KHÔng tuổi trẻ, không thời thơ Ấu lê Tùng Lâm, dđ 0913446423


Theo tôi, thật ra niềm tin là trận quyết chiến cuối cùng có cơ sở xác thực



tải về 365.93 Kb.
trang2/2
Chuyển đổi dữ liệu24.07.2016
Kích365.93 Kb.
#3558
1   2

Theo tôi, thật ra niềm tin là trận quyết chiến cuối cùng có cơ sở xác thực.

Trong thực tế từ người dân bình thường cho đến cán bộ, chiến sỉ ta ai cũng thấy được phương tiện chiến tranh, vũ khí địch, mạnh hơn ta gấp vạn lần, nhưng từng trận đánh, từng trận đánh đã qua họ thấy tinh thần chiến đấu của chúng rệu rã tột cùng, hầu hết dân quân cũng như bộ đội ta, những ai đã thật sự xáp trận đều kể rằng: trừ trường hợp một số nơi có đồn lũy kiên cố, còn phổ biến thì, khi ta đánh địch những loạt đạn đầu mà không chính xác thì nó chạy hết chẳng bắn được đứa nào đâu. Từ thực tế ấy nên có chuyện các đoàn quân ta đã là bệnh binh, thương binh phải đưa ra Bắc chữa trị, an dưỡng nhưng khi gặp các đoàn quân vào, và chuẩn bị vào đều nói không khẩn trương thì hết giặc để đánh đấy.

Thường ta chỉ thiệt hại nặng, khi ta có mật độ quân dày lộ diện, bị lộ ngoài ý muốn, thiếu súng đạn chống tăng, pháo phòng không mà chúng phản kích ồ ạt bằng xe tăng, phi – pháo;

Tình hình lúc này bình quân mỗi tỉnh, thành ta có hơn một trung đoàn chủ lực, các tiểu đoàn của tỉnh đội, thị đội và mỗi huyện đội có một đại đội, mỗi xã một trung đội dân quân, vùng địch hậu có đội công tác, đội biệt động, tuy quân số ít nhưng rất mưu trí, quả cảm, đại bộ phận họ đều biết cách chiến đấu trong các tình huống có chỉ huy và khi thất lạc chỉ huy.

Ngày nổ súng cận kề, tôi được bố trí trực tiếp phục vụ cho Lãnh đạo của tỉnh, nên nhanh biết được nhiều tin tức.

Lời chúc tết của Bác, tiếng pháo đêm giao thừa đã dứt, nhưng lãnh đạo tỉnh cũng như chúng tôi chưa ai ngủ cả, 2 giờ sáng nhận tin từ cơ yếu Tỉnh Ủy, từ tỉnh đội báo sang, các vị trí được phân công cho địa phương ta nổ súng đúng giờ G, chiếm giữ làm chủ ngày từ phút đầu, không thiệt hại gì.

Không biết sao các điểm giao cho chủ lực ta lúc này cũng là Trung đoàn 24 là Trung đoàn đã từng nếm lửa chiến trường chống Mỹ tại toàn bộ vùng đông tỉnh Kon Tum từ đầu năm 1966, có thể nói không ngoa là bách chiến - bách thắng, vậy mà sao vẫn chưa nghe nổ súng, rồi nghe các Đ/c trao đổi, thảo luận đủ thứ, cuối cùng nhất trí phải kịp thời động viên tinh thần chiến đấu các lực lượng của tỉnh, chủ động bám trụ phòng thủ chống địch phản kích, kiên định chờ quân chủ lực tấn công vào.

Cả ngày mùng một tết chủ lực ta chưa tấn công, địch tập trung lực lượng phản kích hết sức dữ dội, nhưng cũng chỉ với số quân địa phương ít ỏi được bố trí xuất kích của ta vẫn giữ vững trận địa, (thường bao giờ ta cũng chỉ bố trí khoảng 1/3 quân số thật sự xuất kích, phần lớn là bí mật ẩn nấu dự phòng, tập kích viện binh) đến đêm mùng một sáng mùng hai chủ lực mới tấn công vào. Địch đã hồi tỉnh lấy lại phần nào thế chủ động, chúng tập trung phi, pháo, xe tăng phản kích khốc liệt. Sang ngày mùng hai thế trận giữa ta và địch đan xen trong nội thị sau 3 ngày giằng co thảm khốc ta mất dần thế chủ động nên rút lui, tất nhiên trận này ta đã phải hy sinh và bị thương hàng trăm chiến sĩ, tuy nhiên địch cũng chết hàng trăm. Vấn đề đặt ra là chưa giải phóng được Kon Tum như tỉnh đã phát động, cơ sở ta xây dựng trong nội thị bị lộ tất cả, địch khủng bố dã man.

Qua chiến dịch Mậu thân không chỉ tôi, mà những người thật sự trong cuộc ai cũng thấy toàn bộ lực lượng quân - dân - chính cấp tỉnh trở xuống cả Miền Nam đúng giờ G đều đồng loạt nổ súng chiếm giữ được tất cả các vị trí được giao, còn quân chủ lực thì ở tỉnh – thành nào cũng vậy là những đội quân ý chí như thép, tài trí như thần nhưng phải đến đêm hôm sau mới được lệnh tiếp cận nổ súng tấn công vào các nơi được giao dưới mưa bom, bão đạn của Mỹ trong lúc ai cũng biết rằng, thấy rằng về ý chí địch đã hầu như rệu rã, tan nát nhưng phương tiện chiến tranh của Mỹ, Ngụy còn mạnh hơn ta gấp vạn lần; tất nhiên cuối cùng chính nghĩa, lòng quả cảm, trí tuệ Cộng sản cũng chiến thắng. Nhưng tại sao sự phối hợp lại như thế, tôi nghĩ bộ chính trị, các học giả về lịch sử, quân sự chính thống của ta chắc cũng không ngờ và có lẽ việc đã rồi nên đành phải lơ, không quyết tâm tìm ra, xác định sự phản bội ấy xuất phát từ đâu?!

Sau tết Mậu Thân, quân và dân tỉnh ta kịp thời tỉnh táo, hết sức trung kiên, mưu trí dưới sự lãnh đạo và chỉ đạo khéo léo của các cấp bộ Đảng địa phương, của Thường vụ Tỉnh Ủy liên tục cầm cự với địch vượt qua giai đoạn về phía quân và dân địa phương có thể nói là thoái trào;

Khoảng tháng 3 năm 1968, Bộ tư lệnh B3 tung Trung đoàn 209 chủ lực ta ra mở mặt trận đông Sa Thầy (Chư Tan Kra, điểm cao 996), cách trung tâm thị xã Kon Tum về phía tây chừng 30 km theo chiến thuật nhử địch ra rồi mật tập và đã cuốn hút một lực lượng địch rất lớn ra để tiêu diệt, nếu phản ảnh một cách khách quan thì có thể nói địch luôn bị động, bị ta nhử ra, rồi tổ chức tập kích, theo cán bộ - nhân dân trong vùng kể lại mặt dầu B52, phản lực, HU1A (trực thăng chiến đấu), ném bom, bắn rốc kết như sấm sét, HU1B (trực thăng chở quân đỗ bộ) nó bay như làng quê đang có dịch chuồn chuồn, pháo nó bắn như đang rang bắp (ngô), hai bên quần thảo nhau cả tháng trời. Cứ sau mỗi trận - mỗi trận mật tập của lính ta xác địch ngổn ngang, tất nhiên ta không thể tránh khỏi thiệt hại nhưng không thể thiệt hại lớn được bởi quân ta luôn ẩn nấu bí mật, luôn chủ động đánh chiếm và rút lui.

Tuy nhiên địch vẫn hết sức chú ý đến các vùng đông và bắc thị xã Kon Tum.

Tôi trở về Ban cùng mọi người, luôn sẵn sàng tư thế chống địch phản kích, chạy càn, chống càn, và vẫn phải bảo đảm phận sự liên lạc được giao với một số cơ quan tỉnh và với trạm đầu mối X 20 của Ban, chú Nguyễn Phi (Nguyễn Phi Phụng) Tỉnh Ủy viên về làm Trưởng ban thay chú Lê Hồng Tân nhận công tác khác.

Địch hay bắn pháo, dùng B 57 nén bom, rải chất độc hóa học, đổ các đơn vị Biệt kích ra vùng Tu Bung, Đắk Viên nơi có các cơ quan tỉnh đóng, đầu mùa mưa 1968 chúng phục kích bắn chết được chú Thuộc, anh Xo (người cùng đoàn lên Kon Tum với tôi) biên chế của Ban Binh Vận tỉnh trên đường đi công tác phía trước về, đến đoạn sát mép suối cách Tỉnh Ủy 30 phút đi bộ, đây là tuyến đường trước và sau đó tôi hay đi nhất.

Lại một lần nữa các cơ quan tỉnh chuyển lên Lạc Bông, Mô Gia, Ban điều tôi về X 20 lúc này là trạm trung tâm của Ban đóng ở vùng làng Kô Xia (vẫn thuộc xã Ngọk Lây) do chú Từ Như Ánh phụ trách. Từ sau mậu thân gạo hết sức khó khăn chỉ để giành cho người ốm đau, tiêu chuẩn người/ngày/1 lạng, hầu hết và chủ yếu là ăn sắn (củ mỳ), đến Kô Xia có nhiều củ chuối nước, Miền Bắc gọi là củ dong, quê tôi gọi là củ mình tinh tây được coi như là đặc sản vậy, tôi reo lên ở đây được ăn củ này là sướng quá, chú ghẹo tôi, à sướng lắm, ngon lắm đấy cháu, chú đổi cơm cho cháu nghen. Ôi thôi! chỉ mới ăn trong một ngày là nó ớn đến cổ! Cũng ở nơi này tôi được kết nạp Đoàn thanh niên Cộng sản ngày 01/6/1968, vào lúc vừa đủ 15 năm 9 tháng tuổi.

ĐÃ THÀNH THANH NIÊN 1968-1972
Được quen anh Hữu (do anh bảo gọi vậy, thành quen đến bây giờ chứ anh đáng tuổi cha – chú tôi) người của của đơn vị trực thuộc Ban Tiền Phương hay đến chơi kể chuyện, trong đó có chuyện ba người bạn là Véch To An Prê kỹ sư cơ khí, thiếu tá quân đội Xô Viết giỏi chuyên môn, quả cảm, mưu trí trên mặt trận chống phát xít Đức cả khi đã bị chúng bắt làm tù binh. Sxơ Cop bác sĩ, đại úy quân đội Xô Viết, khá về chuyên môn, nhút nhát, say tình, đầy thủ đoạn gây rối cho đồng đội, cả với những người bạn thân thiết nhất. Ga Li Na – cô gái giỏi văn chương, xốc vác, thông minh đức độ, luôn bị Sxơ Cop lừa mà vẫn cứ không hay biết, anh say sưa kể khá hay, hấp dẫn nên anh và câu chuyện cứ đọng trong tôi cho đến bây giờ.

Tình hình khu vực liên tục phát sinh các hiện tượng không được ổn lắm, địch thỉnh thoảng bắn pháo lên tới nơi, máy bay trinh sát hay bay trên bầu trời, theo dân quân báo đã phát hiện dấu vết biệt kích trong vùng.

Những gì tôi biết và còn nhớ được có thể nói cả năm 1968, đầu năm 1969, hậu chiến dịch mậu thân (1968) địch quyết liệt phản công ra vùng ta; tôi thì cứ lạng lách đủ kiểu để vượt qua bom đạn, biệt kích bảo đảm liên lạc theo phận sự được giao.

Cộng sản cũng không vừa, ngay 6 tháng đầu năm 1968 dẫu khá vất vả, nhưng cũng hết sức mưu trí nên kịp thời cũng cố lực lượng quân – dân – chính địa phương. Khí thế sản xuất, tấn công và phòng thủ dần khôi phục, ta tổ chức được một số trận do các đơn vị tỉnh đội, huyện đội, thị đội, các đội công tác đánh nhỏ sâu trong vùng địch, còn dân quân, du kích cứ mặc cho bom rơi, pháo nổ, trực thăng HU1A quần lộn nhả ra từng tràn đạn dài đinh tai – nhức óc, luôn bám sát tiêu diệt các đơn vị địch hành quân càn quét ra vùng căn cứ ta, đến đâu cũng bị những tiếng súng kéc cùm, kéc cùm hạ gục làm cho chúng cũng phải lung lay ý chí, hoang mang, chùn bước.

