho đất nước này một bước nhảy vọt không chỉ trong nông nghiệp mà trong toàn bộ
nền kinh tế quốc dân. Và như vậy, Trung Quốc là nước đầu tiên trong số các nước tiến
hành CNH theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung thực hiện thành công cải cách thể chế
kinh tế, mà nội dung chủ yếu là chuyển sang kinh tế thị trường và mở cửa nền kinh tế,
xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa mang màu sắc Trung Quốc. Các bước chuyển đó
được tiến hành một cách thận trọng, dần dần và chắc chắn. Cụ thể:
+ Sự chuyển hướng mô hình công nghiệp hóa của Trung Quốc được bắt đầu từ bước
chuyển các “công xã nhân dân” thành “kinh tế nông hộ”. Cơ chế đó đã có tác dụng tích
cực trong việc làm tăng sản lượng nông nghiệp, đảm bảo ổn định lương thực và thực
phẩm cho hơn 1,2 tỷ người; và quan trọng hơn là chuyển được một bộ phận đông đảo
lao động nông nghiệp sang lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ (khoảng 150 triệu người)
+ Thành công nhất và cũng độc đáo nhất trong quá trình thực hiện CNH theo hướng
cải cách và mở cửa kinh tế của Trung Quốc là việc thành lập và phát triển các xí nghiệp
hương trấn (XNHT) bộ phận cấu thành hữu cơ của mô hình CNH Trung Quốc. Thực
chất đây là bước đi đầu tiên để chuyển mô hình tổ chức sản xuất kinh doanh và quản lý
theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường. Với nguyên tắc hoạt động
là “lời ăn lỗ chịu” nên mô hình XNHT đã tạo được tính tự chủ cao của xí nghiệp.
Sự phát triển các XNHT ở Trung Quốc đã đem lại hiệu quả cao, góp phần quyết định
vào việc làm thay đổi bộ mặt kinh tế - xã hội nông thôn Trung Quốc. Đó là sự chuyển
CuuDuongThanCong.com
https://fb.com/tailieudientucntt
cuu duong than cong . com
dịch cơ cấu kinh tế từ thuần nông, sản xuất tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hóa, sử
dụng được phần lớn lao động dư thừa của nông nghiệp ngay trên địa bàn nông thôn,
thúc đẩy quá trình HĐH nông nghiệp truyền thống. Có thể nói, các xí nghiệp hương
trấn đã đóng một vai trò đáng kể trong sự phát triển năng động của kinh tế Trung
Quốc trong thời cải cách mở cửa, là bằng chứng về sự sáng tạo độc đáo mang màu sắc
Trung Quốc: kết hợp giữa CNXH và thị trường.
+ Bước chuyển từ mô hình CNH theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang mô
hình mới- mô hình kết hợp giữa thị trường và CNXH ở Trung Quốc thể hiện tập trung
nhất là ở sự chuyển đổi khu vực quốc hữu sang hoạt động theo cơ chế thị trường. Bước
chuyển này được tiến hành từ từ từng bước, bắt đầu từ những năm 1984 và tạo sự đột
phá thật sự là từ năm 1993. Trung Quốc vẫn luôn xác định vai trò trụ cột của các xí
nghiệp quốc hữu, do đó việc cải cách khu vực này được tính toán một cách rất thận
trọng, đi từ làm thử ở nhóm nhỏ trước, rồi sau đó mới mở rộng ra theo hướng nới lỏng
dần các thiết chế kiểm soát của thời kỳ kế hoạch hóa tập trung, đồng thời cởi trói dần
(hay mở rộng dần sự tự chủ) cho các doanh nghiệp nhà nước trong kinh doanh. Thực
chất, đây là sự mở rộng chế độ khoán sản phẩm từ khu vực nông nghiệp sang khu vực
công nghiệp theo kiểu “lấy nông thôn bao vây thành thị”. Phương châm của Trung
Quốc trong cải cách quan hệ sở hữu là “quốc thoái dân tiến”, và “nắm lớn, buông nhỏ”.
