1) Thực hiện mô hình công nghiệp hóa kết hợp giữa phát huy nội lực và
“thích ứng chuyển đổi” các yếu tố ngoại lực: Kinh nghiệm Nhật Bản và Trung
Quốc
Ai cũng biết
, Nhật Bản
ngày nay là nước đứng đầu Châu Á và đứng thứ hai thế giới về
phát triển kinh tế, nhưng cách đây hơn 100 năm về trước thì Nhật Bản cũng là một
nước nông nghiệp cổ truyền tự cấp, tự túc, sản xuất manh mún, với những hộ nông
dân qui mô nhỏ như Việt Nam, thậm chí về điều kiện đất đai, khí hậu, thời tiết để phát
triển sản xuất nông nghiệp còn có phần khó khăn hơn cả Việt Nam (70% diện tích đất
đai là đồi núi, đồng bằng nhỏ hẹp, bị chia cắt bởi nhiều con sông chảy xiết). Vậy
nhưng, Nhật Bản đã nhanh chóng chuyển được nền nông nghiệp cổ truyền kiểu Đông Á
thành nền nông nghiệp hiện đại, đưa nền kinh tế thuần nông trở thành nền kinh tế
công nghiệp, dịch vụ. Có được thành công đó là do Nhật Bản biết lựa chọn và thực hiện
mô hình công nghiệp hóa dựa trên sự tương tác năng động của hai hệ thống nội lực và
ngoại lực, đồng thời chuyển hóa thành công các yếu tố ngoại lực thành nội lực.
Nhật Bản tiến hành CNH từ nửa cuối thế kỷ XIX, và đến đầu thế kỷ XX thì sự nghiệp
CNH tại Nhật Bản đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, trong đó một số ngành
công nghiệp nặng đã đạt được trình độ hiện đại của thế giới. Nhưng rồi, cuộc Chiến
tranh Thế giới thứ Hai nổ ra và đã để lại hậu quả nặng nề và lâu dài cho đất nước này:
34% máy móc trong công nghiệp, 81% tàu bè, 25% công trình xây dựng đã bị phá
hủy...; tổng sản phẩm quốc dân năm 1946 chỉ bằng 61%, sản lượng công nghiệp bằng
14%, và thu nhập quốc dân bình quân đầu người bằng 55% so với trước chiến tranh.
Trước tình hình đó, Chính phủ Nhật Bản đã xác định là vừa phải tiến hành khôi phục
nền kinh tế với mục tiêu “đảm bảo an ninh lương thực và cải cách kinh tế nông thôn”;
vừa phải tiếp tục đẩy mạnh quá trình hiện đại hóa đất nước nhằm tạo ra một trật tự
công nghiệp mới, linh hoạt nhằm thích ứng với những biến động của kinh tế trong nước
và quốc tế.
Thực hiện mục tiêu thứ nhất, Chính phủ Nhật Bản đã ban hành nhiều đạo luật và thực
thi nhiều chính sách nhằm khuyến khích phát triển và bảo vệ lợi ích của nông nghiệp,
nông dân và nông thôn, như: Luật tài trợ cho nông dân trong trường hợp gặp thiên tai,
CuuDuongThanCong.com
https://fb.com/tailieudientucntt
cuu duong than cong . com
Luật tăng cường độ màu mỡ của đất, Luật đất đai nông nghiệp (năm 1947); thực thi
chính sách phát triển nông nghiệp toàn diện, lấy an ninh lương thực làm mục tiêu
chính... nhằm thúc đẩy nông nghiệp phát triển cao hơn nữa (năm 1975). Nhờ những
chủ trương đúng đắn đó mà 15 năm sau chiến tranh, nông nghiệp Nhật Bản đã đảm
bảo được 102% nhu cầu về gạo, 91% nhu cầu về thịt, 101% nhu cầu về trứng, 98%
nhu cầu về sữa và 100% nhu cầu về rau...