Cuối tháng 7/1968 tỉnh quyết định chuyển toàn bộ về khu vực Đắk Dơn, Long Lái, Chung Tam, Ngọk La thuộc xã Mang Ri, lúc này chú Phan Quyết tức Phan Phụ nguyên Bí thư Tỉnh Ủy Kon Tum trở về làm Bí thư thay chú Nguyễn Văn Tiềm tức Bùi Anh trên rút về khu 5, Ban lại rút tôi về làm liên lạc, viết nộp lý lịch sẵ sàng đi ra Miền Bắc học, khi có thông báo của tỉnh, lúc này chú Hồng là phó ban – phụ trách thay chú Nguyễn Phi trở lại làm Bí Thư huyện 40 (nay là vùng phía tây quốc lộ 14 huyện Đắk Glei), nếu không xảy ra sự cố giữa tôi với chú Bình Ủy viên thường trực, chú Hồng thì tôi đã cùng đi Bắc học chung đợt với anh Trần Quang Vinh – con chú Ba Neo lúc này là Tỉnh Ủy viên phó Ban Kiểm tra Tỉnh Ủy, anh Ngô Binh – con chú Ngô Đăng - Tỉnh Ủy viên, Bí thư Huyện Ủy 80 nay là cả vùng huyện Đắk Tô và Tu Mơ Rông, anh Kha – con chú Bùi Ban – phó Ban Tài Mậu tỉnh, anh Tầm – con chú Hà – phó Ban đấu tranh Chính trị tỉnh,..., Dầu vậy nhưng không biết sao tôi vẫn cứ say sưa công tác, được cử đi phục vụ Đại hội Đoàn thanh niên Cộng sản các cơ quan tỉnh, chỉ hai người tôi và chị Liên người của Tỉnh đội lớn hơn tôi khoảng 4- 5 tuổi mà phải lo củi, nấu – dọn – rửa ngày 3 bữa liên tục ba ngày cho hàng trăm người, từ đó đến nay không có cơ hội biết chị nữa.

Tháng 9/1968 được điều về trạm Chung Tam, anh A Dệt trạm trưởng giữ liên lạc từ Đắk Viên đến Plei Ngók nay nghe đâu là Plei Ngọc thuộc xã Ngọc Linh, huyện Đắk Glei;

Khoảng đầu tháng 10 năm 1968 tôi được cử có mặt trong đoàn đón đoàn Đ/c Năm Công Bí thư Khu V (đoàn khoảng 40 – 50 chục người), đoạn từ Đắk Viên về Long Lái, trên đường từ Bộ tư lệnh B3 đóng ở vùng ngã ba biên giới Việt – Lào – Căm Pu Chia đến làm việc với Tỉnh Ủy (lúc này vẫn đang đóng ở vùng làng Long Lái, hai – ba ngày trước đó trời có mưa to, gây lũ) tuyến đường giao liên khi ấy một là phải qua dốc Kon Hia, nghe đâu nay là xã Đắk Xao, hai là theo tuyến tôi đi suốt lúa bị ngất cuối năm 1966 là xã Đắk Na thuộc huyện Tu Mơ Rông gì đó, đoàn vừa qua khỏi dốc khoảng 3 tiếng đồng hồ, thì địch đổ quân ngay trên đầu dốc tất nhiên không xảy ra gì với đoàn, du kích và lực lượng huyện đội phải ứng phó với chúng.

Đoàn đến Tỉnh Ủy Kon Tum làm việc, có cả Đ/c Vương Tuấn Kiệt (Phú), nguyên thượng tá Phó tham mưu Trưởng B3 phụ trách khu vực Kon Tum (hình như lúc này là đại tá Sư trưởng, sư 1 của ta), trời đã về chiều thời tiết không thuận lợi, mưa nhỏ lai rai và rét buốt (sườn đồi bắc - tây - bắc Ngọk Linh mà) Tỉnh Ủy thịt một con heo khá lớn (do đồng bào ủng hộ) tiếp đoàn nhưng Đ/c Năm Công đâu được bác sĩ bảo vệ cho ăn nên đành dùng những thức ăn đoàn mang theo.

Đ/c Năm Công nói 6 giờ sáng mai bắt đầu đi, nhưng có lẽ do thời tiết xấu nên lính ta chủ quan ngủ dậy muộn mới nấu cơm xong, đúng giờ Đ/c chí đã chống gậy ra đi rồi, thế là quân ta cuốn gói chạy theo gần chết để bảo đảm đội hình Đ/c luôn trong giữa đoàn quân, nhằm bảo đảm an toàn nên đưa Đ/c đi theo tuyến đường Long Lái - Lạc Bông - Mô Gia - Cô Xia để xuống tây Quảng Nam.

Qua ngày hôm sau tôi tiếp tục được phân công trực tiếp dẫn đường cho Đ/c Vương Tuấn Kiệt (Phú) cùng hai vệ binh đến đỉnh dốc Mô Bành bàn giao cho đường dây Co2 (B3).

Năm 1969 đến, mặc cho những cơn sốt rét luôn hoành hành, những ngày rét buốt giá lạnh của sườn núi Ngọc Linh, tôi say sưa bám trạm, ngày hai buổi bám đường.

Khoảng tháng 7/1969 địch lại đánh bom B52 trúng vào vùng chúng tôi đang ở, lần này chúng ta không thiệt hại một nhân mạng nào kể cả dân (nghe rất khó tin nhưng là sự thật), tuy nhiên vì cảnh giác, các cơ quan Tỉnh Ủy lại tiếp tục chạy qua xã Đoàn, nay thuộc huyện Đắk Glei nằm về phía tây bắc núi Ngọk Linh;

Tôi là người của trạm giao liên Chung Tam, một mình, một trạm phải bám trụ tại vùng cho đến trận bom B 52 rơi vào những ngày cuối tháng 7/1969 khoảng trưa ngày 27 tôi mới bị bom thổi lên cao, rơi xuống, ngay đoạn dưới làng Long Lái, cách trạm 30 phút đi bộ lúc bình thường. Sau tỉnh dậy nhận thấy may mắn quá, chỉ bị thương một số phần mềm và tổn thương bên trong cột sống, rồi xé áo băng bó, cố gượng về đến trạm lúc này đã 17 giờ chiều, hàng ngày bom 52 vẫn rơi, sau 5 ngày tự phục vụ, tự điều trị bằng nước muối và ít kháng sinh, nằm ngửa nghỉ ngơi, vẫn chưa bóng người qua lại. Các vết thương hơi héo, cột sống nghe đỡ đau hơn một chút, biết sao bây giờ tôi quyết định cố hết sức còn lại, nối liên lạc với 2 trạm ở hai đầu. Khoảng 10 ngày sau địch hết ném bom, chính chú Bình đi ngang qua thấy cảnh tượng cung đường bị tàn phá cũng đã phải choáng váng, thốt lên “như vậy là tốt rồi, cháu gan dạ, dũng cảm đấy”. Hậu quả bị bom ấy sau đó và cho đến bây giờ rất khó ngồi lâu, khó cúi người, cứ mỗi lần trở trời có lúc nó đau đớn tưởng chừng như đang bị đứt lìa, nghe lời số anh, chị em cũ khuyên bảo - thúc dục, dù lúc này tôi đã 3 năm và đang là Chánh Thanh tra sở Lao động - TBXH, cũng phải cả năm trời vất vã làm hồ sơ đến giữa năm 1996 mới xong, nhưng qua giám định kết luận thoái hóa cột sống là do tuổi tác, dù sao so với bao đ/c, đồng đội sự tồn tại của tôi như thế này là sướng quá rồi.

Trong lúc các cơ quan Tỉnh Ủy đang đóng ở xã Đoàn, tận H30 nay là vùng đông bắc huyện Đắk Glei đến khoảng tháng 9/1969 thì có lệnh di chuyển toàn bộ về vùng Tu Bâng – Tu Cấp thuộc xã Tu Mơ Rông, huyện Tu Mơ Rông.

Tôi được điều theo về cùng anh A Huy đứng ở trạm Bảo vệ nối với trạm Ngọk Rầng nằm trên tuyến đường giao liên vào H 16 (nay là Kon Rẫy) và cánh đông – bắc H 5 (nay là TP Kon Tum), mở con đường xuyên rừng qua làng Kon Bia củ vào làng Đắk Xanh, Tê Rông lúc này gọi là xã Văn Lem là xã giáp ranh với địch ở Đắk Tô, dẫn đường đưa Bộ chỉ huy tiền phương Tỉnh Ủy vào đóng ở vùng giữa Đắk Xanh, Tê Rông, trên lại điều A Huy đi còn lại một mình tôi ở ngay luôn trong làng giữ liên lạc giữa Bộ chỉ huy tiền phương với trạm Bảo vệ. Đã qua tháng 10 tôi vừa bảo đảm liên lạc lại vừa bảo đảm chuẩn bị sản xuất tự túc, do đó tự liên hệ với làng tìm đất phát rẫy rồi cứ ngày đi trực, ngày đi phát rẫy. Mỗi khi dân làng đi qua, đi lại người ta trầm trồ với nhau “ ê con jun cô rơ cây o, ê con kinh đây giỏi lắm”. Vừa xong cái rẫy độ 1 Ha, tôi lại phải bàn giao cho thôn, theo Bộ chỉ huy tiền phương tỉnh chuyển vào Đắk Phía (lúc bây giờ thuộc H16), giờ đây nếu ai có dịp trở lại - hỏi những người dân làng Đắk Xanh cùng thời cuối năm 1969 ấy, tôi nghĩ chắc chắn họ còn nhớ đấy!

Khoảng tháng 11 tôi được biệt phái đi làm liên lạc cho bộ chỉ huy tiền phương Tỉnh Ủy luôn đối mặt với nhiều gian nan, nguy hiểm nhưng cũng đầy ắp những chuyện vui, tin ta đánh thắng trận này - trận kia, địch ném bom, đổ biệt kích ra nơi này - nơi nọ ta không thiệt hại gì đáng kể, do các nơi báo cáo về Tỉnh Ủy, hết hội nghị Tỉnh Ủy đến Thường vụ, rồi hội nghị ngành, quay về phía sau – vượt ra phía trước (tức vùng sát địch), không biết sợ chết là gì.

Thường thì Văn phòng Tỉnh Ủy chỉ có anh Vịnh đánh máy chữ, nhưng nhiều hội nghị Văn phòng Tỉnh Ủy phải trưng tập cả anh Ngọc bên Ban tổ chức Tỉnh Ủy, chị Xuyến bên Ban Công an tỉnh (trước là người của Ban Giao bưu) đến để đánh máy, thời giờ làm việc có lúc lên đến 12 giờ/ ngày, các anh, chị ấy có thể đánh với tốc độ 4 tắp/ giờ (không tính số tờ, tức là 4 trang giấy A4/giờ), mức độ sai chỉ một đến hai chữ/ trang là cùng.

Tôi cũng luôn được các chú, các anh, các chị quan tâm, ngoài những lúc đi liên lạc, chạy hỏa tốc, được bố trí trực tiếp phục vụ nước uống trong các cuộc họp, cơm cho Thường vụ Tỉnh Ủy, phòng làm việc Bí thư, nhiều bữa Đ/c Bí thư làm việc, nghiên cứu bản đồ đến 23 giờ, chủ trì họp cho tới 21 giờ.

Năm 1970, Bí thư Tỉnh Ủy ăn gì, uống gì, tôi được dùng thứ ấy.

Về uống, lần đầu tiên phục vụ 5 Đ/c Thường vụ họp tối, anh Khanh chuyên viên trực tiếp dự theo dõi tổng hợp, chú Đức lúc này là Chánh văn phòng Tỉnh Ủy làm việc ở phòng cách nơi họp khoảng 40 mét lên dốc, đến 20g 30 chú bảo tôi đi pha sữa đem lên cho cuộc họp, 7 người nên tôi pha 7 ly, chú hỏi cháu đếm hết người chưa, tôi dạ! cháu biết từ đầu đến giờ rồi mà! Chú bảo thiếu đấy, cháu đếm lại đi, tôi chạy lên đếm lại lần nữa về báo cáo đủ chú à! chú lại nói, cháu đếm lại chú nghe thử coi, tôi đếm lại tên từng người một, lần này chú bảo phần cháu đâu, tôi rón rén nói cháu không có tiêu chuẩn, không được phép đâu ạ! Chú nói chú cho phép, vì cháu cũng đang làm việc ban đêm đấy, từ nay cứ thế nhé, tôi vừa sợ, ngại lại vừa mừng, nhưng đến bữa thứ 2 tôi vẫn chưa dám tự pha 1 ly cho tôi, thấy thế chú Đức lại nói: “a, cái thằng này nó vẫn không nghe lời tôi ơi!”. Làm tôi cũng hoảng hồn, tuy vậy phải đến bữa thứ 4 tôi mới hết ngần ngại, nên hễ các chú dùng gì, tôi được dùng thứ ấy.