Các xí nghiệp quốc hữu sau khi hoàn thành kế hoạch pháp lệnh về nghĩa vụ nộp thuế
cho Nhà nước thì được quyền quyết định việc sản xuất “cái gì”, “cho ai” và “thế nào” để
đạt hiệu quả cao nhất. Một cuộc cải cách như vậy đã tạo động lực mạnh mẽ cho hoạt
động của các doanh nghiệp nhà nước trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
+ Thực hiện CNH gắn chặt với cải cách mở cửa nền kinh tế được thể hiện rõ nét nhất
qua các chính sách cải cách hệ thống thương mại và khuyến khích đầu tư trực tiếp
nước ngoài.
Về thương mại, Chính phủ Trung Quốc đã từ bỏ chính sách độc quyền ngoại thương
thông qua việc cho phép hàng ngàn công ty được phép buôn bán quốc tế; và cùng với
nó là việc bãi bỏ các chỉ tiêu kế hoạch về sản phẩm nhập khẩu và giảm đáng kể hàng
rào thuế quan đối với hoạt động này. Cụ thể, Chính phủ thực thi nhiều chính sách
CuuDuongThanCong.com
https://fb.com/tailieudientucntt
cuu duong than cong . com
khuyến khích, như: duy trì chính sách tỷ giá hối đoái thực tế có lợi cho xuất khẩu; cho
phép các doanh nghiệp được giữ lại một phần ngoại tệ từ hoạt động này; cho phép các
ngân hàng tham gia giao dịch ngoại tệ... Nhờ những chính sách như vậy, hoạt động
ngoại thương của Trung Quốc đã phát triển rất nhanh. Kim ngạch xuất khẩu cả nước đã
tăng từ 36 tỷ USD năm 1978 lên 300 tỷ USD năm 1995 và 986 tỷ USD năm 2007. Vị trí
của Trung Quốc trên bản đồ ngoại thương thế giới đã thay đổi. Tỷ lệ xuất khẩu trên
GDP của nước này đã tăng từ 7% năm 1980 lên 15% năm 1990 và lên tới gần 30%
những năm gần đây. Từ năm 2002, Trung Quốc là nước có thị phần lớn nhất trong
tổng nhập khẩu của Nhật Bản. Hiện nay Trung Quốc là nước xuất khẩu lớn thứ ba trên
thế giới, với tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu lên tới 1.760 tỷ USD, trong đó xuất siêu
212 tỷ USD.
Về đầu tư, Trung Quốc mở rộng việc thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) thông qua phát triển mạnh các đặc khu kinh tế. Trung Quốc xác định các đặc khu
kinh tế là những “cửa sổ” để tạo lập các kênh chuyển giao kỹ thuật, quản lý, và tri thức
vào sâu trong lục địa. Chính đây là nét nổi bật của kinh tế thị trường XHCN mang màu
sắc Trung Quốc. Thực tế là, ngay từ đầu thập kỷ 1980, Trung Quốc đã thành lập 4 đặc
khu kinh tế (lúc đầu chỉ là khu chế xuất) là: Thâm Quyến, Chu Hải, Sán Dầu và Hạ
Môn, sau thêm Hải Nam (đảo). Đến giữa thập kỷ đó, Trung Quốc đã hình thành được
một “cánh cung” khổng lồ các đặc khu kinh tế và các thành phố mở cửa ven biển
hướng ra Thái Bình Dương. Hiện nay, Trung Quốc là một trong số những nước thu hút
FDI nhiều nhất của thế giới. Năm 2007, dòng vốn nước ngoài đầu tư vào Trung Quốc
(không kể lĩnh vực tài chính ngân hàng) đạt 67,3 tỷ USD (năm 2005: 53 tỷ; 2000: 40 tỷ
USD). Các dự án đầu tư nước ngoài vào Trung Quốc tăng nhanh, góp phần quan trọng
vào việc thay đổi cả chất và lượng của nền kinh tế nước này. Hiện nay khu vực FDI
chiếm hơn 30% tổng giá trị sản xuất, và trên 50% tổng kim ngạch xuất khẩu công
nghiệp của Trung Quốc. Trung Quốc đã dần dần thay thế vị trí của Nhật Bản về lĩnh
vực này
(3)
. Điều đó đã khẳng định khả năng sản xuất hàng giá rẻ và chất lượng cao
của Trung Quốc, đặc biệt là đồ điện gia dụng trên thị trường tiêu thụ của thế giới. Ngay
từ cuối thập niên 1990, Trung Quốc đã được cả thế giới biết đến như là một “nhà máy
CuuDuongThanCong.com
https://fb.com/tailieudientucntt
cuu duong than cong . com
sản xuất khổng lồ của thế giới”, và vào năm 2000 Trung Quốc chiếm 40% tổng lượng
sản xuất máy điều hoà không khí của thế giới, 24% tivi màu, 22% VTR, 11% máy tính
cá nhân, 10% điện thoại di động... Đồ điện, điện tử gia dụng, đồng hồ, máy tính cá
nhân, xe máy và các loại máy móc khác chiếm tới 43% tổng xuất khẩu năm 2003.