Thực hiện mục tiêu thứ hai, Chính phủ Nhật Bản tiến hành nhiều biện pháp nhằm khai
thác tối đa các nguồn lực từ bên ngoài và làm cho chúng thích ứng với điều kiện Nhật
Bản theo phương châm kết hợp “kỹ thuật phương Tây” với “Tinh thần Nhật Bản”. Kết
quả là, chỉ trong vòng 3 thập kỷ kể từ Chiến tranh Thế giới thứ hai kết thúc, công
nghiệp hóa tại Nhật Bản đã trở thành hiện tượng “thần kỳ” trước sự ngạc nhiên của cả
thế giới. Vào năm 1972, Nhật Bản đã trở thành nước sản xuất lớn nhất thế giới về sợi
tổng hợp, sản phẩm cao su, phôi kim loại, ôtô khách và là nhà sản xuất lớn thứ ba thế
giới về bột giấy, xi măng, thép, đồng và nhôm. Sản xuất công nghiệp không chỉ tăng về
số lượng mà còn rất đa dạng về chủng loại từ cao su tổng hợp, sợi tổng hợp hoá dầu,
các sản phẩm điện tử như ti vi mầu và các sản phẩm mới khác, đưa Nhật Bản trở thành
một trong những nước có nhiều lợi thế nhất thế giới về công nghiệp.
Phương pháp chủ yếu và xuyên suốt của Nhật Bản trong việc tiếp cận với kỹ thuật tiên
tiến phương Tây là bằng con đường nhập khẩu với nhiều hình thức khác nhau: nhập
khẩu trực tiếp công nghệ, mua bằng phát minh sáng chế, khuyến khích người Nhật đi
du học để tiếp thu những tri thức mới của phương Tây, và “nhập khẩu" cả chuyên gia
giỏi từ nhiều nước khác nhau trên thế giới. Cách thức cụ thể là, Chính phủ “câu” nhân
tài các nước bằng chế độ lương bổng ưu đãi; khuyến khích các cá nhân và tổ chức tiếp
cận với những người nước ngoài có bằng sáng chế và có bản quyền thích hợp, thu hút
họ đến Nhật Bản làm việc; thu hút trở lại những người đi du học ở nước ngoài… Bằng
cách đó, số người nước ngoài đến làm việc tại Nhật Bản ngày càng nhiều, từ cố vấn kỹ
thuật, giáo viên, nhà đầu tư, cho đến nhà quản lý và thợ lành nghề.
Nhật Bản đã không chỉ nhập khẩu máy móc thiết bị để sử dụng, mà còn nhập khẩu cả
bằng phát minh sáng chế để triển khai, hoặc để nghiên cứu, bắt chước; không chỉ học
CuuDuongThanCong.com
https://fb.com/tailieudientucntt
cuu duong than cong . com
tập phương Tây về kỹ thuật, mà họ đã học tất cả các mặt tiên tiến khác về thể chế kinh
tế, kinh nghiệm quản lý, kinh nghiệm phát triển giáo dục…. Điều đặc biệt là, Nhật Bản
không bắt chước nguyên mẫu của nước ngoài, mà họ luôn tìm cách cải tiến công nghệ
nhập khẩu để thích nghi chúng (thích ứng chuyển đổi). Vì thế, sự ra đời và phát triển
của các ngành công nghiệp mới rất nhanh, và rồi nó cũng lại nhanh chóng bị thay thế
bởi một ngành công nghiệp khác mới hơn. Đây là bí quyết thành công để rút ngắn thời
kỳ công nghiệp hóa của Nhật Bản, bởi vì nếu tự mò mẫm để chế tạo công nghệ mới thì
sẽ mất rất nhiều thời gian và tiền của; nhưng nếu bắt chước vụng về, nguyên xi thì lại
sẽ muôn đời là nước đi sau. Cho nên, đối với Nhật Bản việc bắt chước công nghệ và cải
tiến công nghệ cho phù hợp với điều kiện nội tại là con đường ngắn nhất để tiến tới
nền kinh tế hiện đại.
Đối với
Chia sẻ với bạn bè của bạn: |