Về ăn, Văn phòng Tỉnh Ủy, có chị Xuân vừa là y tá vừa là cấp dưỡng, hình như quê Tam Quan, Bình Định, rất giõi, nhanh nhẹn, khéo tay và rất cẩn thận, theo tôi thấy chị làm món gì cũng rất kĩ lưỡng, gọn gàng, ngăn nắp nấu món gì cũng ngon, nhưng không biết sao các món dọn cho Bí Thư, Thường vụ Tỉnh Ủy chị đều bảo tôi ăn thử có vừa không, món ít nhất thì một miếng, còn thường là 2- 3 miếng. Tôi cũng nói với chị, cái miệng em ăn thứ gì chả ngon, huống hồ chi là các món chị nấu, nhưng rồi một mực chị cứ bắt tôi ăn thử, nhất là những hôm làm nhiều gà, lợn, chị cứ bắt tôi ăn thử đến no nê mới thôi, sau này tôi nghĩ có lẽ thấy tôi nhỏ, ốm teo gầy yếu nên chị làm vậy chứ thử gì.

Cũng bắt đầu từ năm này cái bệnh sốt rét cứ dai dẳng theo suốt tôi, từ khi vừa chạm chân tới đất Kon Tum, đang sốt rét vẫn cứ đi trực, vẫn chạy hỏa tốc, sản xuất..., vẫn cứ dùng thuốc điều trị, nó hành hạ tôi, làm cho lá lách tôi có thời gian sưng đến số 4, hình như nó quyết tâm chặn đứng, đè bẹp ý chí tôi, làm cho tôi luôn gầy còm, ốm téo, cố làm cho tôi không thể lớn lên nỗi, và có lẽ tôi không thể dễ dàng đầu hàng như vậy, nên cho đến khi được đi phía trước tự nhiên vi trùng sốt rét nó biến mất.

Khoảng tháng 4/1970 tôi được cử phục vụ Đ/c Rét (Phan Vững), Thường vụ Tỉnh Ủy đi họp ở B3, qua chuyến đi Đ/c đã gieo vào tôi những ấn tượng hết sức cảm phục, giúp tôi tiếp tục lớn lên; khi đến cung đường từ K4 nay giữa Đắk Na, huyện Tu Mơ Rông và xã Đắk Ang, huyện Ngọc Hồi tới K2 nay thuộc xã Đắk Long, huyện Ngọc Hồi đang lúc Chủ lực ta đánh Đắk Xiêng (Siêng) nên nghe, chứng kiến bộ đội ta tiếp tục chiến thuật đánh điểm diệt viện thắng to, gặp chứng kiến hàng trăm lính ngụy, sĩ quan cố vấn và phi công mỹ bị ta bắt làm tù binh được đối xử hết sức nhân đạo.

Thường được chính Đ/c Bí thư Tỉnh Ủy dạy dỗ nhiều điều.

Một lần Đ/c Phan Quyết Bí thư Tỉnh Ủy hỏi: tôi (liên lạc), A Ven (cần vụ), A Dương (bảo vệ), người Đảng viên Cộng sản khác quần chúng thế nào?

Chúng tôi trả lời: Người Đảng viên phải tiền phong, gương mẫu trong mọi việc được giao, hiến kế hay để xây dựng đơn vị chiến đấu và phục vụ chiến đấu tốt, ...;

Đ/c nói: từ thời Vua Hùng dựng nước đến nay mọi công dân Việt Nam yêu nước đều làm như vậy, người lính xung phong ra mặt trận, trong mỗi trận đánh nghe theo mệnh lệnh họ vung gươm, ôm súng xã thân xung phong, người trước ngã xuống, người sau tiến lên chiếm trận địa; thanh niên, thiếu niên cũng tiền phong - gương mẫu (ta có tổ chức thanh niên tiền phong, thiếu niên tiền phong đó các cháu à!).

Sau một hồi đối thoại, Đ/c nói tiếp: vấn đề cơ bản khác nhau ở chỗ “người Đảng viên Cộng sản sống, chiến đấu, lao động phải biết và có lý tưởng Xã hội chủ nghĩa đến Cộng sản chủ nghĩa”.

Xã hội chủ nghĩa là chế độ làm tùy sức, ăn tiêu tùy tài sức, người không có sức lao động được xã hội nuôi dưỡng, ai cũng có cơm ăn, áo mặc, nhà ở, ai cũng được chữa bệnh, học hành không trả tiền,..., khi tiến lên Cộng sản chủ nghĩa là tiến lên chế độ xã hội làm tùy sức, ăn tiêu tùy cần, theo quy luật phát triển loài người, lúc này lao động đã đạt trình độ cao, tự giác, lao động là niềm vui của con người. Sản phẩm xã hội được sản xuất ra thỏa mãn nhu cầu con người, ví dụ như: khi nãy chú cháu mình cùng đang trèo dốc chú già, các cháu trẻ, người mệt ít, người mệt nhiều, chú hưởng theo chế độ Bí thư Tỉnh ủy, các cháu hưởng theo chế độ nhân viên, nhưng đến chế độ Cộng sản chủ nghĩa thì chú - cháu mình mỗi người hưởng theo ý thích của mình...

Có lần Đ/c hỏi chúng tôi, tại sao Đảng ta hay nói giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng, mà không nói cho gọn là giáo dục chính trị tư tưởng, vậy giáo dục chính trị là làm gì? lãnh đạo tư tưởng là làm gì? Thế là chú cháu chúng tôi lại tiếp tục đối thoại.

Chúng tôi trả lời: “Giáo dục chính trị là việc Thủ trưởng cơ quan, đơn vị tổ chức cho mọi người trong cơ quan, đơn vị mình học tập đường lối, chỉ thị , nghị quyết về chủ trương, chính sách của Đảng, Mặt trận nói chung, của cơ quan, đơn vị nói riêng.

Lãnh đạo tư tưởng: là việc Thủ trưởng và tập thể cơ quan, đơn vị thông qua kết quả nói và làm nhiệm vụ mỗi cán bộ, nhân viên, chiến sỉ, từng bộ phận, ở mức nào để phát huy những ưu điểm, chỉ ra các cách khắc phục khuyết điểm, động viên mọi người nhận thức, nói và làm theo đường lối, chỉ thị, nghị quyết về chủ trương, chính sách của Đảng, Mặt trận nói chung, của cơ quan, đơn vị nói riêng; nhận rõ âm mưu, thủ đoạn của địch,..., trên cơ sở đó mà cùng nhau hăng hái tiến lên.

Vì vậy không thể gộp chung lại gọi là giáo dục chính trị tư tưởng được, tư tưởng không thông mang bình đông cũng nặng (bình đông là cái bình chứa 1 lít nước đeo bên mình khi đi công tác).”

Đ/c tán dương và nói thêm: “Giáo dục chính trị là việc làm khó,.... song Lãnh đạo tư tưởng lại càng khó hơn,..., vì con người không phải là cái máy như các cháu đã nói trên, cứ lắp ráp cho họ các bộ phận của máy xong là xong, mặt khác mỗi người không giống nhau; vấn đề làm cho họ thật sự thấm nhuần, hăng hái tiến lên đòi hỏi người Thủ trưởng lãnh đạo phải nắm bắt tốt thực tiễn, có kĩ năng, nghệ thuật, công tâm lãnh đạo. Giáo dục chính trị như người Bác sĩ kê đơn cho thuốc trị bệnh. Lãnh đạo tư tưởng là việc người Bác sĩ khám bệnh. Thông qua hỏi, nhìn, nghe, sờ - đoán bệnh đúng, kê đơn cho thuốc đúng - bớt bệnh, không đúng có thể dẫn đến chết người. Người Bác sĩ có thể gây chết một đến một số người; người làm công tác chính trị, tư tưởng có thể gây hại, gây chết về ý chí để sống chiến đấu - lao động - học tập cho một đến nhiều người, nhiều tổ chức, cả nước và toàn thế giới”

Rồi thì các vấn đề Đảng là gì? Chi bộ là gì? Dân chủ tập trung và ngược lại tập trung dân chủ là gì?.... Cũng được đồng chí trao đổi.

Hơn một năm đi phục vụ Đ/c Phan Quyết (Phan Phụ) quả là niềm vinh hạnh lớn, bản thân được Đ/c dạy khá nhiều điều hay, lẽ phải, đến bây giờ, với kiến thức bây giờ càng ngẫm lại càng thấy hay và càng thấy đúng quá.

Năm 1971 đến, được điều biên chế hẳn về cho Ủy ban Cách mạng Lâm thời tỉnh Kon Tum theo yêu cầu của Đ/c Lê Hồng Tân lúc này là Ủy viên Thư ký Ủy ban, cho đến đầu tháng 5 năm 1972.

UBCM Lâm thời tỉnh lúc này do Đ/c A Chương (A Hoa) làm Chủ tịch; về Đảng Đ/c Rét (Phan Vững) Ủy viên Thường vụ trực tiếp phụ trách; chú Viên (Phú) lúc này là Ủy viên Ủy Ban - Chánh văn phòng, sau giải phóng là Chủ tịch huyện Đắk Glei; chú Tụ (trùng tên với chú Tụ Bí thư H 80 thay chú Đăng đã hy sinh); chú Đức (trùng tên chú Đức Chánh văn phòng Tỉnh Ủy) phụ trách thi đua - khen thưởng; chú Nhật Tăng phụ trách Kế hoạch, đến khi nghỉ hưu là Chủ nhiệm UB Kế hoạch tỉnh Gia Lai; anh Giao làm thống kê được nghỉ hưu sớm khi đang phó Chủ tịch huyện Chư Xê; chú Thái Dư phụ trách pháp luật, khi nghỉ hưu là Chánh án Tòa án tỉnh, cùng nhiều cán bộ, nhân viên khác như chị Sương y tá, chị Nga đánh máy, y Bia, y Vía...,

Tôi được giao nhiệm vụ làm liên lạc của đơn vị đồng thời với nhiệm vụ bảo vệ sự an toàn cho chú Rét, chú Lê Hồng Tân; A Nhoi (trước khi nghĩ hưu từng là Bí thư huyện Ngọc Hồi, phó Chủ tịch UBMTr tỉnh, Tỉnh Ủy viên - phó Chủ tịch Hội đồng Nhân dân tỉnh Kon Tum) làm nhiệm vụ bảo vệ sự an toàn cho chú Rét, chú A Chương, đây cũng là bộ phận nằm trong Bộ chỉ huy tiền phương của Tỉnh Ủy thường xuyên đóng ở phía trước thuộc các vùng đông Quận Đắk Tô (H 80), đông Kon Hring (H 9), đông - bắc thị xã Kon Tum (H 5) chấp nhận đương đầu với ác liệt, nguy hiểm, mang vác nặng nhọc nhưng phải hết sức gọn gàng, liên tục di chuyển nơi ở, liên tục đào hầm, nhằm đối phó với các phương tiện chiến tranh hiện đại của địch.

Được đương đầu với bao ác liệt, nguy hiểm, gian lao, được các Đ/c Lãnh đạo quan tâm, các chú quan tâm coi tôi như con, như cháu, như người chiến sĩ mưu trí - dũng cảm nên lòng luôn khấp khởi, tự hào, không muốn bị cho về phía sau. Có lẽ do vậy nên nhiều lúc cái vết thương kín trong cột sống tôi quặn đau dữ dội song tôi quyết cố kìm nén, không để cho các chú biết. Và rồi tôi được kết nạp vào Đảng Cộng Sản Việt Nam ngày 23/11/1971 tại Chi bộ UBCM Lâm thời tỉnh, cứ như thế tôi lăn lộn công tác, phục vụ chiến dịch giải phóng Đắk Tô - Tân Cảnh năm 1972 cho đến tháng 5 năm 1972 được biên chế tăng cường hẳn về H 5 hoạt động trong vùng địch hậu phía Tây - Nam (nay là toàn bộ phía Tây - Nam TP Kon Tum, nam sông Đắk Bla).

Ngay những ngày đầu tháng 5 năm 1966 ở Trạm trú thuộc Ban tổ chức Tỉnh Ủy quản lý, đóng ở địa phận làng Tân Ba, xã Tê Xăng, (H 80) nay là huyện Tu Mơ Rông, tỉnh Kon Tum; (H 5) tức thị xã Kon Tum ngày nay đã hấp dẫn tôi. Tuy vậy theo sự phân công của tổ chức Đảng về công tác ngành Giao bưu, rồi Ủy Ban Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tỉnh Kon Tum, nhưng từ năm 1969 luôn được biệt phái đi phục vụ cho Bộ chỉ huy tiền phương của Tỉnh ủy.

THỊ XÃ KON TUM (H 5) TỪ GIỮA THÁNG 5/1972.

Sau một tuần được tỉnh trang bị một số kiến thức công tác vùng địch hậu, trong đó có bài “Tấn công thì thuận lợi, co thủ sẽ khó khăn” của đồng chí Võ Chí Công lúc này là Bí thư Khu ủy khu V, do đồng chí Trần Thanh Dân - Uỷ viên Thường vụ Tỉnh ủy Kon Tum giảng, làm tôi vô cùng thấm thía (Bây giờ càng ngẫm, càng thấm thía, càng kính phục các bậc Cách Mạng tiền bối nói chung, các đồng chí ấy nói riêng).

Giữa tháng 5/1972, tôi mới thật sự được hội ngộ cùng với những Cán bộ - Chiến sĩ (H 5), biên chế về Đội Vũ trang Tuyên truyền có căn cứ đóng trên đất Sa Thầy, cách sông Pô Kô 2 km và hoạt động ở Tây Nam Thị xã Kon Tum, bao gồm từ xã Kroong, Trung Nghĩa và toàn bộ phía nam sông Đắk Bla.

6 THÁNG CUỐI NĂM 1972.

H5 không gian luôn rền vang tiếng bom rơi - đạn nổ, máy bay gào thét, khói - bụi mịt mùng; mặt đất dày đặc các binh chủng ngụy quân. Trong tôi nảy sinh ngay suy nghĩ phải bằng mọi cách nắm bắt và làm chủ cho được các động thái tình hình địch – ta, khẩn trương thông thạo địa hình - địa bàn.

Sau khi không được lệnh tấn công chiếm giữ toàn bộ phía Nam Thị xã Kon Tum, cuối tháng 5/1972, khoảng 2000 quân của 2 trung đoàn 48 và 41 thuộc sư đoàn 320 ta có lệnh rút khỏi mặt trận Tây Nam thị xã Kon Tum. Còn lại Trung đoàn 95 độc lập trực thuộc Bộ Tư lệnh Tây nguyên (B3) với khoảng 1000 quân; Bộ Chỉ huy tiền phương của Tỉnh đội có gần 100 quân tiểu đoàn 304 – 406; 40 quân Đại đội 107 Huyện đội Sa Thầy; Bộ Chỉ huy tiền phương của Thị ủy Kon Tum có 20 quân Thị đội và 4 đội công tác vùng địch hậu bám trụ lại nhằm bảo đảm yêu cầu phòng thủ khi địch phản kích, giữ thế tiến công khi có lệnh.

Vốn tính hay tò mò về chiến trận, nên được anh em trinh sát quân chủ lực cho tôi chứng kiến một số trận đánh từ đài quan sát thông qua ống nhòm. Mặt khác hay nghe lại các lời kể của lính ta, lòng tôi tràn đầy niềm tin tất thắng, háo hức xông pha, và “may” là không một thất bại nào trước các âm mưu thủ đoạn của địch.

Địch biết đại quân của sư 320 ta đã rút (thực ra cũng chỉ 2000 quân nói trên thôi), tháng 6/1972 chúng tổ chức phản kích trên toàn tuyến Tây Nam cố sức chiếm giữ các điểm cao 673, 727 (Chư Rệt, còn gọi là đồi 3 chấm), 610, cao độ 580 (trận địa pháo tây Tân Điền), 632, 953 (Chư Pao), 868 (Chư Thoi) ... các trận đánh liên tục diễn ra khốc liệt. Pháo bầy, bom tấn gào thét đinh tai, nhức óc, bộ binh chúng tung ra cũng không ít: Các Liên đoàn biệt động quân số 6, số 22, số 23, Trung đoàn 45 sư 23, 4 Tiểu đoàn bảo an 251, 252, 253, 254 và các lực lượng khác, có lẽ chúng định làm cỏ số quân ta còn lại. Đến khoảng tháng 8/1972 địch cũng tìm ra và tập kích được vào Bộ Chỉ huy tiền phương Tỉnh đội Kon Tum, không biết chúng tập kích cái kiểu gì, mà ta chẳng mất một mạng nào.

Trung đoàn 95 và các lực lượng địa phương vẫn kiên cường bám trụ, “hiền thục” chiến đấu cho non sông đất nước thu về một mối. Đương nhiên cả bên chính nghĩa lẫn bên phi nghĩa không thể nào tránh được bao tang tóc - bi ai. Bên cạnh tiếng bom rơi - đạn pháo của địch và các trận đánh bằng bộ binh, luôn đan xen với tiếng cuốc xẻng của Công binh ta làm ngầm (cầu chìm) băng qua sông Sê San còn gọi là Pô Kô (đoạn ngay ngã 3 Sa Xia – Pô Kô) và mở hơn 20 km đường tiếp theo có địa hình khá hiểm trở lên đỉnh núi Chư Pao.

Tháng 10/1972 - Đây cũng là tháng sẽ ký kết hiệp định Pa ri, nhưng Mỹ Ngụy lật lọng nên kéo dài đến 27/01/1973, ta kéo 2 khẩu pháo 85 ly nòng dài lên đỉnh núi Chư Pao có độ cao 953 m, cách trung tâm Thị xã Kon Tum 12 Km về phía Nam, Tây quốc lộ 14 - 500 m (tính theo đường chim bay), ta bắn thẳng xuống đoàn xe quân sự Ngụy tăng viện cho Kon Tum. Pháo kích vào các khu quân sự trong và ven Thị xã làm cho địch hết sức khủng khiếp, kinh ngạc. Chúng phản pháo không xong, bởi bị các bãi pháo của ta đặt ở Sa Thầy khống chế, còn ném bom bằng các loại phản lực thông thường thì bị cao xạ 37 ly, đại liên 30, 12,7 ly ta bắn hạ nên cũng không được.

Sau 2 ngày ta chủ động rút sạch. Ngay sau đó chúng sử dụng cả bom chùm địa lôi CBU-55 hủy diệt (loại bom nhiệt đốt cháy hết ô xy trong phạm vi bán kính hơn km)và Đài Phát thanh Sài Gòn đã đưa tin “Quân đội Việt Nam Cộng Hoà” chiến thắng lẫy lừng, tiêu diệt được hàng ngàn Cộng quân thuộc trung đoàn 95, trên chiến trường Kon Tum. Nghe vậy quân ta cười đến là vỡ bụng, bởi có ai ở trên đó nữa đâu mà bị tiêu diệt. Sau mấy ngày bom hết tác dụng, Cán bộ - Chiến sỹ 95 đã kịp thời có mặt, biệt động quân Ngụy cũng tiến lên, thế là chúng lại nếm đòn gọn ghẽ. Cứ sau mỗi trận bom, pháo gào thét bộ binh chúng tiến lên - rồi lui, lui - rồi tiến mấy tháng trời ròng rã, đến mức số tàn quân biệt động ngụy đã phải thốt lên những lời cay nghiệt:

Chư Pao ai oán hồn trong gió

Mỗi tấc khăn tang, một tấc đường.

Trên điểm cao 727 (Chư Rệt) cách trung tâm Thị xã Kon Tum về phía Tây Nam theo đường thẳng 15 Km, các điểm cao trong vùng cũng diễn ra như ở Chư Pao, song khác nhau ở chỗ ta không đưa pháo 85 ly nòng dài lên đồi. Nắm chắc tâm trạng của địch nên mỗi khi kết thúc bài gọi loa địch vận tôi thường đọc tiếp 4 câu:



Đô la, Tổng Thống cái nỗi gì,

Làm theo Đế quốc Việt Nam mình bi ai

Mau buông súng, sum vầy cùng gia tộc

Giang sơn mình ai đã cắt làm đôi?

Các đội công tác vùng địch hậu của H5 được mùa đẩy mạnh hoạt động chính trị, làm rõ âm mưu bán nước của chính quyền Sài Gòn và cướp nước của Đế quốc Mỹ. Tổ chức gọi loa tuyên truyền chính sách hoà hợp dân tộc, củng cố lòng tin trong quần chúng vào sự nghiệp chính nghĩa của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam sẽ sớm đến ngày thắng lợi cuối cùng, Bắc Nam sum họp một nhà.

Tôi được biên chế vào đội công tác Vũ trang Tuyên truyền do anh Trần Đình Phẩm làm đội trưởng, nhưng sinh hoạt Đảng ghép với đội công tác A 35 do anh A Lập làm Bí thư. Đội Vũ trang Tuyên truyền có phạm vi hoạt động trên toàn tuyến Tây – Nam Thị xã Kon Tum, thế là ba lô, súng đạn, cuốc xẻng đào công sự, gạo, mắm, ăng gô nấu cơm và cái loa tay có hiệu điện thế 6 vôn. Nghĩa là trên vai không thiếu thứ gì để sống, công tác, sinh hoạt hàng chục ngày. Khi thì đi xuống Sa Bình – Sa Thầy để gọi loa qua Kroong – Trung Nghĩa – nay là xã Kroong. Khi đến Tà Rạp – Ngô Thanh (nay thuộc xã Ya Chim), lúc xuống Tân Điền nay thuộc xã Đoàn Kết, Phương Hoà (nay là phường Nguyễn Trãi), khu dồn Tân Phú (nay thuộc phường Trần Hưng Đạo),... Nhưng nơi ở chủ yếu là vùng Plei Grong còn có các cách gọi khác là làng Kruang, hoặc A Rầng nay thuộc xã Ya Chim, Thị xã Kon Tum, cách làng khoảng 700 m về phía Đông đông - Bắc. Thực ra thì làng ở bên kia suối ta ở bên này suối – cách trận địa pháo Tân Điền khoảng 600 m về phía Nam. Cứ mỗi khi gọi loa anh – em chúng tôi lại được địch cho thưởng thức ít nhất là một trận pháo.

Có một lần đội Vũ trang Tuyên truyền phối hợp với một tổ vũ trang của Thị đội, tổng quân số khoảng 10 người, hăng hái tổ chức trận phục kích bọn địa phương quân Ngụy trên tuyến đường từ khu dồn Tân Phú đi lên Plei Kruang đoạn cách khu dồn khoảng 700 m về phía Tây nhưng lại không thành công. Do có sự ngây ngô không thể hiểu nỗi của một lính mới Thị đội. Phục kích mà lại ra ngồi phía trước gốc cây, dân đi đường phát hiện được họ chạy, bị lộ nên lệnh rút lui ngay. Ôi thôi! Chuyện xảy ra hết ngõ nói! Nếu gặp phải địa phương quân Ngụy ít nhất và nhanh lắm chúng ta hy sinh cũng đến 4 – 5 người, hết 40 – 50% quân số rồi còn gì?!

Một lần khác, đội bám biên phía đông vùng ruộng dọc suối Ia Re Bang, đoạn cách khu dồn Tân Phú khoảng 800 m về phía Tây Nam để đón dân, giác ngộ Cách mạng cho họ. Nếu được, sẽ xây dựng thành Cơ sở Cách mạng trong vùng địch hậu. Đến 16 giờ gặp phải 1 toán lính 10 tên chúng cứ đi - cứ đi mỗi lúc một gần về phía chúng tôi. Trong lúc đó, chúng tôi chỉ có 3 người. Khi 2 tên đã lọt vào trong vòng cự ly 30 m, không còn cách nào khác anh Phẩm lệnh tôi và anh A Chiêu, cả 3 cùng nổ súng. Thế là 5 tên đi đầu không thể sống được, 5 tên còn lại bỏ chạy thục mạng. Chúng ta cũng rút luôn. Buổi đón dân ấy không thành.

Sống bên dân trong vùng địch hậu, tôi càng thêm thấm thía sức mạnh của Chính nghĩa, của sự nghiệp Cách mạng giải phóng dân tộc, giành Độc lập - Tự do và toàn vẹn lãnh thổ, tiến lên Chủ nghĩa Xã hội dưới sự Lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam, của Bác Hồ.

Tiếng là Ấp Trưởng A Jiêr, Trung đội Trưởng nghĩa quân A Pốp ngụy tại làng Kruang, nhưng nói chung cả làng đều là cơ sở Cách mạng của ta, tin tưởng ta đến cùng. Đây thật sự là một căn cứ lõm của H5 trong lòng địch hậu. Ngay từ sau khi Hiệp định Giơ Ne Vơ ký kết năm 1954, các Đ/c Đinh Tú, Nhất (còn có tên là Vinh) đã thay nhau bám trụ ở đây rồi. Đến năm 1962 có thêm Đ/c Xuân Hồng, càng về sau càng có khá đông cán bộ ta. Và “căn cứ” này tiếp tục được phát triển đến thế hệ tôi và tới 16/3/1975 - Ngày tỉnh Kon Tum được hoàn toàn giải phóng. 21 năm liền, từ 1954-1975 cả Plei Gruang được địch quân sự hoá từ trẻ đến già sống trong sự nuông chiều – mua chuộc thường xuyên của Mỹ - Ngụy, gần như không thiếu thứ gì, luôn được chúng cấp lương - bổng, quần – áo, gạo, mắm, cá, thịt, sữa, đường, bánh, kẹo, ...và đương nhiên cũng kèm theo các biện pháp chẳng nhẹ tay chút nào. A Jiêr, A Pốp và nhiều người khác nữa từng bị chúng bắt tra tấn, tù đày nhiều lần nhưng vẫn một lòng trung kiên, không khai báo nơi ở của các đội công tác H5 đóng trên địa bàn của làng. Với làng Hra cũng tương tự như vậy (làng bị bệnh phong nhẹ, tại đây, địch bố trí ở sát trên cánh đồng Phương Hoà về phía Nam giáp với bìa rừng). Sau giải phóng làng được sát nhập với làng Hnor.

Ơi! Lòng dân vĩ đại biết bao! Thử hỏi, làm sao ta có thể bí mật được với đồng bào dân tộc địa phương? Khi mà đường đi của con chuột, con sóc cũng không thể qua mặt được họ. Việc phát hiện các dấu vết lạ trong vùng họ sống, luôn là khả năng bẩm sinh của họ, huống hồ chi chúng ta những con người lù lù, sống phải nấu - nướng, ăn - uống, tắm - giặt, vệ sinh, đi - lại hàng ngày,... cái phương châm đi không dấu, nấu không khói, nói không tiếng chỉ có tác dụng che mắt, bịt tai đối với các lực lượng ngoại lai mà thôi.

Mọi thông tin tâm lý chiến, mị dân của Mỹ - Ngụy, diễn biến tư tưởng của Tề - Ngụy trong vùng từng thời điểm đều được Già làng và cũng là Ấp Trưởng A Jiêr, Trung Đội Trưởng nghĩa quân A Pốp “Ngụy”, ... kịp thời báo cáo với ta, kể cả sự xuất hiện trở lại của tổ chức FulRô trên địa bàn vào đầu năm 1974.

Địch thiệt hại quá nặng, co cụm lại trong nội thị. Ta không có lệnh tiến công, đến tháng 12/1972 Trung đoàn 95 chủ lực cũng được điều đi nơi khác, chỉ để lại một đội công tác. Trên địa bàn còn lại toàn là cánh địa phương khoảng 50 - 60 người của H 5, H 67 ( mật danh Sa Thầy bây giờ) tăng cường xuống phối hợp bám trụ. Thực ra đến thời điểm này H 67 cũng chẳng còn cái đồn bót giặc nào để mà bám, mà đánh cả. Dưới sự chỉ đạo, bày binh bố trận của Thị ủy (H5) lúc bây giờ đứng đầu là Đ/c Nguyễn Thế Vũ - Bí Thư, anh - em ta cũng làm mưa làm gió khắp nơi, gọi loa vào Kroong, Trung Nghĩa, gọi tới Tà Rạp- Plei Sa, gọi xuống Tân Điền – Phương Hoà, gọi qua Tân Phú – Kép Ram... mỗi lần như vậy anh – em lại được thưởng thức những tràng pháo 105 ly của địch, bên ta cũng có người rùng mình nhưng nhìn chung chẳng ngán chút nào.

Có một lần, tổ 3 người do chị Khâm làm Tổ Trưởng cùng chị Đậu, anh Danh gọi loa xuống Tân Điền, địch không đáp trả bằng pháo nữa mà chúng chơi bằng bộ binh mò lên gần đến nơi. Ta phát hiện được bắn phủ đầu rồi rút tuốt, nó bắn vung vãi tiểu liên, M 79. Kết quả do chủ quan không xoắn quần dài lên nên 2 chị bị rách 4 cái ống quần, mất một cái pi đông nước, một đèn pin, 1 cuốc và 1 xẻng. Đây cũng chỉ là một trong vô số những chuyện thật của những người trong cuộc, mà sẽ cứ như chuyện bịa, “chuyện cổ tích” đối với người ngoài cuộc và thế hệ sau này. Nay 3 người này vẫn đang còn sống “nhăn răng”, anh Danh ở xã Đắk La - huyện Đắk Hà, chị Khâm phường Nguyễn Trãi - Thị xã Kon Tum, chị Đậu nghe đâu ở huyện Đắk Đoa gì đó.

Nói vậy không có nghĩa ta là “Thánh” nên hoàn toàn vô sự. Trong sáu tháng cuối năm 1972, nếu giới hạn ở mức khái quát từng trận đánh thì cũng đã vô số chuyện kể. Chẳng hạn như: gọi là trận đánh vào ấp Lâu Ngo (Plei Po Tau) của 40 cán bộ - chiến sỹ thuộc tiểu đoàn (D: 304), đại đội (C: 107) đảm trách, nhưng nếu nói cho đúng với bản chất vấn đề thì ta chỉ có việc đi vào tiếp quản ấp một cách êm thắm, vì lực lượng nghĩa quân tại chỗ của chúng đã bị tê liệt ý chí. Nhưng chẳng may khoảng 1 giờ sau, bọn Bảo an hành quân dã chiến đóng quân gần đó, mà mình không biết, chúng đánh vào, ta hy sinh dưới chục Đ/c, lúc bây giờ được coi là một thất bại nặng nề.

Cánh Trung đoàn 95 chủ lực trên toàn tuyến từ Chư Thoi đến Chư Rệt 6 tháng cuối năm 1972 hy sinh cũng khoảng dưới 50 quân, chủ yếu do bom, pháo trên chốt và trong quá trình lên - xuống chốt. Thường mỗi chốt ta biên chế 9 Cán bộ - Chiến sỹ được trang bị 3 đại liên, 3 trung liên, 9 - AK, 6 - B40, 3 - M79, 3 cối 60 ly chia thành 3 cụm công sự. Khoảng cách mỗi cụm thường trên - dưới 100 m, linh hoạt tuỳ địa hình nhưng tuân theo kiểu hình tam giác, sao cho luôn nhìn thấy được nhau. Mỗi cụm có 3 công sự, mỗi công sự một Cán bộ hoặc Chiến sỹ cách nhau 10 đến 15 m nên rất khó mà hy sinh, với cách đó ta sẵn sàng chạm trán với máy bay, bộ binh trong phạm vi bán kính 1 km và địch cứ nghĩ ta có hàng trăm quân.

Các lực lượng của H5 chỉ có anh Phụng hy sinh do vướng mìn trên đường đi. Mặc dù đây là lực lượng luôn phải vượt qua chiến tuyến quân sự để vào với dân - với cơ sở Cách mạng, nếu sơ hở sẽ được địch tặng cho các loại mìn, các ổ phục kích, tập kích, những tràng pháo khi đang gọi loa hoặc bị lộ vết tích khác trong vùng địch hậu.

Sắp kết thúc năm 1972, tin thắng lợi trên mặt trận ngoại giao từ Pari tới tấp bay về. H5 nhộn nhịp hẳn lên bởi các hoạt động chính trị - tư tưởng nhằm tiếp tục phát huy cho được ý chí tiến công, chống ảo tưởng hoà bình và các biểu hiện ham sống sợ chết. Xây dựng các phương án mục tiêu giữ đất, giữ dân, dành chính quyền bằng cả 3 phương pháp: chính trị, quân sự và binh vận.

NĂM 1973.

Thực hiện Hiệp định Pari 27/01/1973 trên địa bàn Tây Nam Thị xã Kon Tum là: Cắm cờ ta, giữ đất, giữ dân, tiếp tục xây dựng cơ sở chính quyền Cách mạng, ngưng chiến nhưng không thể không chống địch tái chiếm và rồi không thể ngưng chiến được, nên phải liên tục diễn ra những trận đánh bi - hùng, khốc liệt giữa chủ lực ta với chủ lực Ngụy, địa phương quân ta với địa phương quân Ngụy, Cán bộ H 5 với Ngụy quân - Ngụy quyền Kon Tum đến cuối tháng /1973 tạm thời lắng xuống.

Để thích ứng với tình hình nhiệm vụ, mới đầu tháng 6/1973, 4 Đội công tác H5 trên địa bàn Tây Nam thị là A 34, A 35, A 33 và Đội vũ trang - Tuyên truyền được cũng cố sát nhập lại làm một, đặt tên là 15 A (vì biệt danh của Khu Ủy - Khu V lúc bây giờ là A 15). Nay còn nhớ 21 người, trong đó có: 5 nữ, dân tộc 12, kinh 9. Dân tộc gồm các anh, em : A Prép, A Dết, A Lam, A Niếu, A Jú, A Púp, A Hoa; các chị : Y Bon, Y Nhung, Y Nhênh, Y Giãy. Kinh gồm các anh, em: Trần Quang Hiền, No, Phi, Từ, Dũng, Minh, Đinh và tôi; nữ duy nhất cũng có tên là Hoa (Hoa Lầu) xinh gái, hát hay.

Đội 15 A do anh Trần Quang Hiền làm Bí thư Chi bộ, Anh A Prép Phó Bí thư kiêm Đội trưởng. Tôi 21 tuổi Chi Ủy viên, Đội phó (chỉ lớn tuổi hơn 2 người) cho đến sau ngày giải phóng Kon Tum 16/3/1975 chuyển sang vai trò mới.

Đội 15 A không đơn độc chỉ có vậy! Bên cạnh vẫn có nhiều lực lượng khác phối hợp cùng hoạt động trên địa bàn, tất nhiên là cũng không đông.

Chuyện cắm cờ trên địa bàn Tây - Nam lúc này, về lực lượng ta chỉ có khoảng gần trăm quân của H5, C107, đội công tác của Sư 10 (6 Đ/c), kể cả Bộ chỉ huy tiền phương của H5 cũng do Đ/c Nguyễn Thế Vũ – Bí thư, Tổng chỉ huy, đóng ở phía đông Làng Kruang, nam Tân Điền, tây Làng Ra (giờ không còn nữa) trung bình khoảng 2 km. Đại bộ phận là dự bị, lực lượng thật sự xuất kích cũng chỉ hơn 25 người chia làm 3 tổ:

Tôi thuộc tổ 3 cắm cờ cách Plei Kram còn gọi là làng Klét 1,5 km về phía đông - bắc, do anh Tấn Sĩ chỉ huy (thay anh Trần Đình Phẩm) có 7 người, gồm H5: 3, Sa Thầy: 1, Đội công tác của Trung đoàn 95: 3. Tổ có 2 - B40 do anh – em 95 đảm trách, còn lại là A K – 47. (Sau ngày Nam - Bắc một nhà anh Tấn Sĩ xin về công tác và nghỉ hưu ở Đà Nẵng, chức vụ cao nhất trước khi nghỉ hưu nghe đâu là Trưởng phòng hay hiệu phó của đơn vị nào đó). 8 giờ sáng ngày 27/01/1973 một đại đội Ngụy tiếp cận đến cách chỗ chúng tôi cắm cờ khoảng 60 mét, anh Sĩ hỏi tôi: “ Bắn được chưa em?” thấy chúng chưa phát hiện mình nên tôi nói từ từ để gần thêm chút nữa. Khoảng tầm 40 m anh hỏi tiếp, tôi nói: “Anh lệnh bắn đi!” - thế là B 40 ta đùng - đoàng, đùng – đoàng, A K – 47 cũng ngay lập tức rẹt rẹt tiếp theo. Hai bên bắn nhau khoảng 15 phút, ta không có việc gì, tôi ngắt nhỏ anh Tấn Sĩ: “Anh lệnh rút được rồi đó!”. Sau đó, tôi dẫn anh - em rút về phía làng Klét (phía nam), địch thì lom khom bắn đuổi theo chúng tôi về phía tây, nên chẳng ai hề hấn gì. Mệt gần chết nhưng cũng phì cười, sau 2 giờ phải đi vòng quanh để về đến nơi trú ngụ, tạm gọi là an toàn nhưng thực ra cũng chỉ cách chỗ ta cắm cờ khoảng 1,5 km nghỉ ngơi, ăn uống. Đến chiều; tôi, chị Tám (Tám Ánh), A Hoa, 1 lính của Sa Thầy và 3 bộ đội khi sáng tiếp tục mò xuống nơi cũ, thấy địch thay cờ ta bằng cờ chúng, đi kiểm tra quan sát hiện trường trong phạm vi bán kính 100 m không phát hiện có mìn, bộ binh mai phục thế là tạm thời yên tâm, chờ trời mờ tối, tôi mò ra thay cờ địch bằng cờ ta, xong quay về công sự. {Đương nhiên vẫn phải luôn luôn cảnh giác sẵn sàng nổ súng và rút lui, tấn công – phòng thủ phải hết sức nhuần nhuyễn mà! Ta chỉ có 6 người, trong đó có 1 nữ là chị Tám (còn gọi là Tám Ánh hiện đang ở tổ dân phố 5, phường Quyết Thắng)}. Tôi bật loa gọi: “Hỡi anh – em binh lính, sỹ quan và ngụy quyền Sài Gòn, Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, Nguyễn Văn Thiệu tên lính đánh thuê cho giặc Pháp trước đây, nay tiếp tục bán nước ta cho Đế quốc Mỹ... hiệp định Pari đã ký kết, nghe theo lời Mặt trận.... hãy bỏ súng về với gia đình, vợ con ...”. Được 15 phút, bất ngờ từ hướng chúng tôi rút lui khi sáng có tiếng vọng lại “bỏ súng về rồi”, thế là ta rút. Lần này về còn cách nơi trú ẩn khoảng trăm mét, mới được nhận những tràn pháo 105 ly chúng tặng, tất cả đều kịp vào hầm chữ A. Đêm đã khuya chúng hết bắn, lấy sắn luộc đã chuẩn bị từ chiều ra khỏi hầm liên hoan no nê. Trong một ngày tổ chúng tôi được ứng xử với địch trong 2 tình huống éo le, mà vẫn bình an - vô sự, đúng là chuyện thật mà cứ như bịa. Qua ngày hôm sau, chúng tôi trở về trung tâm chỉ huy (sau này nôm na hay gọi là 2 keo liều mạng).

Tổ 2 cắm cờ ở vùng Đông - Nam Tân Điền, cách Phương Hoà về phía Nam khoảng 1,5 km, quân số cũng chỉ 7 người (có sự tham gia của anh Khắc Sỹ - khi còn công tác chức vụ cao nhất là phó Chủ Tịch Hội đồng nhân dân huyện Đắk Hà, hiện đang nghỉ hưu tại thị xã Kon Tum). Đây là tổ trở về điểm xuất binh sớm nhất, theo lời các anh kể lại: địch kéo quân lên đông quá, nếu ta nổ súng thì bất lợi hoàn toàn thuộc về ta, chủ động lẳng lặng rút là phương án tối ưu nhất.

Tổ 1 cắm cờ ở vùng giữa Tân Điền – Tà Rạp, thuộc xã Ya Chim, có hơn chục người, do anh Phô bên thị đội chỉ huy trưởng, anh Hữu bên Công an thị chỉ huy phó, chia thành 2 nhóm (anh Phô, anh Hữu giống anh Tấn Sỹ sau ngày Nam - Bắc một nhà, hai anh cũng xin về công tác và nghỉ hưu ở Đà Nẵng, Quảng Nam, không biết chức vụ cao nhất trước khi nghỉ là gì!). Đây là tổ “oái oăm nhất”! Nhóm anh Hữu đánh trả dữ dội với cả đại đội ngụy gần 2 ngày một đêm, chiều ngày thứ 2 anh Hữu bị thương quá nặng mới chịu tìm đường rút đến tối về tới trung tâm chỉ huy nằm giữa vùng Plei Kruang – Tân Điền.

Bọn Ngụy quân - Ngụy quyền đã quá run sợ, nên sau chiến dịch khoảng một tháng chúng chưa có phản ứng gì đáng kể. Bộ chỉ huy tiền phương của Thị uỷ cũng rút, các đội công tác vẫn đều đều bám đất, bám dân.

Đến tháng 3 lại tiếp tục xuất hiện các tổ trinh sát, đội công tác của sư 10, của 95 về phối hợp. Bộ chỉ huy Trung đoàn 66 chuyển đến đóng phía tây cách sông Pô Kô khoảng 2 km (nay thuộc xã Ya Ly - huyện Sa Thầy). Bộ chỉ huy Trung đoàn 95 cũng trở về đóng cách phía tây Plei Po Tau khoảng 8 km (nay nắm trong ranh giới giữa xã Ya Chim thị xã Kon Tum với huyện Chư Pă). Theo kinh nghiệm sắp có đánh lớn trong vùng hoạt động của đơn vị chúng tôi đây!

Đúng vậy, tháng 4/1973, Trung đoàn 66 kéo quân vào Kroong – Trung Nghĩa. Sang đầu tháng 5/1973 còn có thêm một số quân của Trung đoàn 28, 24 tham gia với 66 (chắc là tham gia cho vui thôi, cùng Sư đoàn 10 mà); 95 đưa quân lên đồi Chư rệt, Chư Pao. Lúc này súng đạn ta cũng khá hơn nhiều so với thời chiến dịch 1972 và vẫn áp dụng chiến thuật chiếm giữ chốt, buộc quân chủ lực địch tung quân ra đánh chiếm. Lập các đài quan sát theo dõi bằng ống nhòm, tổ chức tập kích tiêu hao, tiêu diệt địch, khi thì trên đường chúng đang tiến quân bao vây chốt ta, lúc vào các điểm đóng quân dã chiến của chúng gần 2 tháng liền. Mỗi sự việc có nhiều người mô tả, nhiều cách kể lại khác nhau, là người phải luôn luôn bám sát, nắm vững các phối hợp cụ thể các lực lượng trên địa bàn, tôi nhận thấy với chủ lực ta lúc này thật ra muốn đánh thì đánh, muốn nghỉ thì nghỉ chứ các cuộc phản kích của địch chẳng ăn thua gì.

Các Đội công tác H 5 vui thì cũng thật là vui, nhưng khổ - cũng ơi là khổ. Đầu óc, tai, mắt, chân, tay lúc nào cũng căng như dây đàn. Phải đi - về qua 2 giới tuyến quân sự luôn luôn biến động, đan xen lẫn nhau, không rõ ràng. Mà khổ nhất cũng lại là tôi, không biết cái số tôi nó thế nào ấy, mới sau 2 tháng được hội ngộ với H 5 mà tôi đã tự nhiên trở thành và luôn luôn là anh “lính” dẫn đường đi xuống vùng địch (tôi dùng từ “tự nhiên trở thành” vì chẳng có ai phân công cả, nhưng cứ làm cái loại việc chẳng ai dành, bởi thấy sốt ruột nên làm thôi!)

Đến đầu tháng 7/1973 các trung đoàn 24, 28 thu quân về phía bắc thị xã Kon Tum; 66 thu quân về xung quanh bộ chỉ huy đang đóng gần căn cứ chúng tôi như nói trên.

Hồi tưởng đến đây tôi không thể không nhớ đến sự kiện hết sức vinh dự, lúc bây giờ tôi là Uỷ viên Ban chấp hành Thị đoàn cùng anh Hoàng Hà Đoàn viên (nay là Phó Giám đốc Bảo hiểm Xã hội Kon Tum) được cử đi dự Đại hội chiến sĩ thi đua Quyết thắng của Trung đoàn 66. Anh Hưng lúc bây giờ là Bí thư Thị đoàn (từ năm 1974 đến nay không biết anh ở đâu) - người đã viết, trang bị cho tôi bài phát biểu làm sôi động lòng quân. Bài phát biểu ấy đã “ bị ” từng tràng vỗ tay kéo dài ngắt quãng nhiều lần, trở thành hiện tượng của Đoàn viên thanh niên Hồ Chí Minh H 5 trong những giờ giải lao sau đó. Cũng chính vì vậy nên tôi “ xấu hổ ”, bởi lúc bây giờ tôi chỉ là người có công đọc chứ làm gì đã có năng lực viết lách được xúc tích, hùng dũng, chứa chan chí trai cứu nước đến như vậy?!

Chủ lực ta thu quân, chiến dịch chấm dứt. Địch ra oai với dân bằng thủ đoạn đóng chốt, hành quân “tảo thanh” dày đặc xung quanh các làng, thôn, ấp. Trước, trong và sau chiến dịch lực lượng H 5 vô cùng gian khổ nhưng chẳng hy sinh ai. Các đội công tác H 5 không thể bám được địa bàn, đến nỗi trong ta có một số Đ/c đưa ra chính kiến đánh giá địch đã mạnh hẳn lên rồi.

Biết được thủ đoạn này của địch, Đ/c Nguyễn Thế Vũ cũng cho thu quân H 5 về Tây sông Pô Kô (Sê San), tăng cường công tác giáo dục chính trị - lãnh đạo tư tưởng làm rõ những thắng lợi của ta – các thất bại của địch, củng cố tổ chức từ nhiều đội thành đội công tác 15 A như đã nêu ở phần trên.

Tăng cường được nhận thức thắng lợi của ta, thất bại của địch thì nội bộ ta cũng đồng thời xuất hiện tư tưởng ham sống sợ chết, hoà bình chủ nghĩa, trông chờ dựa dẫm các đòn tấn công quân sự của chủ lực, phát sinh những lập luận cần bảo tồn lực lượng nghe rất có lý – có tình. Những tư tưởng này gây nên không ít khó khăn trở ngại cho quyết tâm mở đường xuống lại địa bàn bám dân – bám đất (lúc này Đ/c Trần Quang Hiền Bí thư chi bộ đi học chính trị ở Liên Khu 5), tấn công địch trên hai mặt trận chính trị, binh vận, góp phần tạo thành sức mạnh tổng hợp, sẵn sàng giải phóng tỉnh nhà khi thời cơ đến. Tôi thật sự thấm thía những bài học vỡ lòng về: Mâu thuẫn địch – ta là một mất một còn, mâu thuẫn nội bộ là gay gắt trong những ngày tháng ấy và cả sau này.

Khoảng giữa tháng 8/ 1973 tiếp thu Nghị quyết của Thị Uỷ do đồng chí Mai Tân - Uỷ viên Thường vụ Thị Uỷ quán triệt, tôi đề xuất tăng cường cho tôi đồng chí Nguyễn Cao lúc này là cán bộ liên lạc của Thị Uỷ đang ở phía Đông - Bắc, được Đ/c Mai Tân hứa đáp ứng. Cuối tháng 8/ 1973 Đ/c Nguyễn Cao có mặt, tôi đề xuất Đ/c A Prếp tổ chức họp Chi bộ, họp Đội bàn phương án mở đường bám lại địa bàn. Phương án được chọn là tôi và Đ/c Cao xác định sẵn sàng hy sinh, hai anh – em tôi ba lô, súng - đạn nai nịt chỉnh tề, vui vẻ lên đường đi vào chỗ có thể gọi là chẳng hy vọng gì quay trở lại được. Màn đêm buông xuống, chúng tôi vượt sông Pô Kô, mò mẫm băng rừng đi thêm 1 km nữa ngồi nghỉ, nghe ngóng các hiện tượng động tĩnh xung quanh thấy không gì đáng ngại lắm, quyết định căng tăng móc võng ngủ để sáng mai đi tiếp.

Hai anh em nằm "trong khách sạn ngàn sao", sau một hồi trao đổi - dự kiến các tình huống, cách đối phó với địch có thể xảy ra cho ngày mai, rồi thiếp đi lúc nào cũng chẳng hay biết (tuổi trẻ mà). Vừa tờ mờ sáng, tiếp tục khăn gói tiến xuống vùng địch, trước mặt chúng tôi, trên đường đi luôn luôn phản chiếu cái cảnh tượng địch để lại tương đối rùng rợn: rừng tan hoang - trống trơn, nhiều công sự địch, nhiều con đường chúng mở ra phía ta… Theo phương châm đi nhẹ - nói khẽ, đến 15 giờ chiều cùng ngày, chúng tôi tiến được khoảng 6 km an toàn, tìm được nơi thích hợp ở cao độ 540 m bên khe suối, cách đồi 614 hơn 1,5 km về phía Tây chốt, nghỉ bàn tiếp chuyện ngày mai.

Anh Cao chuẩn bị cơm nước, tôi mở rộng bán kính tuần tra khoảng 500 mét nhìn thấy đó đây cũng đều toàn là rừng tan hoang và công sự địch để lại như các chặng đường đã vượt qua. Trở lại về điểm xuất phát không ngờ được chứng kiến cái cảnh sướng ơi là sướng: Cái anh Cao này, sao mà giỏi quá chừng? Không chỉ cơm ngon, rau rừng ngon, mà có cả thịt trăn ngon! Mừng quá trời, nhưng đâu dám kêu lên thành tiếng, chỉ thầm nghĩ: “Cái ông này! Nếu còn sống sau này vợ ông nó mới sướng hết cỡ đây!”. Cùng cười khẽ và chén một bụng đã thèm, no nê thoả thích.

Cơm nước xong lại bàn chuyện âm mưu thủ đoạn của địch và đã đi đến thống nhất nhận định: Sau thời gian không có quân ta hoạt động, đại quân chúng thị uy dàn quân chốt giữ để ra oai với nhân dân rằng là chúng đã chiến thắng, nhưng không thể chốt lâu vì phải rút về ứng cứu cho các mặt trận khác. Số địch còn lại chỉ là địa phương quân không đáng lo ngại lắm, việc mở đường bám lại địa bàn là thực hiện được. Điều đáng chú ý nhất có thể là các hàng rào bằng mìn mà chúng để lại, rồi cùng quyết định sáng hôm sau quay về căn cứ báo cáo tình hình, xác định quyết tâm tổ chức lực lượng xuống bám địa bàn, bám dân.

Hai anh em chúng tôi trở về cả đội thở phào nhẹ nhõm. Tất nhiên vẫn luôn gặp không ít khó khăn, nhưng cánh Tây – Nam thị xã Kon Tum đã được tiếp tục mở ra, duy trì và phát triển không ngừng cho đến ngày giải phóng toàn tỉnh 16/3/1975 và cũng là cánh quân tiến vào thị xã đầu tiên nhất.

Tôi đề nghị anh Prép tổ chức cuộc họp toàn đội, nghe báo báo tình hình và bàn cách tổ chức lực lượng xuống tới địa bàn móc nối lại cơ sở bên trong. Cuộc họp không được sôi nổi lắm, nhưng cuối cùng cũng quyết định được 5 anh em chuẩn bị sau 3 ngày sẽ lên đường. Đến ngày thứ 2 thì nhận được công văn Thị uỷ gọi anh Nguyễn Cao về phía Bắc, tôi lại tiếp tục đứng mũi chịu sào, cùng 4 anh em vượt sông. Chuyện vượt sông cũng là cả vấn đề lớn. Tôi không biết bơi, mỗi lần vượt sông Pô Kô đều có anh em đi cùng dìu qua đoạn bị hổng chân, lúc này may sao đoạn ấy chỉ còn khoảng 10 mét lại nằm sát bên bờ phía đông sông. Hôm tôi và anh Cao đi thì cả 2 cùng lội đến đoạn ấy anh dìu qua luôn, nhưng lần 5 anh em cùng đi thì không thể, tôi lội qua trước, bố trí 4 Đ/c còn lại là anh Minh, Dết, Lam, Púp nằm bên này sông sẵn sàng bắn yểm hộ tôi quay lại, khi thấy tôi hy sinh ( tức là đã bị trôi đi ) thì khẩn trương rút lui, nếu không xảy ra tình huống xấu - khi nào tôi vẫy tay hãy lội qua dìu tôi vào bờ. Bàn tính - dự kiến là như vậy nhưng rồi tất cả đầu xuôi đuôi lọt cả.

Lặp lại hành trình cũ đến địa điểm lần trước tôi cùng anh Cao tập kết được ăn thịt trăn ấy, khi đã bàn lúc còn ở nhà và cũng như những năm trước sẽ cắt dọc theo tuyến rừng Lâm Tùng thuộc xã Ya Chim xuống. Nhưng đến bây giờ anh em còn nhiều e ngại, kiêng kỵ, tôi quyết định dẫn bọc đi theo tuyến tây Plei Po Tau (Plei Lâu Ngo) xuống phía Plei Cho rồi quay trở về địa bàn cũ (giữa Tân Điền và Plei Kruâng). Phải đi đường vòng quá xa, mất cả ngày và vô cùng căng thẳng trước những cảnh tượng địch để lại, mệt gần chết. Thật ra tuyến này cũng chẳng an toàn gì, thậm chí có thể còn nguy hiểm hơn, nhưng vì lạ nên mọi người có vẻ yên tâm nên đành phải vậy.

Thực hiện được Nghị quyết của Thị uỷ, ý kiến chỉ đạo của Đ/c Mai Tân trong lòng tôi thật vui mừng khôn tả, nhưng không thể nào nở được nụ cười mãn nguyện ra môi, bởi chúng tôi và tôi đã – đang ở giữa vùng địch hậu, bao khó khăn nguy hiểm luôn rình rập quanh mình, là vùng đất – vùng dân địch hết sức chú ý.

Tuy nhiên, nhìn chung các hoạt động của đơn vị tôi diễn ra tương đối thuận lợi cho đến cuối tháng 12/1973 vẫn chưa có Đ/c nào hy sinh. Thắng lợi của ta quá rõ ràng, tư tưởng hoà bình chủ nghĩa càng nảy nở mạnh, gây không ít khó khăn cho quyết tâm bám trụ địa bàn.

NĂM 1974


Thị Uỷ bố trí Đ/c Tuấn (sau giải phóng có chức vụ cao nhất phó Bí thư Thị Uỷ) đến phụ trách đơn vị chúng tôi tạm thời thay anh Trần Quang Hiền đi học chính trị. Anh Tuấn mang theo chủ trương Tổng kết công tác 2 năm xây dựng Chi bộ (xây dựng Đảng), với lý do mới qua nên giao cho tôi dự thảo. Tôi thành thật báo cáo trình độ - năng lực em còn quá non, tuổi mới 22, cũng chỉ được 1,5 năm tuổi Đảng; chi bộ mới củng cố lại từ tháng 6/1973 khó quá! Anh động viên tôi cố gắng, cứ viết anh sẽ xem và sửa. Chẳng còn cách nào khác, tôi đành viết vậy và may thay, khi xong anh bảo tôi đọc anh nghe (đời tôi chưa hề biết bốc phét), đọc đến đâu anh gật đầu đến đó. Cuối cùng anh cho một câu vừa sướng cả người, nhưng cũng vừa lo quá chừng: “Mới hết tiểu học, hơn 1 tuổi Đảng, đặc điểm của Chi bộ như vậy mà em viết được như thế này thì anh hết chỗ chê rồi đấy, chú ý khiêm tốn nhé!”. Rồi giao cho anh, anh cũng chỉ sửa chữa vài lỗi chính tả và vài câu thôi. Sau 3 tháng Đ/c Trần Quang Hiền trở lại về tiếp tục chỉ đạo đơn vị chúng tôi.

Vào khoảng đầu quý II, Thị Uỷ cử tôi đi dự Đại hội chiến sỹ thi đua tỉnh đồng thời trực tiếp viết và báo cáo điển hình những kết quả đơn vị đã thực hiện được năm 1973 cùng anh Bùi Thái Kỷ (nay nguyên là Tỉnh Uỷ viên đã nghỉ hưu). Báo cáo tuy được cả hội trường hoan hô là do các sự kiện thật và sinh động, nhưng không được như 2 lần trước bởi phải chịu những tác động vô hình làm giảm đi bản năng tự nhiên của chính tôi.

Từ tháng 01/ 1974 địa bàn chúng tôi được lần lượt đón tiếp nhiều lực lượng tăng cường đến như: Huyện đội H67, cán bộ Dân chính – Du kích H67, thị đội, các lực lượng khác, đặc biệt có tiểu đoàn 42 chủ lực là tiểu đoàn độc lập trực thuộc Bộ tư lệnh Tây Nguyên (B3).

Địch tung ngụy quân ra, bộ đội tiểu đoàn 42 ta áp vào.

Có thể nói đội công tác chúng tôi là một lực lượng khá tinh nhuệ. Trong quá trình tiến – lùi – lách qua các cuộc hành quân chốt điểm dã chiến, các ổ phục kích của địch để bám đất - bám dân, thì bộ đội tiểu đoàn 42 ta cũng không kém phần trong tác chiến. Từng trận - từng trận đánh diễn ra tuy không lớn, khốc liệt như trước nhưng cũng đã để lại bao dấu ấn bi ai cho phía địch. Hầu như các cuộc hành quân của ngụy ra vùng giáp ranh giữa ta và địch đều bị tiểu đoàn 42 ta tập kích tiêu diệt hết, một số trận chúng cũng chẳng tổ chức lấy - mang xác các chiến hữu của chúng về được. Những ngày tháng ấy ,mình thấy rất hả lòng - hả dạ, nhưng sau này mỗi lần nghĩ lại là rùng mình.

Trong suốt quá trình tác chiến đến khoảng quý 4/1974 (trên điều đi nơi khác) tiểu đoàn 42 ta bị thương nhẹ và vừa khoảng chừng 4 - 5 Đ/c gì đó, chỉ hy sinh 1 người do nước cuốn không thể cứu và tìm xác được khi vượt sông Pô Kô. Chuyện nghe như không tưởng nhưng điều đó hoàn toàn là sự thật.

Về phía lực lượng H5 nói chung, đội công tác chúng tôi nói riêng, ngoài các hoạt động phải thường xuyên bám đất, bám dân, tổ chức gọi loa tuyên truyền chính sách của ta, cũng đã phải chạm trán với địch nhiều lần, nhưng hầu hết đều chủ động tránh được. Xong cũng phải 6 lần chạm trán, trong đó có 2 lần hy sinh 2 đ/c, 2 lần hy sinh hụt cả 2, lần thứ 5 chúng tôi và địch cách nhau 4, 5 chục mét (tại điểm cách UBND phường Trần Hưng Đạo ngày nay về hướng tây gần 2 km), lần thứ 6 ta không nổ súng mà bắt sống cả 3 tên rồi thả luôn, nhằm thực hiện chính sách binh vận.

Mở đầu là vào khoảng đầu năm 1974, anh Nguyễn Cao liên lạc - hy sinh hụt trên đường mang công văn xuống địa bàn chúng tôi. Tại đoạn đầu rừng Lâm Tùng, anh chạm phải một đại đội Ngụy, không biết chúng hốt hoảng cái kiểu gì nên nổ súng xối xả mà chẳng xước được chút da nào của anh. Có điều anh được một trận chạy bán chết - bán sống!

Lần thứ 2 - hy sinh hụt, khoảng tháng 3 gì đó. Chúng tôi có 5 người gồm: Tôi, A Hoa, Y Bon thuộc H5; A Triêm lúc bây giờ là huyện Uỷ viên và 1 du kích (rất tiếc không nhớ được tên) thuộc H 67 là lực lượng phối hợp, trên đường xuống địa bàn đến đoạn phía Tây Plei Lâu Ngo thì tao ngộ cũng với khoảng 1 đại đội ngụy trong tình huống khá éo le – ly kỳ. Địch đang ngồi nghỉ trên đồi – chúng tôi đang lom khom lên đồi, đến lúc cách nhau khoảng 40 mét gần như cả hai bên cùng lúc phát hiện ra nhau. Không còn cách nào kịp thời hơn, tôi đứng nguyên, nghiêng người giương súng bóp cò, may là đã hạ gục được ngay tóp đầu. Tôi ra hiệu phía sau rút – rút , A Hoa dẫn A Triêm, Y Bon rút chạy, nhưng Đ/c du kích thì vọt lên bên trái tôi chiếm cái ụ mối hai anh em làm mấy loạt nữa rồi cùng rút chạy. Và cũng như trường hợp của anh Cao, chúng bắn xối xả nhưng chúng tôi cũng chẳng hề hấn gì.

Lần thứ 3, anh A Lam - A Púp trên đường mang công văn xuống địa bàn, cách nơi chúng tôi ở khoảng 1 km thì vướng phải mìn lay mo. A Púp đi trước hy sinh ngay tại chỗ, anh Lam người mang công văn bị thương nhẹ quay ngay lại về căn cứ. Cũng may chứ nếu gặp phải hướng mìn ngược chiều thì anh Lam cũng không thể sống được.

Lần thứ 4 anh Dũng hy sinh, vào khoảng thời gian đầu tháng 9/1974 dương lịch cũng do tao ngộ với nghĩa quân Tân Điền. Lần này có anh Hoàng Lệnh, anh Tường, anh Bảo bên Công an thị, lúc này tôi đang học chính trị ở trường Chính trị tỉnh.

Lần thứ 5, cuối tháng 10/1974 chúng tôi 7 người gồm: đơn vị tôi - có tôi, anh Minh (sau giải phóng hay gọi anh Minh nhà đất, nay anh đang ở đối diện với rạp 17/3 đường Hoàng Văn Thụ), anh A Lam; đội công tác trung đoàn 95 có 2 anh; Công an thị có 2 anh gặp phải tình huống như đã khái quát ở trên - hết sức khó xử lý! Hôm ấy lại gặp ngày trời nắng gắt, ở bên nhau nhưng địch không thấy ta, mà ta thì thấy chúng khoảng một đại đội hành quân dã chiến. Không biết thế nào, khi gần đến chỗ chúng tôi đang ẩn nấp trong những lùm cây khô, chúng cũng chốt lại nghỉ ngơi, nấu nướng - ăn uống hả hê, chẳng cần biết có ta đang lăm lăm tay súng hướng về phía chúng. Tôi nghĩ ngay, nếu ta nổ súng tiêu diệt nó thì cũng không xong, mà rút ra xa chúng một chút về cả 3 phía (lui lại, bên phải, bên trái) phía nào cũng không được vì đều phải vượt qua khu vực trống rộng mênh mông. Tôi quyết định tất cả nằm im theo dõi đến phút cuối cùng (anh – em trách tôi quá chừng), khi phát hiện chúng thấy ta thì ngay lập tức nổ súng tiêu diệt số ở gần ta rồi rút lui và như vậy đương nhiên chấp nhận điều kiện rất có thể hy sinh trên đường rút. Gần 1 ngày dự đoán, xác định với nhau chấp nhận hy sinh khi súng nổ, tột cùng căng thẳng và sẵn sàng là vậy! Xong đến chiều vẫn chưa ai bắn ai, tự quay về trong yên lặng.

Lần thứ 6 cả hai bên bình an vô sự, khoảng cuối năm 1974. Trên đường xuống địa bàn cách làng Kép Ram (còn gọi là Klét, thuộc xã Hoà Bình bây giờ) 1,5 km về phía Tây - Bắc, ta 7 người (có cả anh Trần Quang Hiền – Bí thư chi bộ, anh A Lập lúc này là cán bộ tăng cường), chúng tôi tao ngộ với 3 địa phương quân Ngụy. Lần này tôi đã phát hiện ở tầm ước chừng 100 mét, theo nguyên tắc bí mật phải tìm cách ẩn ngay, nhưng rừng thì trống hoang, đâu thể kịp, do đó tay súng tôi sẵn sàng chú ý về phía địch nếu chúng ngẩng mặt lên là tôi nổ súng tiêu diệt ngay (tôi thuộc loại bắn súng không tệ). Tôi quyết định không báo hiệu cho phía sau, trong tình huống này mà báo hiệu cho phía sau nếu có đ/c nào đó thiếu bình tĩnh thì độ nguy hiểm rất cao. Có thể nói rất may, đội hình ta đi thường thì người cách người từ 7 đến 10 mét phải quan sát phía trước và cả hai bên, nhưng chẳng ai để ý đến phía trước tôi. Tôi giảm tốc độ, phía sau cũng giảm tốc độ, 3 tên Ngụy cũng chẳng nhìn lên, cứ xăm xăm đi tới, đến độ 30 mét tôi hô: “Đứng lại! Bỏ súng xuống! Giơ tay lên!” - Nó giật mình, ngẩng mặt lên ú ớ, rồi thả súng xuống. Tôi yêu cầu bước tới để nói chuyện, nó làm theo. Anh em ta đi sau tôi cũng hoàn toàn bất ngờ và cũng có thể nói là tá hoả. Chúng tôi tuyên truyền chính sách Mặt trận Dân tộc Giải phóng một hồi rồi cho chúng đi, chúng năn nỉ xin lại súng với lý do nếu mất súng chúng sẽ bị tra tấn, tù đày. Sau một hồi xem xét, ta tháo ra rồi cho chúng luôn, chúng rối rít cảm ơn và mừng vô cùng. Đây là cách làm trong trường hợp hoạ vô đơn chí nhưng lại rất có lợi cho ta về binh địch vận.

BA THÁNG ĐẦU NĂM 1975.

Trước Tết năm 1975, C14 - đặc công Thị đội đến phối hợp chúng tôi, nhờ chúng tôi đưa đường đến bờ nam sông Đắk Bla để thực hiện nhiệm vụ chuẩn bị sau Tết các anh đánh vào khu cảnh sát dã chiến lúc bây giờ đóng ở góc Tây - Bắc cầu Đắk Bla (nay là chỗ cơ quan Liên đoàn Lao động tỉnh đang làm việc).

Đêm buông xuống, tôi trực tiếp dẫn đường tổ 5 người vượt cánh đồng Tân Điền – băng xéo qua sau Trại phong, men theo phía bắc Phương Hoà, nay thuộc xã Đoàn Kết và phường Nguyễn Trãi. Lại một lần tao ngộ với địch nữa, nhưng được màn đêm, hàng tre chạy dọc theo rìa Bắc Phương Hoà che chở, cùng với khả năng ứng phó nhanh nhạy, chúng tôi thoát được nguy cơ bị lộ, phải nổ súng - mà như vậy là sẽ hỏng hoàn toàn kế hoạch mục tiêu lớn đã định trước.

Sau Tết 1975, địa bàn tôi khá đông vui, nhộn nhịp nhưng toàn là các lực lượng địa phương, do Đ/c Trần Đình Chi (Đ/c Bọk) Tỉnh Uỷ viên chỉ đạo chung. “Đại bản doanh” đặt ở đoạn gần cuối rừng Lâm Tùng, giữa Plei Po Tau (Lâu Ngo) và Plei xa. Vui thời đã thật quá vui, nhưng khổ thì cũng ơi là khổ, bởi có thể nói hầu như tất cả đều dựa vào đơn vị tôi và cái thằng (Tôi) phải ra thân gánh chịu như con thoi.

Ngày 10/3 Đại quân ta đánh chiếm Buôn Mê Thuột, đêm 12/3, C 14 đặc công Thị đội đánh vào khu cảnh sát dã chiến đã chuẩn bị từ trước tết (nhưng đánh nhầm vào khu thương phế binh ngụy ở liền kề) như nói trên.

7 giờ sáng 16/3 được tin A Hơn (cơ sở ta người gốc làng Chứ xã Ya Sia, Sa Thầy, đang cơ trú tại Plei Lây, xã Ya Chim do Đ/c A Lập móc nối được) báo cáo địch ở thị xã Kon Tum đã rút chạy hết rồi. 7giờ 30 có 2 tiếng nổ rền trời từ trong nội thị dội ra, để bảo đảm nguyên tắc cảnh giác Đ/c Trần Đình Chi hai lần cử trinh sát đi kiểm tra tình hình. Tôi là người được Đ/c cử đi kiểm tra lần thứ 3, kết quả báo cáo đúng như cơ sở báo tin, lúc này đã 8giờ 30.

Đ/c No được giao mang công văn hoả tốc về căn cứ báo cáo, nhưng đến 9 giờ 30 gì đó thì gặp được đoàn của Đ/c Nguyễn Thế Vũ Bí thư Thị Uỷ, Đ/c Nhất (Vinh) Bí thư H 67 trên đường đi xuống địa bàn chúng tôi, đoàn có mang theo đài 15 W nên tin được kịp thời cấp báo về Tỉnh Uỷ lúc bây giờ đóng ở Đắk Tô. Lực lượng của tỉnh, các lực lượng đóng trên địa bàn tỉnh sôi động chuẩn bị đến sáng 17/3 thì tiến vào tiếp quản nội thị.

9 giờ sáng ngày 16/3 Cánh Tây Nam chúng tôi lần lượt tiến vào tiếp quản từ làng Lây xuống làng Xa (Sa), Tân Điền, Phương Hoà. Đ/c Trần Đình Chi bám sát đơn vị tôi đến Phương Hoà 1 để chỉ đạo, nhóm cuối cùng do tôi dẫn đầu tiếp quản trong ngày 16/3, đến Phương Hoà 2 thì hết quân. Qua ngày hôm sau tiếp tục tiếp quản tới các khu vực Lê Lợi, Chư Hreng ngày nay.

H5, Tây – Nam thị xã Kon Tum trong tôi một chặng đường ngắn ấy biết bao nhiêu câu chuyện dài, còn nhiều Đ/c, đồng đội đến công tác như anh Nuôi, Anh Đây, anh Lắm, anh Cầu lúc bây giờ là chính trị viên thị đội, các anh ở đội trinh sát chiến dịch của quân khu V ... Nhiều trường hợp không thể nhớ và nhiều trường hợp còn nhớ nhưng chưa thể phản ánh được hết trong hồi tưởng của tôi lần này.

H5 sơ lược một chặng đường trong đời tôi, Vinh quang và bi tráng; khốc liệt và lặng yên, địch với ta và ta với ta. Hơn 33 năm đã qua, hoài niệm, tồn tại, trải nghiệm, chiến tranh và hoà bình, chính nghĩa và phi nghĩa, định hướng tới tương lai, sống là không ngừng học tập - lao động bằng mọi cách theo khả năng của mình đến hơi thở cuối cùng.

Từ lâu rồi! Tôi cũng tự biết rằng lực đã bất tòng tâm mà lòng sao vẫn cứ thanh niên.

Bước vào tuổi sáu mươi, nhìn lại có thể nói vinh quang của Tổ quốc, quyền được làm công dân độc lập, tự do, hạnh phúc của mọi người là kết tinh biết bao nhiêu hy sinh, mất mát, về máu xương, của cải, bao đắng - cay, chua – chát, đau đớn chồng chất về tinh thần của bao thế hệ người Việt Nam yêu nước chân chính, cộng sản chân chính của cả dân tộc, trong đó có đời tôi, phát sinh không chỉ từ quân cướp nước – bán nước, mà còn từ đồng đội và những người quản lý tôi, không chỉ trong kháng chiến chống ngoại xâm mà còn xuất hiện khá gay gắt ngay cả ở thời bình qua 37 năm kể từ sau 30/4/1975.

Thật thấm thía những nội dung của học thuyết Mác – Lê Nin chỉ ra các mâu thuẫn về giai cấp, địch ta và mâu thuẫn nội bộ.

Ngẫm lại, tôi càng cứ mãi mong sao dân tộc và giai cấp, tổ quốc và trái đất này luôn vun đắp cho những người yêu nước chân chính, cộng sản chân chính hôm nay và mai sau sớm hoàn thành ước nguyện xây dựng được chế độ Xã hội chủ nghĩa, để rồi cùng tiến lên Cộng sản chủ nghĩa theo quy luật phát triển của loài người.

Có lẽ nào lực lượng sản xuất, tự động hóa sản xuất phát triển cứ phục vụ cho chiến tranh, cho cướp bóc nhau mãi sao.

./.

KHÔNG ĐỀ


Lê Tùng Lâm, 14/5/2008.
Đối mặt với quân thù ta lòng gan - dạ sắt

Vì nhân dân kính trọng suôt đời

Học thuyết Mác – Lê Nin luôn sáng ngời chân lý

Xây dựng cơ đồ giải phóng Công – Nông

Tổ Quốc ơi! Đau đớn còn chất chồng

Và giai cấp vẫn đang đầy khốn khổ

Hỡi triệu trái tim và bao tư duy mới cũ

Chỉ một con đường

Hãy phát triển đúng học thuyết Mác – Lê Nin

Các dân tộc đều vinh quang, xã hội luôn hoà bình

Sản xuất hàng hoá không ngừng tuôn chảy

Người với người thôi cảnh hại nhau

Thế giới đa màu mãi hạnh phúc muôn đời sau

./.
MÂY NGÀN XANH



Lê Tùng Lâm, 27/7/2005.
Triệu trái tim dồn cho tổ quốc tái sinh

Thắm màu cờ máu liệt sỹ thương binh

Tạc vào thời gian tưởng niệm linh hồn các anh

Liệt sỹ, Thương binh thời đại Hồ Chí Minh

Khát vọng hoà bình theo thuyết Mác - Lê Nin

Bước lên xã hội công bằng văn minh

Tiến lên dân giàu, nước mạnh quang vinh

Chủ nghĩa cộng sản dựng xây loài người quang minh

Sáng mãi tên người Hồ Chí Minh, Mác - Lê Nin

Sắt son người người quyết tiến tới tương lai

Việt Nam trên đường vượt qua bao chông gai

Việt Nam tự hào trong thế giới hôm nay

Liệt sỹ, Thương binh thời đại Hồ Chí Minh

Tự hào trí thức, công, nông, binh liên minh

Tự hào Việt Nam của bao Liệt sỹ, Thương binh

Việt nam anh hùng, sắt son quang minh

Việt nam thanh bình ơn người kháng chiến quang vinh

Việt nam chung tình thế giới văn minh

Việt Nam Trung thành thời đại Hồ Chí Minh, Mác - Lê Nin

Chủ nghĩa cộng sản dựng xây loài người anh minh

./.
ĐÔNG XUÂN 1966-1967

Lê Tùng Lâm, kỷ niệm Tu Bung xuân 1967.
Nhớ từ mảnh đất Tu Bung

Hai hai ngày đêm, B52 dội rung núi rừng

Đài Sài Gòn tuyên bố

Bốn nghìn cộng quân chết

Mất ăn tết năm mùi

Bao người nghe thấy bùi ngùi xót xa

Chú bắt gặp cháu rung đùi Bên hầm chữ A

Đơn vị đánh giá, loại phản gia

Tôi rằng hy sinh, bị thương chỉ có ba

Ban Tiền Phương một, làng Tân Ba hai người

Dẫu khóc cũng phải bật cười

Bọn nói láo, bịp người cả tin

./.

Làng Tu Bung, xã Ngọc Lây, Đắk Tô.

Ban Tiền Phương chị Nguyễn Thị Thi hy sinh.

Dân làng Tân Ba, bị thương 2 người.
BOM CHU

Lê Tùng Lâm, Kỷ niệm: 5/1969
Bom chu, củ sắn, khoai lang

Tàu bay, nút áo, hả hê một nồi

Lại thêm rau má, mã đề

Ăn vô giải mát qua luồng heo may

Quên sao được, những ngày tháng ấy

Mùa mưa năm một chín sáu chín đó chị ơi

Em sốt rét, chị bị thương hàn

Chị, em tương trợ qua từng sớm trưa

Đây NgoK Linh, núi rừng thanh vắng

Tiếng ve sầu và Vượn hót xa xa

Không nản chí, mà càng quyết chí

Quyết cùng đi với đội ngũ điệp trùng

Góp phần giải phóng thành công

Quê hương cờ mở, tổ quốc mai tươi hồng

Dẫu ta thân xác chẳng còn

Dân ta xây dựng non sông giống nòi

Đảng Cộng sản soi đường chỉ lối

Công - nông - binh - trí thức tiến lên

Việt Nam vượt thác băng ghềnh

Việt Nam hạnh phúc cùng người năm châu



./.

Bom chu (tiếng dân tộc Xê Đăng là củ dong, củ chuối quê tôi gọi là củ mình tinh tây);



Chị Tám, còn gọi là Tám Ánh (lúc này biên chế thuộc Ban Binh Vận tỉnh, sau là CB H5, có chồng tên Ánh).
Tiếp theo sẽ là: 37 năm, sau ngày 30/4/1975 (Chiến trường mới)

tải về 365.93 Kb.

Chia sẻ với bạn bè của bạn:
1   2




Cơ sở dữ liệu được bảo vệ bởi bản quyền ©hocday.com 2024
được sử dụng cho việc quản lý

    Quê hương