Nhờ việc thực hiện CNH gắn chặt với cải cách, mở cửa nền kinh tế, trong vòng 20 năm
cuối thế kỷ XX Trung Quốc đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất trong lịch
sử phát triển của họ, và cũng là cao nhất thế giới (bình quân tăng 9,8%/năm, năm
2007 tăng 11,4%). Năm 2004, GDP của Trung Quốc đạt 1.649 tỷ USD, xếp thứ bảy trên
thế giới; và năm 2007 là 4.430 tỷ USD, đứng thứ tư (sau Mỹ, Nhật và Đức), với GDP
bình quân đầu người 2.200 USD
(4)
.
Như vậy, Trung Quốc đã trải qua hai thời kỳ, ứng với những mô hình CNH khác nhau
và kết quả CNH đạt được cũng khác nhau. Nếu mô hình CNH những năm trước 1980 là
thất bại, thì ngược lại mô hình CNH Trung Quốc thực hiện từ những năm 1980 đến nay
đã rất thành công, trở thành một mẫu mô hình CNH mới của Trung Quốc. Đó là mô
hình CNH kết hợp giữa cơ chế thị trường và chủ nghĩa xã hội, gắn chặt công nghiệp hóa
với cải cách và mở cửa nền kinh tế. Rõ ràng, những thành công của CNH Trung Quốc
trong hơn hai mươi năm gần đây là nhờ sự lựa chọn và chuyển đổi mô hình CNH một
cách khéo léo và uyển chuyển. Trung Quốc đã tiến nhanh vào cơ chế thị trường, nhất
là trong lĩnh vực sản xuất một cách khá hoàn hảo.
Kinh nghiệm của các nước đi trước đã cung cấp cho Việt Nam những bài học vô cùng
quý báu. Tuy nhiên, chúng ta đang thực hiện CNH trong một bối cảnh mới: toàn cầu
hóa, sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học công nghệ và kinh tế tri thức,
nên việc học tập kinh nghiệm các nước không đơn giản. Những yếu tố vừa nêu đã làm
đảo lộn cả tư duy và thực tiễn phát triển trong nhiều lĩnh vực, nó có ảnh hưởng lớn, và
thậm chí ảnh hưởng quyết định đến việc hình thành cơ cấu kinh tế cũng như cách thức
tiến hành CNH của mỗi nước; làm thay đổi cơ cả cấu lực lượng tham gia quá trình CNH.
Vì vậy, học tập kinh nghiệm là cần thiết để tránh việc phải mò mẫm, đi đường vòng
mất nhiều thời gian. Nhưng nếu học hỏi mà thiếu sáng tạo, áp dụng kinh nghiệm các
nước một cách máy móc, nguyên xi, không “thích ứng chuyển đổi” được các yếu tố
CuuDuongThanCong.com
https://fb.com/tailieudientucntt
cuu duong than cong . com
ngoại lực thành nội lực thì thời gian còn kéo dài hơn, thậm chí thất bại. Vấn đề là,
chúng ta sẽ có rất nhiều cơ hội do các nước đi trước tạo ra, nhưng nắm bắt cơ hội thế
nào để đẩy nhanh quá trình CNH ở nước ta lại đòi hỏi phải có một Nhà nước đủ năng
lực và bản lĩnh.
CuuDuongThanCong.com
https://fb.com/tailieudientucntt
cuu duong than cong . com
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |